Những cơn mưa mùa hè kéo dài lây lất trong những tháng vừa
qua, đến nay chưa dứt hẳn gợi trong tôi bao nỗi xót xa cho quảng đời thơ ấu đầy
nghiệt ngã, nó ray rức âm thầm xoáy nhẹ vào tim mỗi khi có mưa gió dồn dập thổi
tới. Những hình ảnh ngày xưa nơi quê nhà, thuở tôi còn bé, cứ đeo đẳng mãi
trong lòng, suốt cả đờì nầy.
Trong mái nhà
tranh rách nát, dưới bếp tro tàn , cạnh giừơng ngủ bằng tre, cả nhà tôi đang ngồi
ăn buổi cơm trưa thật thanh đạm: một nồi khoai lang mới vừa rã luống hồi chiều
đủ cho cả nhà ăn một bữa no nê. Những bữa cơm như vầy vẫn thường xảy ra từ ngày
nầy qua tháng nọ vào những năm mất mùa,lúa thóc không đủ ăn, rồi nạn đói mùa
thu 1945, khiến nhà nhà thiếu ăn thiếu mặc,
nhiều người bị chết vì đói.Thỉnh thoảng được ăn một bữa cơm độn khoai là may lắm
rồi. Vậy mà chúng tôi vẫn lớn nhưng thân thể thì ốm o gầy còm như thân tre đang
phất phơ trước gió. Mấy thửa ruộng trước nhà không đủ lúa gạo nuôi một gia đình
năm con đang sức lớn. Để chuẩn bị lương thực cho cả nhà trong những ngày cuối
thu, ba tôi đã cuốc đất trồng thêm mấy vồng lang quanh nhà bổ sung cho lúa gạo
thiếu hụt. Còn Má tôi thì thức khuya dậy sớm buôn tảo bán tần, quảy đòn gánh nặng
trĩu, chất đầy hai thúng: trầu cau, bầu bí, đôi khi có con gà con vịt,
đem bán tận làng Rừng Dầu (thuộc quận Bến Cầu tỉnh Tây Ninh) cách xa nhà độ 4
cây số, vậy mà cuộc sống vẫn lầm than cơ cực. Bịnh hoạn đau yếu thường xảy đến
cho chị em chúng tôi nhưng chẳng ai có một
viên thuốc Tây hay một chén thuốc Bắc để uống.
Nhiều khi tôi tự hỏi làm sao chị em tôi có thể sống sót qua một thời
gian dài đói khổ như vậy? Ắt hẳn là Trời thương nên cho chúng tôi được sống.
Càng nghèo khổ tôi càng thương cha mẹ nhiều hơn, trong lòng tôi thấm đẫm sự
gian khổ của cha và nỗi nhọc nhằng của mẹ.
Nhìn những giọt mưa rơi tí tách dưới mái
tranh hay thánh thót trên vũng nước ngoài sân, tôi có cảm tưởng như đó là những
giọt mồ hôi của ba tôi nhễ nhại rớt xuống ruộng đồng trong buổi trưa cày ruộng
hay những giọt mồ hôi của mẹ rơi dài trên quảng đường xa tới chợ. Tôi cảm nhận sâu
sắc sự cực khổ của đấng sinh thành. Đời tôi gắn liền với luống rau, bờ đê,con
cua, con cá ...nên tôi yêu quê hương tôi biết chừng nào! Vậy mà sao tôi đành bỏ
đi?
Vào một sáng cuối
hè năm ấy (1947), từ sáng tinh sương, ba tôi xách một bao bố tơi , vai vác rựa
đi lên rừng thật sớm, khi chiều tắt nắng
trên cánh đồng lúa mênh mông cũng không thấy ba trở về. Cả nhà lo lắng, má tôi
cũng chẳng biết sáng nay ba đi đâu vì ba không báo trước nên má cứ tưởng ba đi
chặt cây, đốn củi đâu đó. Trời bỗng vần vũ, mây bay gấp, gió lộng từng cơn, rồi
thình lình một trận mưa ào ào trút xuống, bầu trời tối đen. Cả nhà đều sốt ruột
chờ ba. Từ xa, trong màn đêm mờ mịt của nước mưa, bóng một người lù lù tiến tới.
Ba! ba! tôi la lên mừng rỡ. Ba dỡ cái nón lá rồi thảy bao bố nặng trịch xuống nền
nhà, ba cho biết đó là "khoai nần"
( loại khoai rừng giống như khoai từ, khoai cau, ăn sâu dưới đất khó đào, thân
dây ). Ba nói tiếp: "Đây là thức ăn độn với khoai lang, củ sắn hoặc gạo,
nhưng phải xắt mỏng, ngâm nước muối cho tan chất độc vài ngày mới ăn được".
Vậy là ngoài khoai lang chúng tôi còn có củ nần nầy nữa để ăn độn qua ngày. Tôi
cảm nhận được sự lo lắng của người cha, sợ vợ con bị đói nên lên rừng tìm thêm
thức ăn, tư dưng tôi nghe nghèn nghẹn trong cổ họng khi nhắc tới kỷ niệm nầy.
Chiều nay nắng vàng chưa tắt mà hoàng hôn đã
xuống rồi, bóng tối tràn về thật nhanh, âm thanh gọi nhau ơi ới của trẻ mục đồng
đã im bặt từ lâu. Má tôi đã sẵn sàng dọn cơm cho bữa ăn chiều mà theo lẽ bắt đầu
lúc trời còn sáng. Chúng tôi đứng quanh quẩn bên bếp còn riu riu lữa than, đợi
bữa ăn. Ai nấy có vẻ đói bụng hơn mọi lần vì chiều nay má nướng mấy con cá rô
do ba bắt được nhân đi thăm ruộng bên ngoài lũy tre phía trước. Bữa cơm tuy đạm bạc nhưng không kém phần hấp dẫn: khoai
lang độn ăn với nước mắm đồng, muối ớt cay, một rỗ rau càng cua, vậy mà ngon tuyệt!
Chị em chúng tôi ăn no, căng bụng quên thôi, nhờ mấy con cá rô nướng dầm nước mắm
thơm phức. Niềm hạnh phúc mênh mông làm quên đi nỗi nhọc nhằn, xót xa. Nhưng niềm
vui mong manh ấy chẳng kéo dài được lâu, bỗng một hôm trên đường làng trở về
sau buổi học ở nhà thầy giáo Tiếu, một cơn mưa hạ trái mùa bất chợt đổ ập xuống
đầu tôi, mưa buổi trưa tối đất tối trời, tôi vội vả cắm đầu cắm cổ chạy nhanh về
nhà. Nhà trống trơn! Chị và em tôi ra trước cửa ngồi khóc rắm rít. Tôi không thấy
má ở đâu, chị hai bảo ba bị "ăn cướp" bắt rồi! Tôi thất thần khóc
thét lên, chay tuốt vô buồng ngục đầu xuống đất. Tuổi nhỏ tôi chưa hiểu rõ thế nào
là cướp của giết người, đòi tiền chuộc mạng. Tự dưng người ta đến bắt ba, nên sợ
bị họ giết, bỏ lại chị em tôi bơ vơ! Chiều má trở về nhà rưng rưng nước mắt, chị
em tôi cũng khóc theo. Bữa cơm chiều hôm đó không ai buồn ăn uống, cơn mưa kéo
dài cho tới nửa đêm. Những ngày nối tiếp không còn cơn mưa nào nữa, tin tức về
ba vẫn biệt vô âm tích. Má tôi cứ chạy đầu nầy đầu nọ hỏi thăm, sau cùng mới biết
nơi giam giữ ba ở khu rừng già phía trong. Bọn bắt cóc yêu cầu nạp tiền chuộc mạng,
má chạy tiền nạp cho bọn chúng, đưa ba về nhà sau gần một tuần lể bị giam giữ.
Tôi hứng chịu nhiều
cơn mưa nhưng trận mưa trái mùa năm ấy đã hằn sâu vào ký ức tôi một nỗi đau
không bao giờ nhạt. Sau lần đó, ba tôi cương quyết bỏ làng quê, nhà cửa ruộng
vườn, đưa chị em chúng tôi về miền đất hứa Chợ Cũ Tây Ninh xây dựng cuộc đời mới,
và tôi cũng xa quê từ đó...
Hơn nửa thế kỷ
trôi qua tôi chưa một lần về thăm chốn
cũ, nơi ngày xưa tôi từng bắt ốc hái rau, lội ruộng bắt cua tát cá...Vĩnh biệt
những cơn mưa buồn thảm trong đời!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét