31 thg 12, 2023

TIN BUỒN VÀ PHÂN ƯU (CGS. k,12 Châu Bich Thuận Tạ Thế 30/12/2023 )

Gia đình Sư phạm Sài Gòn vô cùng thương tiếc khi biết tin bạn CHÂU BÍCH THUẬN
Cựu giáo sinh lớp Nhị.19 K
12 SPSG. 

Chị ra đi đột ngột vào sáng hôm qua lúc 10h08'  Ngày 30/12/2023 .

Mạn phép thay mặt các anh chị em K12 cùng GĐ SPSG Chân thành chia buồn cùng tang quyến 

Nguyện cầu hương linh chị Bích Thuận được siêu thăng tịnh độ .
Đại diện khóa 12 .
Tuyết Hồng.


NÀNG THƠ KHẼ GỌI - Thơ Kim Trân

 


NÀNG THƠ KHẼ GỌI
 
Nàng thơ khẽ gọi kết đường tơ
MỘT chiếc lá rơi cũng thẩn thờ
MỘT ánh trăng soi hồn thổn thức
MỘT hàng liễu rủ gợi tình mơ
MỘT bông hoa dại tim lay động
MỘT bản nhạc buồn tím vẩn vơ
MỘT bóng đò trôi thương phận lẻ
MỘT lòng chung thuỷ để tôn thờ
MỘT làn hương thoảng đưa lời mộng
MỘT nét đài trang dạ ngẩn ngơ
MỘT cánh chim bằng ngời chí khí
MỘT người tri kỷ cả đời mơ
MỘT đêm cô tịch thêm niềm nhớ
MỘT ngọn đèn khuya thấp thỏm chờ
MỘT mạch sóng đời đi vạn nẻo
MỘT vòng tay ấm kết tình thơ
MỘT tiếng chuông ngân tâm thánh thiện
MỘT khối lòng nhân bốn biển chờ
 
Kim Trân thân tặng
Thân chúc ACE ngày cuối năm tràn đầy Niềm vui hạnh phúc

BIỂN GỌI MÙA XUÂN - Thơ Ngu uyên


Biển gọi mùa Xuân

  Biển trong xanh sóng vòn bờ cát trắng
  Biển gọi Xuân về nắng lụa vàng thêm
  Én bay nhanh chao nghiêng về phố thị
  Một nữa Xuân về dạo khúc tình ca
  Xuân vây quanh khắp mọi nhà
  Thì thầm ai gọi tên ta giữa đời...?!

                   Bài thơ cuối năm 2023
                                                    Ngu uyên

 

Câu chuyện đạo đức ngày xưa : Thầy trò

Năm nọ, cậu học trò dốt nhất lớp đến chúc Tết thầy… Ông đồ già quá ngạc nhiên vì trò này luôn chậm chạp nhất lớp lại đến chúc Tết thầy sớm nhất. Thầy hỏi:

- Sao con không đi cùng các bạn mà đến một mình?
Cậu học trò khoanh tay thưa:

- Tại vì con học dốt, nên con ngại đi cùng các bạn. Hơn nữa, nếu đi cùng các bạn thì khi đến, cả buổi thầy chỉ nói chuyện với những bạn giỏi thôi… Con sẽ không được trò chuyện cùng thầy…

Ông đồ trầm ngâm một lúc rồi sai vợ lấy ra một chiếc phong bao, một đĩa xôi với cái đùi gà. Thầy chỉnh lại vạt áo rồi nâng cái khay lễ lên, nói:

- Ngày Tết, thầy có lễ mọn biếu con. Thầy vui vì ngày đầu năm con đã cho thầy một bài học lớn. Con cũng là thầy của ta…

Cậu học trò dốt mặt tái xám, lắp bắp:

- Con xin lỗi thầy! Con nói gì không phải, mong thầy bỏ qua. Xin thầy đừng làm thế. Con sợ lắm…!

Ông đồ bảo:

- Không. Con không nói sai gì cả. Câu nói thật của con đã cho ta một bài học quý giá. Đã làm thầy thì phải biết đối xử công bằng với tất cả học trò. Dù là trò dốt, dù trò giỏi, dù gia cảnh trò khó khăn bần hàn hay giàu có thì người thầy cũng phải đối xử công bằng. Con cũng chính là thầy của ta…

Sau Tết đó, cả ông đồ và cậu trò dốt kia đều thay đổi. Cậu trò học tiến bộ rất nhiều, sau này thi cử đỗ đạt hiển vinh và được làm quan trong Triều .

Vậy ai cũng có ít nhất một người thầy và

ai cũng có thể trở thành một người thầy của ai đó…

Nguồn: ST

(Từ Cảnh chuyển )

30 thg 12, 2023

Nấm rừng mùa thu – Ara Phat

Nấm rừng mùa thu – Ara Phat

Ở Âu châu nhất là những nơi có rừng, bạn có thể tìm thấy nấm ở khắp mọi nơi, nhưng không phải lúc nào bạn cũng có thể hái chúng ở bất cứ đâu. Nhiều khu rừng thuộc sở hữu tư nhân .

Để có thể thu hoạch nấm mọc trên đất tư nhân phải có giấy phép. Việc hái nấm trái phép có thể bị phạt tùy theo số kg thu hoạch. Tuy nhiên, có đủ rừng công cộng cho phép thu hoạch nấm để tiêu dùng cá nhân. Các sách vở có ghi là “Ở đâu có cây lớn, cây lá kim hoặc cây rụng lá, ở đó thường có nấm ».

                      Nấm rừng trên bãi cỏ (photo Ara)

Hắn lại kể chuyện tai nghe mắt thấy khi hắn đi « hành thiền » nơi khu rừng La Cambre gần nhà, hắn ghi nhận được trên một thân cây có những tai nấm bám vào, loại này cũng ăn được, nhưng không ngon, chắc cũng như loại nấm mộc nhĩ, trong tài liệu về nấm ghi là Oreille-de-Judas, mà bên nhà có thấy trồng nơi thân cây so đũa .

Tại sao mùa thu có nấm? Những người gác rừng có nói chuyện với hắn là vì qua mùa hè, đặc biệt do ẩm ướt tạo điều kiện cho nấm phát triển để nhiều người đi hái….Mùa thu là mùa thích hợp để hái những loài nấm đặc biệt. Trước khi mạo hiểm vào rừng, điều quan trọng là phải ghi nhớ một số quy tắc để hái nấm thành công.
Chúng ta có một thành ngữ là « mọc như nấm », không phải nấm rừng tự nhiên mà mọc, chỉ có mùa thu mới bắt gặp chúng, chúng mọc ở hầu hết mọi nơi và các giống ăn được đặc biệt phổ biến với những người yêu thích ẩm thực ngon. Như vậy khi vào rừng thấy nấm ta thực sự có quyền thu hoạch tất cả nấm ở mọi nơi không? Cũng có những quy định cho việc hái nấm .
Sống nơi đất nước thượng tôn pháp luật, chuyện gì cũng có luật lệ riêng của nó, việc hái nấm cũng không ngoại lệ.
Ngày trước hắn sống ở Liège, nằm trong vùng nói tiếng Pháp hay còn gọi là vùng Wallon, vùng này cho phép vào rừng hái nấm .
Còn khi đi dạo trong khu rừng quốc gia, quyền hái nấm xem như được ngầm cấp. Còn những khu rừng nằm trong thành phố, tốt nhất nên tìm hiểu nơi chính quyền địa phương vì mọi thứ đều phụ thuộc vào địa phương cho phép hoặc theo một tập thể có hướng dẫn.
Các khu bảo tồn thiên nhiên thành lập để bảo vệ thiên nhiên nên việc hái lượm không được phép như ở vùng Flanders(vùng nói tiếng Hòa Lan) và Bruxelles việc hái nấm bị cấm, như trong khu rừng La Cambre/ Bruxelles hắn đang dạo chẳng hạn
Còn điều kiện thứ hai là chỉ có quyền hái đầy sô 10 lít mỗi ngày cho mỗi người, công việc hái nấm chỉ được phép trong ngày và sản phẩm thu được chỉ xử dụng với mục đích cá nhân và cấm dưới hình thức thương mại. Đó là luật !!!
Cũng cần để ý khoảng thời gian đi hái nấm ví dụ như vào mùa săn bắn, việc vào rừng bị cấm.
Hàng năm có những tổ chức đi hái nấm, họ là những chuyên gia về nấm, hướng dẫn tránh các loại nấm độc, có thể nguy hiểm tánh mạng và dĩ nhiên những cuộc đi chơi này có giá biểu của nó.
Hắn cũng được hướng dẫn vài loại nấm ăn được và loại nấm độc

                Nấm rừng ở Bois de la Cambre (photo Ara)


Hắn trước đây cũng có lưu giữ một số hình ảnh hắn ghi lại vào mỗi mùa thu cùng vợ dạo chơi trong những khu rừng quanh nhà.
Mùa thu ngoài chiếc áo khoác cho thế gian những rực rỡ, gió thu lại bắt đầu lành lạnh, mỗi khi ra ngoài cũng phải khoác thêm chiếc áo gilet, quấn thêm chiếc khăn quàng mang chút điệu đà.
Một biểu tượng khác của mùa thu, nhất là nơi những khu rừng vùng ôn đới, chính xác biểu tượng khác của mùa thu là « nấm rừng ».

                  Nấm rừng ở Bois de la Cambre (photo Ara)

                nấm mộc nhĩ (photo internet)

                   L’oreille de Judas (photo internet)

loại nấm tươi có vẻ ngoài ngon, « tai Judas » rất phổ biến trong ẩm thực châu Á. Loại nấm màu nâu hình tai hay mộc nhĩ, còn gọi là nấm mèo, hắn không hiểu tại sao có danh từ nấm mèo. Loại nấm này mọc trên thân cây.
Hắn có xem trong vài tài liệu thấy rằng loại « tai Judas » hay nấm mèo không ăn tươi vì khi còn tươi có chứa chất morpholine, dễ làm cho da bị ngứa. Đúng là loại này không thấy bán tươi, ngâm trong nước lạnh, mềm và nở lớn, dùng trong nhiều món ăn.
Chưng cá, làm giò thủ mà thiếu nó thì thiếu cái « sừng sực, dai , dòn », nhai không đã miệng.

                  Nấm rừng Angleur – photo Ara

                Nấm rừng Angleur – photo Ara

               Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Nấm rừng Angleur – photo Ara

Những loại nấm vợ chồng hắn dạo trong rừng thấy, loại nấm nào lạ hắn đều cất vào máy, nếu có dịp gặp gỡ những chuyên viên về nấm thì hỏi lại cho biết tên… có những người đi dạo rừng với hắn, là những người Bỉ sống từ nhỏ đến già nơi này họ bảo rằng những loại này không phải là nấm độc tuy nhiên ăn không ngon lành gì cả nên không ai hái, nếu độc nhà nước đã ghi bảng cho biết.

Để bảo vệ thiên nhiên có quy định hái nấm không được nhổ mà phải dùng dao nhỏ cắt sát gốc, để phần gốc còn lại tiếp tục nẩy sinh (photo internet)

Hắn có mua sách hướng dẫn các loại nấm độc và ăn được, tuy nhiên khi vào rừng còn có những loại nấm ngẫu nhiên nhìn thấy, nhiều hình thù khác nhau, màu sắc khác nhau nên không thể dựa hoàn toàn trên sách vở và hình ảnh trên sách, vì biết là một chuyện, còn nhận mặt lại là chuyện khác.
Poulseur là nơi cách nhà hắn độ hơn chục km, hắn vẫn lang thang nơi này chụp ảnh thiên nhiên, một chuyên gia nấm ở đây khuyên « Bất cứ ai muốn bắt đầu hái nấm dại đều phải tìm đến sự hiện diện và lời khuyên của một nhóm các nhà nấm học am hiểu. Tốt hơn hết là nên được các chuyên gia hướng dẫn » vì nhiều loại nấm ăn đươc tuy có hình dáng giống nhau mà có thể gây độc, thà không ăn còn hơn nhất là những loại nấm có mùi hôi, vị nhạt, đắng hay cay….
Trong số các loại nấm ăn được, hắn thấy có ghi:
La girolle hay chanterelle, Le cèpe, La trompette de la mort, Le rosé des prés hay agaric champêtre, L’oreille de Judas, La vesse de loup … hình ảnh những loại này trên mạng hắn gởi vào đây

La girolle ou chanterelle (photo internet)

Loại nấm hoang dã ngon nổi tiếng này trông giống như một chiếc phễu xếp nếp màu cam hoặc vàng. Nó phát triển trong thời tiết ẩm ướt dưới những cây rụng lá hoặc cây gỗ mềm, tốt nhất là nơi đất có tính axit.

La cèpe de bordeaux (photo internet)

Hắn thấy giống nút chai rượu Champagne lúc khui ra, nắp đậy màu từ nâu nhạt đến sậm, chân nấm màu trắng. Tìm nó thì tìm khu vực gần cây hạt dẻ, cây sồi… còn dưới tàn cây thông là loại Suillus bolete, còn loại màu đỏ hãy cẩn thận vì đó là Satan bolete; là loại nấm độc, hắn chỉ ghi lại lời của những chuyên gia nấm rừng.

La trompette de la mort (kèn tử thần) (photo internet)

Mang một cái tên rùng rợn nhưng kèn tử thần thực sự có thể ăn được, ngon ! Nó chỉ có cái tên « đoạt mệnh » vì khi phát triển lại vào khoảng Ngày Các Thánh. Có màu từ xám tro đến xám đen và hình loa kèn. Mọc ở những khu rừng ẩm thấp đầy lá rụng .

Le rosé des prés hay là agaric champêtre (photo internet)

Nấm này hắn có chụp ở rừng Angleur, gần nhà hắn, mọc nguyên nhóm, nắp nấm màu trắng đến màu beige, có các phiến mỏng màu hồng, hắn cũng tìm thấy nơi đồng cỏ như lời hướng dẫn mọc từ cuối hè đến tháng 10 và 11

La vesse de loup (photo internet)

Những loại nấm này hắn cũng thấy ở rừng gần nhà, có thể được nhận biết qua hình dạng đặc biệt của chúng, ăn được khi chúng còn non và bên trong có màu trắng. Hắn còn thấy loại giống như vầy mà lớn hơn nhiều .

Theo hướng dẫn của chuyên gia nấm, họ cảnh báo chúng ta rằng « để xác định một cây nấm cần phải có đầy đủ các yếu tố, phần mũ và phần thân hoàn chỉnh ». Thật vậy, một số loại nấm độc dường như có thể ăn được, nhưng chỉ phần gốc của thân cây mới có thể xác định được chúng một cách chắc chắn. Vì vậy, nếu nghi ngờ, hướng dẫn viên hái nấm khuyên chúng ta nên cẩn thận nhấc toàn bộ cây nấm lên.

  • Những loại nấm độc
Nấm “mũ tử thần” trông mỏng manh nhưng độc tính chết người, thấy là phải né - 2

Theo một nghiên cứu mới được công bố vào ngày 31/1/2023, loại nấm này sinh sản vô tính, có nghĩa nó không cần phải giao phối để phát tán các bào tử ở vùng đất mới. Khả năng sinh sản này khiến các nhà nghiên cứu ngạc nhiên, vì các mẫu DNA từ nấm “mũ tử thần” châu Âu cho thấy nó sinh sản hữu tính. Điều tương tự cũng xảy ra đối với nấm được thu thập từ New Jersey và New York.

Nấm “mũ tử thần” trông mỏng manh nhưng độc tính chết người, thấy là phải né - 3

Được biết, nấm “mũ tử thần” hiện giữ kỷ lục Guinness là loại nấm độc nhất thế giới. Nó là nguyên nhân gây ra nhiều vụ ngộ độc nấm khiến nhiều người mất mạng nhất trên toàn thế giới.

Nấm ô tán trắng phiến xanh) (Chlorophyllum molybdites)( photo internet)

Nấm mũ đầu lâu (Death Cap) (photo internet)

Nấm mũ đầu lâu (photo internet)

Nấm đôi cánh thiên thần (photo internet)

Nếu ăn phải một số loại nấm độc như nấm đôi cánh thiên thần hoặc nấm mũ đầu lâu, con người sẽ bị tổn thương gan, thận, hệ thần kinh, dẫn đến tử vong.
Tốt nhất là nên hỏi chi tiết qua các chuyên gia về nấm và những sách hướng dẫn, mà nấm càng đẹp càng bắt mắt càng nguy hiểm đến tính mạng. Càng đẹp càng nguy hiểm hình như là câu Hân Tố Tố dặn con trai Trương Vô Kỵ lúc sắp chết, câu này hắn chỉ nói đến nấm thôi chứ chẳng đụng chạm đến các tuyệt thế giai nhân đâu.

Hái xong 10 lít nấm, đem về nhà…các hướng dẫn viên cho lời khuyên chót trước khi ra khỏi rừng là những cây nấm không ở trạng thái tươi, bị hư, héo không nên mang về và cũng không nên đựng trong túi plastic vì khi nấm lên men, chúng trở nên độc hại, tốt nhất là xử dụng giỏ tre mây, chúng cứng nên nấm không bị nát vì khi nấm bị nát hầu như không rửa sạch được những đất cát lá cỏ trộn lẫn khiến nấm không ăn được.
Những câu chuyện chung quanh việc vào rừng hái nấm, nhờ đó mà có chút kiến thức, chút vui chơi thư giãn cho tuổi già chứ hắn cũng chẳng phải là người sành ăn và một điều hắn quan niệm thứ gì tiêu thụ quá mức cũng có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe. Cái gì lạm dụng quá cũng không tốt.
Mỗi năm một lần hắn làm món bí đỏ nhồi thịt, hạt dẻ và nấm rừng(potiron farci) một lần là đủ.
Ara

Đồi Delta Auderghem/ Bruxelles
Ngày 27/10/2023
Ara Phát

 

Thầy Đoàn Viết Bửu Thăm Thầy Nguyễn Duy Linh


 

Hoài Niệm về Huế: Quốc Học - Trần Xuân Thời

Các trường trung học thường mang tên một danh nhân như Pellerin, Taberd, Puginier, Pétrus Ký, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long… nhưng đặc biệt một ngôi trường tọa lạc tại đất thần kinh, biểu tượng cho nền giáo dục quốc gia mệnh danh là “Trường Quốc Học” (Collège National) sánh với danh xưng “Quốc Học Viện” vào đời nhà Trần…

Ảnh từ Google
 


Quốc học, trường trung học đầu tiên của Việt Nam, được thành lập năm 1896 năm Thành Thái thứ 8. Tên trường “Quốc Học” cũng thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Năm 1907, chính phủ bảo hộ Pháp đã ép Vua Thành Thái thoái vị và phong Vua Duy Tân lên kế vị. Năm 1916 Vua Duy Tân bỏ kinh thành theo nghĩa quân kháng chiến chống Pháp. Người Pháp phong Vua Khải Định kế vị Vua Duy Tân. Vua Khải Định băng hà năm 1925. Vua Bảo Đại nối ngôi và muốn vinh danh tiên đế nên đổi tên trường Quốc học thành trường Khải Định. Sau năm 1954 trường được đổi tên là Trường Ngô Đình Diệm, nhưng đến năm 1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, châu lại về hiệp phố, danh xưng Quốc Học lại trở về với mái trường xưa.

 

Quốc Học đã đào tạo biết bao nhiêu nam thanh nữ tú phục vụ trong mọi ngành sinh hoạt của quốc gia. Năm nay, lễ kỷ niệm 127 năm (1896-2023) Quốc Học không những sẽ diễn ra tại miền sông Hương núi Ngự, chốn cố đô nghiêm mật mơ màng mà sẽ được cử hành khắp năm châu bốn bể vì ngày nay đâu đâu cũng in hình dấu vết của cựu học sinh Quốc Học.

 

Nếu quan niệm gặp nhau là một cơ duyên, vào chung trường, ngồi chung lớp là một sự tiến bộ và cùng tốt nghiệp ra trường là một sự thành công thì những cựu học sinh tốt nghiệp Quốc Học đều đã công thành danh toại.

 

Tôi còn nhớ vào năm 1958, khoảng cuối hè và đầu thu, tôi nạp đơn vào lớp Đệ Tam Quốc Học. Như truyền thống đã định tất cả ứng viên phải trải qua một kỳ thi nhập học. Tôi không nhớ đã thi những môn gì nhưng đây là một loại "contest” đã loại một số học sinh không được nhận vào ngôi trường nổi tiếng nầy.

 

Năm Đệ Tam là năm học tà tà, dưỡng sức cho năm đệ nhị chuẩn bị xông pha trường thi trận bút. Năm Đệ nhị “tình hình chiến sự” có vẻ gây cấn hơn, chẳng những phải “gạo” bài cho đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt mà còn phải học kỳ cho kỳ thi Tú tài I cuối năm. Thường thường tôi dùng 2/3 thì giờ để học bài thầy giảng trong chương trình và 1/3 đọc thêm những gì không được giảng dạy nhưng có liên quan đến chương trình như thế sẽ khỏi bỡ ngỡ khi đề thi liên hệ đến kiến thức tổng quát. Cũng theo cách học nầy mà tôi trúng tuyển dễ dàng hai kỳ Tú tài I và II.

 

Đã khá lâu nên không nhớ rõ hết các đề thi, duy chỉ có hai đề thi có phần lý thú nên khó quên. Đó là đề thi Tú Tài I-1960 về văn chương VN “Con người do 3 yếu tố tạo thành: Địa phương, giống tộc và thời đại, bạn hãy căn cứ vào văn chương thế kỷ thứ XIX để chứng minh câu nói trên”. Đề thi nầy phỏng theo đề thi “Dissertation littéraire “, kỳ thi BAC I tại Paris, thập niên 1950, về văn chương Pháp, thế kỷ thứ XIX mà tôi đã có dịp đọc qua luận văn bằng Pháp ngữ, chỉ khác là thay vì luận về văn chương Pháp thì luận về văn chương Việt Nam thế kỷ thứ XIX. Nền giáo dục Tây phương có ưu điểm là thường in lại các đề thi và bài giải về văn học, triết học cũng như toán học... khoa học của các kỳ thi trong quá khứ để giúp học sinh tự luyện thi. Nền giáo dục Viêt Nam thời bấy giờ chưa đạt đến trình độ đó.

 

Khi còn học lớp Đệ Tứ, tôi và vài người bạn khác như thường mở các đề toán Géométrie và Algèbre trong sách hoc trò (Livre de L'Élève) ra làm thử. Bài nào không giải được thì mở sách của thầy (Livre du Maitre) ra xem bài giải. Cứ như thế mà giải hết các bài trong sách của Gs Bossé thì rất dễ dàng giải quyết các nan đề trong phòng thi.

 

Đề thi triết Tú tài 2-1961 cũng rất gọn gàng và dễ nhớ “Vai trò của trí tuệ trong tri giác ngoại giới”. Trong cả hai trường hợp, đọc qua đề thi thì hình như dàn bài đã có sẵn trong trí, tôi viết một mạch 3 giờ liền, đọc lại và nạp bài, ra khỏi phòng thi, thấy rất thoải mái vì chẳng những không “bí” mà còn viết thao thao bất tuyệt, tự biết thế nào cũng “dính”.

 

Tuy vậy, những lần đi nghe xướng danh cũng rất hồi hộp. Cái hồi hộp lý thú của tuổi học trò. Những năm học ở trung học thi cử liên miên khiến cho học sinh phải lo âu thường trực. Càng lo âu thì càng dễ trở nên thất vọng. Có người không chịu nổi cái “đệ nhất buồn là cái hỏng thi” nên phải quyên sinh. Học chế của mình kể ra cũng khắt khe. Cô, thầy thì nghiêm khắc vì “Giáo bất nghiêm thì sư chi đọa”. Bài vở phần lớn học thuộc lòng, vận dụng trí nhớ nhiều hơn suy luận. Chúng ta thường nghe nói: “gạo như gạo vạn vật…”

 

Bây giờ thì tất cả đều quá vãng, có còn lại chăng chỉ dư âm thôi!

 

“Thôi đã xa rồi vạn gót hương

Của người đẹp đến từ muôn phương

Xa rồi những bước không hò hẹn

Đã bước trùng nhau một nẻo đường”

 

Nẻo đường Quốc Học của thời niên thiếu vẫn luôn luôn chập chờn trong trí tưởng với hình ảnh của con sông xưa, thành phố cũ.

 

“Áo em lụa trắng sông Hương

Qua đò Thừa Phủ nhớ thương rạt rào”

 

Nỗi nhớ, niềm thương đó vẫn canh cánh bên lòng như bản nhạc vàng ru trọn đời mình. Dù vì quốc biến nên

 

”Có những người đi không về.

Xa xôi rồi quên ước thề”!

 

 Hoài niệm về trường xưa, bạn cũ không chỉ là hoài niệm đơn thuần tình cảm mà còn tiềm ẩn tinh túy của Quốc học là những gì lưu lại sau khi đã quên hết “La culture (de QH) c'est ce qui reste après on a tout oublié”.

 

Xuất thân từ Quốc Học cũng như xuất thân từ cửa Khổng sân Trình. Con người hấp thụ được tinh hoa của cổ và tân học. Nếu con người do ba yếu tố tạo thành: Hoàn cảnh, thời đại và giống tộc thì Quốc học đã là hoàn cảnh, là môi trường tốt cho cựu học sinh triển nở, khiến cho nam thanh, nữ tú hàng hàng lớp lớp từ thế hệ này sang thế hệ khác xuất thân từ ngôi trường thân thương nầy và đã trở thành biết bao anh tài cho Tổ quốc.

 

Cái tinh hoa của nền Quốc Học là ngoài khả năng, kiến thức tổng quát, cựu học sinh được bồi dưỡng tinh thần bằng niềm hãnh diện về trường xưa, bạn cũ và quan niệm về giáo dục qua phong cách giảng dạy, lối sống và triết lý giáo dục của nền quốc học Việt mà một vị Nho sĩ, Cụ cố Ngô Đình Khả, đã được bổ nhiệm nhậm chức Chưởng Giáo của Quốc Học.

 

Triết lý giáo dục nhân bản nhằm chủ đích không những làm cho con người giỏi giang hơn (trí dục) mà chính là làm cho con người sống cao thượng hơn (đức dục). Ngày nay học tập để ngày mai giúp đời. Giúp đời chứ không chỉ biết vinh thân phì gia. Nguyễn Du Tiên sinh rất hữu lý khi nói lên triết lý hành động qua lời Từ Hải:

 

“Phong trần mài một lưỡi gươm.

Những loài giá áo túi cơm sá gì”.

 

Lưỡi gươm đây còn mang ý nghĩa là đem sở học và sự hiểu biết để phụng sự nhân quần xã hội, sửa trị những sự việc trong xã hội cho chính trực như tinh thần Nguyễn Công Trứ

 

“Trong lăng miếu ra tài lương đống.

Ngoài biên thùy rạch mũi Can tương”.

 

Lợi ích của sự giáo dục là để phát triển kiến thức về luân thường đạo lý (đức dục) và kiến thức chuyên môn (trí dục). Nền quốc học chủ trương “Tiên học lễ hậu học văn” chú trọng đến sự phát triển con người toàn diện về cả ba khía cạnh đức dục, trí dục và thể dục, cốt đào tạo những người có đức hạnh, trí óc sáng suốt, có liêm sỉ, để cải taọ xã hội chính trị, hơn là chỉ chú trọng đào tạo những người có kiến thức chuyên môn như nền giáo dục Tây phương.

 

Nhận chân được khuyết điểm là có khoa học mà vô lương tâm chỉ đem lại phiền não, bại hoại tâm hồn. “Science sans conscience n'est que ruine de l’âme”, ngày nay nhiều đại học ở Tây phương tìm cách nhân văn hóa các chương trình khoa học bằng cách đưa các môn triết học, nhân chủng, xã hội, đạo đức, tâm lý… vào khóa học để giúp sinh viên tốt nghiệp sẽ trở nên con người toàn diện, hiểu người, biết mình hơn là con người kỹ thuật, máy móc (robot).

 

Sự học tô điểm cuộc đời, giúp chúng ta khám phá những kỳ hoa dị thảo trong vườn hoa kiến thức của nhân loại. Càng hiểu biết con người càng trầm tĩnh, ít lo âu, ít hoảng hốt, tâm bớt động và nhờ đó thái độ được trầm tĩnh và tránh được lầm lẫn hay sợ sệt:

 

(1) Ít lo âu vì nhận diện được vấn đề và biết cách ứng phó đúng với câu “Khi vui đến thì hãy vui mà chớ kiêu căng, tự phụ, khi tai họa đến thì phải suy nghĩ mà chớ buồn phiền” Chính nhờ sự suy nghĩ mới có thể mưu sinh thoát hiểm thay vì buồn phiền sẽ sinh ra nản chí và thất bại.

 

(2)Tránh được lầm lẫn là nhờ khả năng nhận biết phải trái, phân rõ trắng đen qua kinh nghiệm giải quyết sự việc của tiền nhân và của người đương thời. Ngày nay khoa quản trị học (management science) đào tạo những chuyên viên quản trị biết kỹ thuật tổ chức, điều hành và phương pháp giải quyết vấn đề.  Tiêu chuẩn phán xét phải, trái, không hẳn do ý kiến của một cá nhân, vì ý kiến cá nhân có khi lầm lẫn. Do đó ý kiến đúng hay sai phải là ý kiến của đa số trong một hoàn cảnh và thời gian nào đó. Tiêu chuẩn đúng sai do đa số quyết định “What is right or wrong being determined by the will of the majority” (John Locke– 1679). Ý kiến của đa số hay là ý chí chung có thể được tham khảo qua nhiều phương thức hoặc do phong tục tập quán lấy ý kiến chung ở chốn đình trung, hoặc do biểu quyết, hay trưng cầu dân ý qua lá phiếu.

 

(3) Ít sợ sệt vì hiểu được vấn đề, không lo ngại và chấp nhận dấn thân mà không e dè sợ sệt, hùng tâm dũng chí. Giáo dục giúp con người trưởng thành về trí tuệ, nhờ hấp thụ kiến thức xuyên thế hệ, kim, cổ (transgenerational),qua sách sử truyền lại.

 

Với ba đặc điểm ít lo âu, tránh lầm lẫn, ít sợ sệt; người khôn ngoan thường nhận xét sự việc một cách khách quan, theo lẽ phải hơn là thiên kiến. Để đạt đến tính cách khách quan, sự nhận xét phải có tính cách vô ý, vô tất, vô cố và vô ngã:

 

(1) Vô ý: không khư khư theo ý riêng của mình mà phải chấp nhận bàn bạc để tìm ra lẽ phải và làm theo lẽ phải để tạo sự đồng thuận trước khi thi hành công tác. “Discussion is the anvil upon which the spark of the truth is struck”. Tiếp xúc cá nhân, chia sẻ và đối thoại là phương thức để tìm ra lẽ phải.

 

(2) Vô tất: Đừng vội quyết đoán là công việc làm được hay không làm được mà phải tạo cơ hội để thực hiện mới biết dễ hay khó. Không nên chủ quan bác bỏ ý kiến của người khác theo nhãn quan thiển cận của mình mà phải biết chấp nhận thử thách.

 

(3) Vô cố:Không nên cố chấp, nệ cổ mà phải biết chấp nhận sáng kiến.

 

(4) Vô ngã: Cái tôi là đáng ghét (le moi est haissable) đừng vì quyền lợi cá nhân hay phe phái mà sinh ra mù quáng, nhìn bạn thành thù, nhìn thù thành bạn, lộng chân thành giả, lộng giả thành chân.

 

Bốn phương cách xét định công việc nêu trên giúp chúng ta đạt được sự chánh ý trong vấn đề suy luận và phát biểu nhằm giảm sự xung khắc về tư tưởng và hành động. Dụng đích của sự học không những để gia tăng sự hiểu biết mà còn giúp phát triển các đức tính khác như Đức Khổng Tử đã giáng cho Tử Lộ sáu điều tai hại của sự thất học:

(1) Người ham điều nhân mà không học thì bị cái hại là ngu muội.

(2) Người ham đức trí mà không học bị cái hại là phóng đãng.

(3) Người trọng chữ tín mà không học thì có hại là dễ bị lừa gạt.

(4) Người thích sự ngay thẳng mà không học thì hóa ra nóng nảy.

(5) Người dũng cảm mà không học thì hoá ra phản loạn.

(6) Người cương quyết mà không học thì hóa ra cường bạo.

 

Giáo dục không chỉ là học từ chương trích cú để lãnh được mảnh bằng theo sách vở mà phải biết suy luận, áp dụng kiến thức vào những hoàn cảnh khác nhau vì mỗi hoàn cảnh đòi hỏi một phương cách riêng để giải quyết vấn đề. Do đó” tri và hành phải hợp nhất”. Học mà không biết đem sự hiểu biết áp dụng vào đời sống thì kiến thức đó hoàn toàn vô dụng, cho nên Luận Ngữ có câu:

 

                                    “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”.

 

 Học mà đem ra áp dụng được thì chẳng phải vui lắm sao! Tham gia chiến trận khi quốc gia lâm nguy, thực hiện các công tác sinh hoạt xã hội, chính trị, văn hoá, kinh tế, y tế, giáo dục khi thái bình….đều là những cơ hội học hỏi chứ không phải chỉ đến nhà trường mới gọi là học.

 

Theo thầy Tử Lộ thì “Cai trị nhân dân, cúng tế thần đất đai, mùa màng, thì cũng là học, hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là học”. Quan niệm này rất hữu lý và tiến bộ vì ngoài lối học sách vở, còn phương pháp huấn luyện OJT (On the job training) ngày nay rất thịnh hành tại các nước tân tiến.

 

Muốn học hỏi trước tiên phải:

(1) Khiêm nhường và phục thiện Những người kiêu căng, chỉ biết nói và không biết nghe thì không học hỏi gì được. Khiêm nhường tức là hỏi người dưới không lấy làm thẹn “Bất sỉ hạ vấn”.

(2) Có thiện chí tìm hiểu hỏi han. Đức Khổng Tử nói: “Người nào không hỏi phải làm sao? phải làm sao? thì ta cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho được. Kẻ nào không hăng hái muốn hiểu thì ta không thể giúp cho hiểu được, kẻ nào không tỏ ý kiến thì ta không thể giúp cho phát biểu ý kiến được. Ta vén lên cho một góc mà chẳng tự tìm được ba góc kia thì ta không giảng cho thêm nữa”.

 

Thế thì giáo huấn cũng còn tùy người, tùy tánh nết, tùy trí tuệ, tư cách của mỗi người, cũng như may áo, tùy kích thước của mỗi người." Cưỡng bách giáo dục tại một số quốc gia tân tiến thường đến lớp 9 (đệ tứ) hoặc lớp 12 (đệ nhất) phần học còn lại là do thiện chí muốn tiếp tục sự học.  Phương pháp giáo huấn tùy người có từ trên 2000 năm về trước, ngày nay nhiều đại học đang áp dụng các chương trình giáo dục “University without wall” và các chương trình “Non- traditional” tức là cá nhân hóa chương trình cho phù hợp với sở trường thực dụng của mỗi cá nhân.

 

Con người được thọ tạo như những viên ngọc quý. Nhưng ngọc bất trác thì bất thành khí, hay như những cây gỗ qúy, nhưng nếu không biết trau dồi học hỏi thì gỗ quý sẽ biến thành gỗ mục, mà “Gỗ mục thì không chạm khắc gì được, cũng như vách bằng đất bùn thì không tô vẽ gì lên được”.

 

Phương pháp học hỏi hữu hiệu là vận dụng tri giác (thu nhận kiến thức qua giác quan – perception) mà nghe và thấy là hai giác năng quan trọng nhất giúp con người thu nhận ngoại giới. Do đó, cổ nhân khuyên là “Nên nghe cho nhiều, điều gì còn nghi ngờ thì để đó, tìm hiểu thêm. Điều gì biết rõ ràng, chắc chắn thì nên nói, nhưng nên nói một cách ôn tồn.” và “Nên thấy cho nhiều, những gì chưa được rõ thì để đó đừng làm, còn những gì biết rõ thì cũng phải làm một cách cẩn thận như vậy sẽ ít phải ăn năn”.

 

Trong thiên hạ thường có 4 hạng người:

 

(1) Không ai dạy mà biết được đạo lý là hạng ưu tú – Sinh nhi tri chi giả, thượng dã – Đó là hạng người thông minh vốn sẵn tính trời, là hạng ưu việt.

(2) Học rồi mới biết là hạng trung – Học nhi tri chi giả, thứ dã – gồm đa số khoa bảng, chuyên viên.

(3) Dốt mà chịu học là bậc thấp – Khốn nhi học chi, hữu kỳ thứ dã – là những thành phần hiếu học để thăng tiến.

(4) Dốt mà không chịu học là hạng cuối cùng của xã hội – Khốn nhi bất học, dân tư vĩ hạ hỉ – Hạng thứ tư nầy đa số bất cần đời, sinh lộn kiếp. “Cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu?”

 

Tại Hoa Kỳ người ta cũng thường đề cập đến ba hạng chuyên viên:

(1)-Hạng chuyên viên ưu tú thường nêu ra sáng kiến, phát minh. “Professionals with great minds talk about ideas”

(2)- Hạng chuyên viên trung bình thường bàn về những chuyện đang xảy ra “Professionals with average minds talk about current events”; và

(3)- Hạng chuyên viên thường hay bàn chuyện người khác.” Professionals with small minds talk about people”.

 

Dù thuộc loại chuyên viên nào chăng nữa, trong một ngày mình nên xét ba điều:

(1) Mình giúp ai việc gì, có giúp hết lòng không?

(2) Mình giao du với bạn bè có giữ được chữ tín không?

(3) Mình có học hỏi thêm điều gì mới mẻ trong ngày không?

 

“Mỗi ngày biết thêm điều mình chưa biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết như vậy là biết học rồi đó”. Nhưng cũng nên biết rằng ”Biết học không bằng ham học và ham học không bằng vui mà học”.  “Nếu mình yêu thích công việc mình làm, thì xem như cả đời không làm gì hết “!

 

Diễn trình giáo dục là diễn trình thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Tuy vậy, đó chỉ mới là giai đoạn đầu hay nói khác đi là giai đoạn “cách vật trí tri”, hiểu biết sự việc ngoại giới mà chứng chỉ, bằng cấp là biểu tượng cho giai đoạn này. Nếu đến giai đoạn này rồi tự thỏa mãn và ngưng học hỏi, tu thân, thì chỉ là hiểu biết vòng ngoài, nghĩa là mới thu nhận được kiến thức ngoại giới nhưng chưa đạt đến trình độ “Thành tâm, chánh ý, tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ”.

 

Kiến thức thu nhận được ở nhà trường từ tiểu học đến đại học chỉ là kiến thức căn bản ai cũng có thể học được miễn có thì giờ và phương tiện để trở thành chuyên viên. Đó là sự thực, vì nhìn vào xã hội chúng ta thấy sinh đồ càng ngày càng đông và trường học càng ngày càng nhiều.

 

Học để hiểu biết và hiểu biết hơn về một ngành chuyên môn để trở thành “chuyên viên” (professional) là điều tốt, nhưng nếu chỉ để “mong an nhàn, sống lâu giàu bền’, còn việc nước việc cộng đồng, xã hội, aí hữu, không thèm nghĩ đến thì chưa đạt đến trình độ “Trí thức”.

 

Để đào luyện (formation) trí thức, triết lý giáo dục nhân bản của nền Quốc Học không dừng lại ở mức độ thu nhận kiến thức chỉ để trở thành chuyên viên mà còn tiến đến chủ đích làm cho con người trở nên cao thượng hơn:

 

“Thương vị đức, hạ vị dân”.

 

Phối hợp đạo lý làm người và kiến thức để giúp đời, là dấu chỉ của người trí thức, của kẻ sĩ. Cụ Nguyễn Công Trứ đã từng quan niệm:

 

“Kinh luân khởi tâm thượng,

Binh giáp tàng hung trung.

Vũ trụ chi giai ngô phận sự.

Nam nhi đáo thử thị hào hùng”.

 

Khi quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Kẻ sĩ không phải là hạng người ngồi khoanh tay khi sơn hà nguy biến!

 

Phải chăng Quốc Học là trường xây dựng nền tảng cho nền Việt học, phối trí giữa kiến thức và tâm đạo. Kiến thức có thể diễn tả qua tư tưởng, kỹ thuật, phương trình, công thức… còn tâm đạo được thể hiện qua tinh thần đạo đức, lương tâm chức nghiệp của quý Thầy, quý Cô.

 

“Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành”. Với lương tâm chính trực, tận tụy của quý Thầy, quý Cô, học sinh đương nhiên vì mến Thầy, thương Cô mà học không phải vì Thầy la, Cô mắng.

 

Một khi xuất thân từ Quốc Học, học sinh đều thành danh phụng sự xã hội với tinh thần Nhân, Trí, Dũng: Phối hợp được lòng nhân ái, tâm đạo, kiến thức và nghị lực, quả cảm để xây dựng cộng đồng xã hội, quốc gia dân tộc.

 

Dù tha hương, sống nơi góc bể chân trời, nhưng đến ngày kỷ niệm Quốc học năm thứ 127 (1896- 2023) chúng ta vẫn hướng về mái trường thân thương nơi con sông xưa thành phố cũ, ngâm khúc hoan ca:

 

“Trường xưa lưu mãi bóng hình.

Trăm năm Quốc Học hiển vinh muôn đời”.

 

Trần Xuân Thời

QH 58-61


H.Phi chuyển