31 thg 3, 2022

Hoa Huệ Đỏ , Đợi Chờ - Thơ Nguyễn Thị Châu

Huệ đỏ nhà tôi đã có đôi

Ngoài kia nắng ấm thay mấy lời

Chúc cô Huệ đỏ tròn hẹn ước

Cùng nắm tay nhau đứng dưới trời

 

Hoa kia mưa nắng cũng dãi dầu

Hai sương ba nắng có dễ đâu

Mỗi năm cứ độ Xuân sang hạ

Anh trước em sau khoe sắc màu

 

Hoa kia hạnh phúc được mấy trăng ?

Đứng cạnh bên nhau quá vội vàng

Anh trước em sau buồn rơi lệ

Hoa tàn hoa héo theo thời gian

 

Con người chẳng khác vì loài hoa

Hạnh phúc bên nhau sớm nhạt nhoà

Có ai biết được người trong mộng?

Còn nhớ còn thương hay đã xa!

Nguyễn thị Châu
22-3-2022


 2/ ĐỢI CHỜ

 Anh tặng cho tôi một cành Hồng

Hoa Hồng đỏ thắm thuở chờ mong

Tôi đứng bên anh lòng xao xuyến

Hạnh phúc trong ta mối tình nồng

 

Anh đến với tôi vào mùa Thu

Lá vàng bay bay gió mịt mù

Tay nắm trong tay lời hẹn ước

Từng bước chân qua hết mùa Thu


Mùa Thu ngày ấy đi vội vàng

Đông đến Thu tàn Hạ cũng sang

Bước chân lãng tử có quay lại

Cánh Hồng còn thắm hay đã tan

Nắng Hạ hôm nay lại thấy mưa

Chờ anh chờ mãi gió lưa thưa

Tôi lại về đây tìm kỹ niệm

Hỏi khách đa tình đã đến chưa ???

Nguyễn thị Châu

22-3-2022


 Mời Xem :

GIỌT NƯỚC MẮT CUỐI CÙNG - Nguyễn Thị Châu  

ĐỜI VẮNG EM RÔÌ SAY VỚI AI ?- Thơ Vũ Hoàng Chương


ĐỜI VẮNG EM RÔÌ SAY VỚI AI ?
 
Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau
Trai lỡ phong vân gái lỡ tình
Này đêm tri ngộ xót điêu linh
Niềm quê sực thức lòng quan ải
Giây phút dừng chân cuộc viễn trình.
Tóc xõa tơ vàng nệm gối nhung
Đây chiều hương ngát lả hoa dung
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.
Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung mộng hướng say
Gặp gỡ chừng như truyện Liễu Trai
Ra đi chẳng hứa một ngày mai
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai ?
Phương Âu mờ mịt lối quê nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
Ghé bến nào đây người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng.
Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không
Mà đây lòng trắng một mùa đông
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi
Thoảng gió trà mi động mấy bông.
 
Tác giả: Vũ Hoàng Chương

Chiếc mặt nạ của Putin và nước Nga lạc hậu (Văn Việt )

Nhà văn Vladimir Sorokin [1]

VV: Chiếc mặt nạ của Putin và nước nga “lạc hậu một trăm năm so với châu Âu”, tất cả đã rơi xuống kể từ khi ông ta phát động cuộc chiến xâm lược Ukraine. VV trân trọng giới thiệu hai bài viết thuộc hai thời điểm cách nhau 3 năm của của Nhà văn Nga nổi tiếng Vladimir Sorokin, với nhận định bằng một tinh thần “công dân toàn cầu” của ông: “Trách ai? Trách chúng ta. Và chúng ta bây giờ phải gánh chịu tội lỗi này cho tới khi chế độ của Putin sụp đổ. Bởi lẽ nó chắc chắn sẽ sụp đổ và cuộc tấn công đất nước Ukraine tự do là sự bắt đầu của cái kết”. Tiêu đề chung do VV đặt.

Bài 1:

NƯỚC NGA LẠC HẬU MỘT TRĂM NĂM SO VỚI CHÂU ÂU

Trong một bài trả lời phỏng vấn báo Đức Die Welt mới đây, nhà văn Nga nổi tiếng Vladimir Sorokin so sánh thời đại Putin với giai đoạn cuối của Liên Xô. “Ở nước Nga hiện nay ngự trị sự trì trệ, đất nước như một chiếc xe bị mắc kẹt vào vũng lầy, bánh xe quay tại chỗ, bùn đất bắn tung tóe”. Nhưng không ai biết được tình trạng đó còn kéo dài bao lâu nữa. Nga là một đất nước khôn lường. Bầu không khí chung gợi nhớ về những năm 1983-1984 của thế kỷ trước – tình hình kinh tế tồi tệ, ai cũng mệt mỏi vì các nhà cầm quyền. Lúc bấy giờ, cũng không ai dự đoán được rằng sau vài ba năm nữa sẽ diễn ra những thay đổi căn bản”, – Vladimir Sorokin nói. “Giới cầm quyền làm tất cả để hù dọa những kẻ chống đối. Đang tồn tại một kiểu bệnh hoang tưởng của giới cầm quyền, nỗi sợ hãi cố hữu trước bất cứ lực lượng đối lập nào, – ông nói. – Mặt khác, sự mệt mỏi của dân chúng không ngừng tăng lên. Với họ, trước hết là vì những nguyên nhân kinh tế”. Trả lời câu hỏi của nhà báo về việc Phương Tây đối xử với Putin có đúng không, ví dụ như áp đặt lệnh trừng phạt vì cuộc chiến ở Ukraina, Vladimir Sorokin nhấn mạnh rằng tình hình hiện nay giống như đầu những năm 1980 sau khi Liên Xô đưa quân vào Afghanistan. Quan hệ với phương Tây hết sức xấu; Putin và bộ sậu của ông rơi vào tình huống trong cờ vua gọi là "bắt bí đối phương": Thế cờ của họ xấu, vì vậy đi bất cứ nước nào cũng làm cho nó trở nên tồi tệ hơn. Phương Tây cần 15 năm để hiểu thế lực của Putin. Nhưng hiện nay họ đã hiểu”. Nói về vai trò của mình trong dư luận xã hội Nga, nhà văn phát biểu: “Hiện tại tôi chưa bị cản trở gì trong cuộc sống và công việc, nhưng tất nhiên, mọi chuyện có thể xảy ra. Nếu như dưới thời Liên Xô, khi đối đầu với KGB, tôi hiểu rằng là nhà văn, anh chỉ có hai con đường: hoặc là viết, hoặc là sợ hãi. Nếu sợ thì đừng viết. Đã viết thì không sợ. Không có con đường thứ ba”. Putin lợi dụng sự hoài niệm về thời Liên bang Xô viết; Trump bên ngoài thuần túy là nguyên mẫu của một chàng trai da trắng mạnh mẽ, một hình ảnh lý tưởng của những năm 1950-1960-, thời kỳ hoàng kim của nước Mỹ. Putin ban tặng dân chúng những huyền thoại cũ trong vỏ bọc mới. Trump và Putin rất giống nhau ở chỗ cả hai đều lợi dụng những xu thế mờ ám trong ý thức tập thể và điều khiển chúng”, – nhà văn nói. “Tôi nghĩ rằng, châu Âu có một điểm tựa bền vững trong đạo đức cơ đốc giáo đã được hình thành hàng trăm năm nay. Đó là nền tảng vững chắc không dễ gì phá hủy. Tôi hiểu “đạo đức cơ đốc giáo” như là mối quan hệ giữa con người với con người, và ở đây rất ít thay đổi, khác với trong kinh tế. Nước Nga lạc hậu hàng trăm năm so với châu Âu. Thế kỷ XX ở đây là mưu toan phá hoại tất cả những gì vốn có của con người, lòng nhân hậu, tôn giáo. Người ta muốn biến con người thành một cỗ máy. Mặc dù họ không đạt được hoàn toàn”, – nhà văn nói.

Theo báo Nga, Trần Hậu dịch

Nguồn: FB Trần Hậu

*

Bài 2:

CHỦ NGHĨA PUTIN LÀ KẺ THÙ CỦA TỰ DO VÀ DÂN CHỦ*


Đối với Putin, bản thân cuộc sống luôn là một chiến dịch đặc biệt. Từ cái trật tự đen của KGB, ông ta không chỉ học được cách khinh bỉ những người "bình thường", luôn là một dạng của những con tốt thí trong xã hội Sô-viết tai họa trước đây, mà còn cả nguyên tắc chính của Chê-ka[2]: không một lời nào là thật. Mọi thứ phải được che giấu, bảo mật. Đời tư của ông ta, họ hàng, các thói quen – mọi thứ luôn luôn được giấu kỹ, bao phủ bởi các tin đồn và suy diễn.

Nay, một điều đã trở nên rõ ràng: với cuộc chiến tranh này, Putin đã vượt qua lằn ranh – lằn ranh đỏ. Chiếc mặt nạ đã rơi xuống, bộ giáp sắt của "kẻ chuyên quyền khai sáng" đã rạn nứt. Nay, tất cả những người phương Tây từng có thiện cảm với "vị Tsar hoàng Nga hùng mạnh" phải câm mồm và hiểu rằng một cuộc chiến tranh lớn thực sự đã nổ ra ở châu Âu thế kỷ 21. Kẻ đi xâm lược là nước Nga của Putin. Cuộc chiến tranh này đã được khơi mào bởi gã đàn ông đã bị quyền lực tuyệt đối làm sa đọa, một kẻ, trong cơn điên của mình, đã quyết định vẽ lại bản đồ thế giới. Nếu bạn nghe diễn văn của Putin thông báo "chiến dịch đặc biệt", Mỹ và NATO được nhắc đến nhiều hơn Ukraine. Chúng ta hãy nhớ tới cả "thông điệp tối hậu" mới đây của ông ta. Như vậy, mục đích của ông ta không phải là Ukraine, mà là nền văn minh phương Tây, sự thù hận đối với nó ông ta đã tợp trong dòng sữa đen ông ta đã bú từ bầu vú của KGB.

Trách ai? Trách chúng ta. Và chúng ta bây giờ phải gánh chịu tội lỗi này cho tới khi chế độ của Putin sụp đổ. Bởi lẽ nó chắc chắn sẽ sụp đổ và cuộc tấn công đất nước Ukraine tự do là sự bắt đầu của cái kết.

Chủ nghĩa Putin là xui xẻo bởi nó là kẻ thù của tự do và kẻ thù của dân chủ. Hôm nay mọi người cuối cùng đã hiểu ra điều đó. Ông ta đã tấn công một đất nước tự do và dân chủ chính bởi vì đó là một đất nước tự do và dân chủ. Nhưng ông ta mới là kẻ xui xẻo bởi thế giới của tự do và dân chủ lớn hơn nhiều so với cái hang ổ đen tối và ảm đạm của ông ta. Xui xẻo vì cái mà ông ta muốn là một thời đại Trung Cổ mới, là sự tham nhũng, dối trá, và sự chà đạp lên các quyền tự do của con người. Bởi vì ông ta là quá khứ. Và chúng ta phải làm mọi thứ trong khả năng của chúng ta để khiến con quái vật này ở nguyên đó – trong quá khứ – vô thời hạn, cùng tòa kim tự tháp quyền lực của nó.

* Nguyễn Đình Đăng trích dịch từ Vladimir Sorokin, Vladimir Putin sits atop a crumbling pyramid of power, The Guardian, 27/2/2022.

Chú giải của người dịch (NĐĐ):

_____________________

[1] Vladimir Sorokin, sinh ngày 7/8/1955 tại ngoại ô Moskva, tốt nghiệp kỹ sư Đại học dầu khí mang tên Gubkin ở Moskva năm 1977. Theo Thiên Chúa giáo từ năm 20 tuổi, Sorokin từ chối gia nhập đoàn thanh niên cộng sản vì thế bị sa thải khỏi tạp chí Smena, nơi ông làm việc sau khi tốt nghiệp. Các tác phẩm văn học của Sorokin từng bị chính quyền Sô-viết cấm xuất bản cho tới năm 1989.

Sorokin đoạt giải thưởng văn học như "Booker prize của nhân dân" của Nga và giải thưởng văn học độc lập "Andrei Belly Prize" (Премия Андрея Белого) vào năm 2001 vì đóng góp xuất sắc vào văn học Nga, giải thưởng Premio Gregor von Rezzori của Ý năm 2015. Năm 2019 cuộc đời và tác phẩm của Sorokin đã được nhà làm phim Nga Andrei Belov thuật lại trong bộ phim tài liệu "Chuyến đi của Sorokin". Tháng Ba năm 2022, Sorokin đã tham gia ký vào lời bức thư ngỏ của các nhà văn xuất sắc kêu gọi toàn dân Nga truyền bá trong nước Nga sự thật về cuộc chiến tranh của Nga xâm lăng Ukraine.

[2] Chê-ka (ЧК) tên gọi tắt của Ủy ban khẩn cấp toàn Nga trong đấu tranh chống phản cách mạng và phá hoại (Всероссийская чрезвычайная комиссия по борьбе с контрреволюцией и саботажем thuộc Hội đồng Chính ủy Nhân dân Cộng hòa Liên bang XHCN Nga Sô-viết (Совете народных комиссаров РСФСР), viết tắt ВЧК при СНК РСФСР. Đây là cơ quan an ninh đầu tiên của chính quyền Sô-viết, tồn tại từ 1917 tới 1922, người đứng đầu là Felix Derzhinsky. Từ Cheka đã sinh ra các cơ quan an ninh mật vụ là NKVD, OGPU, NKVD, NKGB, MGB, và cuối cùng là KGB Liên Xô (1954 – 1991).

Vladimir Putin sits atop a crumbling pyramid of power | Vladimir Sorokin

Nguồn: FB Nguyễn Đình Đăng

* Tiêu đề do VV đặt.

 

TÌNH NỒNG - Thơ Ngô Kế Đang

 

TÌNH NỒNG
 
Bè bạn ơi ! Tình khôn xiết kể !
Mỗi lần thăm , cứ lại quà trao
Nào rau , củ, quả như thành lệ
Chẳng quý quà trao , quý đến nhau
 
Thói thường hưu trí thì quên mất
Cuộc sống bộn bề , mỗi lúc xa
Bởi lẽ cô thầy lo công tác
Đương thời : trọng vọng ; nghỉ : bôn ba
 
Bạn bè nhớ đến thì lui tới
Bạc bẽo đành thôi chẳng trách hờn !
Cái tuổi xế chiều ai mong đợi ?
Ra về mới thấy lắm cô đơn
 
Đã quên quán xá , quên bàn nhậu
Rượu hễ lên môi cứ sặc hoài
Thuốc cũng bỏ rồi , không thể giấu
Chắc là vô vị , phải không ai ?
 
Bạn đến thăm nhau trà đạm bạc
Uổng công lui tới , phải không nào ?
Về hưu nghèo lắm nhưng sơn sắc
Bề bạn dăm người mới mến nhau
Ngô Kế Đang 
 Mời Xem :
 

Trí Thức VN .8 cách tự nhiên giúp bạn giải độc phổi.

Bị nhiễm virus, ô nhiễm môi trường, thói quen sinh hoạt không lành mạnh là những nguyên nhân chính khiến phổi yếu đi. Phổi có khả năng tự phục hồi vô cùng kỳ diệu nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không cần chủ động bảo vệ nó.
giải độc phổi

                                   (Ảnh: aslysun/Shutterstock)

Dưới đây là 8 cách tự nhiên giúp bạn giải độc phổi:
1. Uống thức uống có khả năng làm sạch phổi

Bạn cần từ 2 tuần đến 3 tháng để cải thiện sức khỏe của phổi. Các loại đồ uống sau có thể giúp làm giảm lượng chất nhờn và giải độc cho phổi:

– Mật ong và nước ấm

– Nước chanh

– Trà xanh

– Nước ép cà rốt

– Nghệ và gừng

– Đồ uống từ chuối, rau bina và quả mọng

2. Liệu pháp muối

Liệu pháp muối còn được gọi là liệu pháp halotherapy, thường được dùng như một phương pháp điều trị thay thế cho các vấn đề về phổi như hen suyễn, viêm phế quản, ho. Nói một cách đơn giản là bạn sẽ hít thở trong một bầu không khí có các hạt muối nhỏ. Bạn có thể đến thăm một hang động muối hoặc mua một đèn đá muối Himalaya để sử dụng tại nhà.
3. Tắm nước ấm

Để dễ thở hơn, bạn có thể sử dụng máy tạo ẩm dạng phun sương mát hoặc ngâm mình trong bồn tắm nước ấm. Mỗi tuần bạn chỉ nên tắm bồn 2 đến 3 lần để tránh các vấn đề về da. Ngoài ra, nước tắm nên có nhiệt độ thoải mái từ 32°C – 40°C.
4. Dùng dầu oregano

Dầu oregano là một loại thuốc thông mũi tự nhiên. Để sử dụng, bạn hãy tạo hỗn hợp 50-50 gồm dầu oregano và dầu hạnh nhân. Sau đó, bạn nhỏ 1-2 giọt xuống dưới lưỡi, giữ trong 3-5 phút, rửa sạch miệng bằng nước. Bạn cần thực hiện 3 lần/ngày trong vòng 1-4 tuần để thấy hiệu quả rõ rệt.
giải độc phổi

5. Tránh một số thực phẩm

Nếu muốn tốt cho phổi, bạn nên ăn các loại thực phẩm có khả năng giải độc, chống viêm như thức ăn cay, củ cải, thảo mộc. Bạn nên tránh các thực phẩm làm tăng chất nhầy trong phổi như các sản phẩm từ sữa (pho mát, bơ, sữa chua, kefir, sữa uống), thực phẩm đã qua chế biến (thịt hộp).
6. Làm sạch lưỡi

Để bảo vệ phổi, trước tiên bạn cần giữ gìn sức khỏe răng miệng tốt. Chúng ta biết cách đánh răng đúng cách nhưng lại thường quên mất lưỡi. Để tránh tích tụ vi khuẩn, bạn hãy làm sạch lưỡi bằng cách:

– Dùng dụng cụ chuyên cạo lưỡi.

– Dùng bàn chải đánh răng có phần lưng dùng để cạo lưỡi.

– Dùng muối: cho một ít muối lên trên bề mặt lưỡi, dùng lông bàn chải mềm chải bề mặt lưỡi khoảng 1 phút, súc miệng lại bằng nước sạch.

– Dùng mật ong: pha 1-2 thìa cà phê mật ong với một ly nước ấm. Dùng dung dịch đó để súc miệng, súc lại bằng nước sạch.

– Dùng baking soda: cho một ít baking soda lên bàn chải đánh răng, chải nhẹ nhàng trên bề mặt lưỡi khoảng 1 phút, súc miệng lại bằng nước sạch.
7. Thực hiện bài tập thở mím môi

Bài tập này sẽ giúp bạn giải phóng không khí bị mắc kẹt trong phổi, cải thiện quá trình thông khí và tạo cảm giác thư giãn. Cách làm như sau:

– Thư giãn cơ cổ và vai của bạn.

– Hít vào từ từ bằng mũi. Đếm 1, 2 trong đầu. Không mở miệng.  

– Mím môi và thở ra từ từ. Vừa thở vừa đếm đến 4.

– Thực hành kỹ thuật này 4-5 lần một ngày.
Khi cuộc sống của bạn quá tồi tệ, hãy đọc những điều này!

8. Tập thể dục để làm sạch chất nhầy trong phổi

Bài tập này sẽ giúp bạn làm sạch chất nhầy trong phổi. Cách thực hiện như sau:

– Nằm ngửa, co chân phải lên, xoay người để cả cơ thể nằm ở phía bên phải.

– Xoay thân trên sàn ở tư thế nằm sấp.

– Đưa tay trái lên ngang bằng vai, gập cong cánh tay.

– Quay đầu sang bên phải, nằm thoải mái, không có cảm giác đau.

– Giữ nguyên tư thế trong 30 giây đến một phút.

– Lặp lại bài tập này cho phía bên kia.

Minh Minh (Theo Bright Side)
 


nguồn trithucvn.org.

Tiếng Việt Dễ Thương - Cái mặt thì rứa, cái tề thì răng? - Lê Minh Quốc

Thuở mới sang nước Nam ta, nhiều người nước ngoài cảm nhận cách phát âm của dân bản địa líu lo như tiếng chim. Không chỉ có thế, ngay cả người Việt lại có phương ngữ phát âm như… tiếng Nhật.

Chà, có phải bịa, đó không? Không hề. Tôi vừa đọc trên Facebook nọ mẩu đối thoại này:

- Mi đi ga ni?

- Ga ni. Mi đi ga mô?

- Ga tê.

- Ga tê ga chi?

- Ga Lăng Cô tề.

- Răng đông như ri?

- Ri mà đông chi!

- Rứa mi ra ga mô?

- Ra ga Nam Ô.

- Khi mô mi đi?

- Chừ, chứ khi mô.

- Mi lo đi mi.

- Ừ, tau đi nghe mi!

Nghe cứ líu lo như chim. Thích lắm. Chưa hết đâu. Vẫn còn nhiều nữa. Đâu phải chỉ lúc trao đổi thân mật, nhiều người đã đưa vào thơ, nhạc. Trước mắt, này cô Hai ơi, ta nghe nhạc cho rộn chút xíu nhá. Vì rằng, làm nên sự phong phú, đa dạng nhiều sắc thái trong tiếng Việt, còn phải kể đến thổ âm, thổ ngữ của từng vùng miền. Do đó, trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhiều tác giả đã vận dụng một cách tinh tế, có chọn lọc khi sử dụng khiến ca từ trở nên đắc địa hơn và phù hợp với giai điệu dân ca của vùng đất đó. Nhờ vậy, khi phổ biến, ca khúc đó có lợi thế dễ đi vào lòng người.

Thí dụ, ca khúc “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh”, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý viết: “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh. Nhớ núi Hồng Lĩnh, nhớ dòng sông La”. Tương tự, “Mưa trên phố Huê”ë, nhạc sĩ Minh Kỳ đã viết: “Chiều mưa, phố xưa u buồn, có ai mong đợi một người biền biệt nơi mô?”. Với từ “mô” dù mang sắc thái địa phương nhưng có lẽ ai cũng hiểu “đâu/ đi đâu/ ở đâu”. Không chỉ có thế, nhạc sĩ Phạm Duy viết ca khúc “Bên nớ bên ni”, có đoạn: “Em có nghe bên ni lạnh như bên nớ. Phút giây chia lìa, trong lòng cũng phải đèo mong”. Bên ni là “bên này”; bên nớ là “bên ấy/ bên đó”. Thế nhưng ở đoạn khác, lại có câu: “Bên tê thành phố tráng lệ, giai nhân nằm khoe lỏa thể. Bên ni phố vắng, ôi lòng ngoại ô”. Bên tê lại được hiểu “bên kia”. Nói cách khác, ni, nớ, tê tùy theo ngữ cảnh, ta có thể hiểu là bên này, bên nọ, nhằm chỉ hai hướng trái ngược nhau. Trong ca khúc “Quảng Bình quê ta ơi” của nhạc sĩ Hoàng Vân có câu: “Rằng có đắng cay nên chừ mới có ngọt bùi” - ta hiểu “chừ” là chỉ thời gian hiện tại như bây chừ/ bây giờ. Còn có thể kể thêm đôi từ nữa, chẳng hạn nhạc sĩ Lê Xuân Hòa có ca khúc “Răng anh nỏ vê”ì. Răng là “sao/ tại sao”; nỏ là “chẳng/ không” là một cách đặt câu nghi vấn v.v…

Sở dĩ chọn thủ pháp này, nghĩ cho cùng tác giả mong muốn ca khúc của mình mang sắc thái vùng miền rõ nét nhất, càng dễ lay động lòng người. Rõ ràng, ta có thể xác định đây là cách nói/ giọng nói của người miền Trung. Với mẩu trò chuyện ở ga Lăng Cô, nói tắt một lời, ta hiểu ni là này, chỗ này, cái này; mô: đâu, ở đâu, cũng có thể hiểu là khi nào, lúc nào? Tê là kia; tề là kìa; ri: thế này; rứa: vậy, thế; chi: gì, cái gì; Răng: sao, sao vậy, thế nào? Nhưng răng không chỉ có thế.

Thử nghe mẩu đối thoại này: Hai cậu học trò đến nhà rủ bạn đi học, nghe chó sủa ran, sợ quá, không dám vào nhà. Lập tức có tiếng bạn từ nhà nói vọng ra: “Đẩy cổng vào nhà đi, sợ chi mi, con chó không răng mô”. Có phải con chó rụng hết răng nên không thể cắn? Răng mô: sao đâu, đâu nào.

Nghe vậy, dù muốn vào nhưng vẫn ngần ngừ, vẫn sợ nên bạn nọ quay sang hỏi bạn đi cùng: “Mi dám vô không?”. Nghe hỏi, bạn này bèn trả lời: “Mi răng, tau rứa” - tức “Ai sao, tui vậy”. Còn nếu dù bạn ngần ngại, không dám bước tiếp nhưng mình đã quyết theo ý thì cứ việc hiên ngang đẩy cổng bước vô: “Mi rứa, tau ri”. Rồi lại hỏi: “Tao rứa, mi răng?”. Ca dao Quảng Bình có câu: “Răng chừ cạn lạch Lũy Thầy/ Sông Gianh hết chảy, dạ này mới hết thương”. Răng chừ: lúc nào, bao giờ. “Bỏ nhau răng rứa mà đành?/ Nhớ khi ăn cạnh, nằm cành bên nhau”. Răng rứa” là sao thế, sao vậy? Nghe răng rứa rứa răng trìu mến quá, phải không?

Có trường hợp, cơm nước xong, người chồng hỏi vợ: “Dạo ni, thằng Tèo học hành ra răng hè?”. “Hè” tương đương như “nhỉ/ nhé”, còn nhằm gợi sự đồng tình, nhấn mạnh tùy ngữ cảnh. Cô vợ bảo: “Mình hè, hắn học chi chi lạ, học cả đêm lẫn ngày”. Từ “hè” ở đây lại được hiểu “này/ nì”. Nghe thế, người chồng cả cười: “Lạ chi, học rứa có chi chi mô”. Ta hiểu “chi chi” nhằm chỉ cấp độ cao hơn “chi”.

Lại nữa, các cô cậu học trò bảo nhau: “Đi học hè!” - chẳng dính gì đến chuyện học thêm trong dịp hè, chỉ hàm ý rủ nhau đi học. Nếu trở thành nghi vấn, câu trên ắt phải là “Đi học hỉ?”; hoặc “Đi học he?”. “He” cũng tựa như “hè”. Ở Huế có câu hò đối đáp thật hay:

Tiếng đồn anh học đã thông

Con diều bay qua đó mấy cái lông anh hè?

Nếu đổi qua cách nói của người miền Bắc, ắt thành thơ… “Bút Tre” mất thôi. Câu đối lại thông minh cực:

Em về gánh cạn nước sông

Anh đây đếm được mấy cái lông con diều

Cách đối đáp này, rõ ràng “Kẻ tám lạng, người nửa cân”. Mà, rủ nhau/ cùng nhau làm chung một việc nặng nhọc gì đó cũng gọi là hè, chẳng hạn, “Nhiều người hè nhau đẩy xe lên dốc”. Ới, cô Hai có nhớ đến câu hò đẩy thuyền ở Quảng Bình? Nhớ à. Thì đây:

Hai bên đứng lại hai hàng

Người mụi, kẻ lái rập ràng cho mau

Hè, hè, hè...

Ba từ “hè” nối tiếp nhau trở thành khẩu lệnh biểu thị sự đồng tình. Thật ngộ cho cách phát âm của người miền Trung, nghe du dương mà cũng lạ tai ra phết. Nếu người Huế, người Quảng Nam nói: “Rứa, tối ni đi xem hát tuồng hè?” thì người Phú Yên lại phát âm “hè” thành “hé”: “Dẫy, tối ni đi xem hát tuồng hé”? Nếu cùng đồng hương Núi Nhạn, nghe không rõ ắt họ hỏi lại: “Bạn vừa nói cái gì hẽ?” - còn người Huế, người Quảng Nam, nếu không nói “hè” thì dùng “hỉ” cũng không sao: “Bạn vừa nói cái chi hỉ?”. “Hẽ/ hỉ” tựa như “hả”: Thế hả? Vậy hả? Mà, kể ra cũng ngộ khi nghe bạn hỏi: “Dẫy, tối ni đi xem hát tuồng hé?”. Người bạn Phú Yên kia muốn hỏi lại cho chắc ăn, câu nghi vấn lại là: “Dẫy na?”.

Học trò trong Quảng ra thi

Thấy cô gái Huế, chân đi không đành

Không riêng gì người Quảng, không ít người vùng miền khác cho biết họ cũng mê tít, bởi lẽ lúc nghe các nàng phát âm từ “ri, răng, rứa” diệu vợi quá chừng. Có trường hợp, khi đến thăm thầy, đang lúc pha trà, thầy bày vẽ/ chỉ vẽ cho cậu học trò: “Em phải làm như ri nè”, là phải làm như thế này, thế này. Bắt chước theo, nếu cậu học trò người Huế hỏi lại thì cách phát âm là: “Dạ, em làm rứa có đúng không thầy?”.

Quan sát nẫy giờ, thấy thiếu cái gì đó, thầy đưa tay chỉ: “Rứa cũng được, nhưng em còn phải thêm cái nớ”, tức còn phải thêm cái kia. Bằng không, cũng có thể thầy bảo: “Rứa cũng được, nhưng em còn phải thêm cái tê”. Tê là kia. Chưa hiểu rõ ý thầy, cậu học trò hỏi lại: “Dạ, cái tê là cái chi?”. Thầy đưa tay chỉ vào vật cụ thể gì đó rồi nhã nhặn: “Cái tê đó tề”. Thực hiện xong, cậu học trò dò hỏi ý: “Dạ, em làm rứa, thầy thấy răng? Có được không thầy?”. Thầy đáp: “Rứa rứa” - là cũng được, tạm được.

Có câu thơ của Mường Mán, vận dụng chỉn chu cách nói của người Huế: “Sáng vàng thu trời mưa nho nhỏ/ Chờ ai răng o nớ, mưa tề”. Tề ở đây là “kìa”. “Mưa tề” không liên quan gì đến địa danh như Quang Dũng viết: “Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến/ Quạnh vắng chiều sông lạnh đất Tề”. Trong lúc đóng cái tủ, cầm thanh gỗ lên đo rồi làm dấu, người cha bảo: “Ri dài quá, con tề đi”. Tề là chặt/ cắt/ tiện bớt cho bằng, cho đều. “Hai ta như đũa trong kho/ Không tề, không tiện, không so cũng bằng” (ca dao).

Từ “tề” này cũng “lắm chuyện”.    

Ảnh: L.G 

Thời kháng chiến “chín năm”, có thể là lần trước nhất xuất hiện “tề” - hiểu theo nghĩa vùng do địch chiếm đóng, dựng lên bộ máy chính quyền theo chúng, do đó, mới xuất hiện làng tề, hội tề, phá tề, tề ngụy… Và ngoạn mục nhất vẫn là sự xuất hiện thành ngữ mới “Ấm ớ hội tề”, Đại từ điển tiếng Việt (1999) giải thích: “Có thái độ không dứt khoát, việc gì cũng tỏ ra không hẳn biết mà cũng không hẳn không biết, giống như người làm việc ở cơ quan làng, xã vùng bị tạm chiếm thời trước (gọi là hội tề) vừa bị sức ép của trên, vừa bị dân chống đối, nguyền rủa nên thường phải tỏ ra không dứt khoát trong mọi chuyện để tránh sự trừng phạt trên xuống, dưới lên”. Hiểu thế này, có lẽ câu thơ của Quang Dũng phải là “Quạnh vắng chiều sông lạnh đất tề” - ngụ ý “đất tề” là vùng tạm chiếm, chứ không phải “đất Tề”. Khi bàn về thái độ của người đàn ông đã có vợ, hắn ta bị bắt quả tang lúc léng phéng mèo mỡ, Hồ Xuân Hương bèn làm thơ trêu:

Ngoảnh mặt sang Tề, e Sở giận,

Quay đầu về Sở, sợ Tề ghen.

Thái độ lúng búng như chó ăn vụng bột, lúng túng như thợ vụng mất kim, ấp a ấp úng, đúng là “Ấm ớ hội tề”. Thật ngộ, một khi ai đó đang sống trong vùng kháng chiến, vì lý do gì đó rời bỏ, quay về vùng tề thì lại gọi “dinh tê/ rinh tê”. Do cơn cớ gì cái dấu huyền trong chữ “tề” trong đất tề/ làng tề bị mất tiêu? Không ai có thể trả lời nổi, vì “dinh tê/ rinh tê” là phát âm mượn từ tiếng Pháp rentrer: trở về/ quay lại nằm trong ngữ cảnh như nhà phê bình Vũ Ngọc Ngọc Phan viết trong hồi ký Những năm tháng ấy (NXB Văn Học-1987): “Một số anh chị em văn nghệ sĩ xuống Rừng Thông, Cầu Bố buôn bán, và rồi họ không kiếm sống được nên đã rinh tê”(tr. 387).

Lại thử đọc câu ca dao xứ Huế: “O tê o tể o tề/ Cái mặt thì rứa, cái tề thì răng?”. Tề ở câu bát đã lái sang nghĩa khác, ngon ơ bà ờ, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Hiểu sao? “Nhạy cảm” quá đi mất, tôi đây đành nín khe, đành thin thít như thịt nấu đông, đành câm như hến. Cho nó lành.

Thời kháng chiến chống Pháp, Lưu Trọng Lư viết bài thơ “O đi tiếp tế”, có câu: “Xuân gầy ba bảy/ Da tuyết vàng khè/ O sợ chồng chê/ Nhưng o vẫn bước/ Mình lo việc nước/ Chồng chê "mược" chồng”. O là cô gái trẻ, cũng chỉ người phụ nữ đã có chồng, tùy vai vế mà xưng hô. Chẳng hạn, lúc đang làm bếp, nhìn quanh không thấy, cô con dâu lễ phép: “O ơi, cái thớt đâu hè?”. O ở đây đích thị là bà cô, tức chị hoặc em của cha chồng. Thành ngữ có câu: “Giặc nhà Ngô không bằng bà cô bên chồng”, “Ông chú bà cô”. Thế nhưng khi chị dâu hỏi em chồng, lại xưng bằng… cô! Chẳng hạn, “Cô Ái ơi, cái thớt nhà mình treo ở mô?”. Oái oăm thiệt.

Ta trở lại với mẩu đối thoại của vợ chồng nọ về chuyện học hành của con. Sau đó, người chồng hỏi tiếp: “Thằng Tèo rứa, còn thằng Tý răng?”. Cô vợ than phiền: “Úi chà, nỏ học hành chi, hắn đang o cái o bán bánh bèo”. O ở đây là ve/ tán/ cua gái. Ối dào, thằng Tý mới nứt mắt, mặt búng ra sữa, hỉ mũi chưa sạch đã ri, đã rứa, rứa ngày sau cơm cháo ra răng hé? Tôi nói rứa, cô Hai thấy răng hè?

Lê Minh Quốc

 

30 thg 3, 2022

Chuyện câu cá/ Sao mình mải câu/ Tạp bút Ngân Triều/ Cảm đề Nguyễn Nam

 1/ Chuyện câu cá


Lời dẫn:
Nhà tôi ở trong một “châu vi” (1), đối diện với một cái đồn Tây Bàu Trai, thuộc làng Tân Phú Thượng. Vể phía Nam châu vi, có một dòng suối (2) nhỏ, lắm cá, chảy ngang. Dòng nước suối, chảy xiết vào mùa mưa và êm đềm trôi ra sông Vàm Cỏ Đông, mùa khô. Nguồn nước chảy về suối, xuất phát từ miệt vạt ruộng đồng phía Đông, thuộc miệt Bàu Công, Tha La (3) Đức Ngãi và đồng bưng Thầy Cai.
Thuở ấy, các bạn nhỏ và tôi cứ nghĩ “chiến tranh là chuyện của người lớn, chỉ có ở nơi xa” và lũ con nít chúng tôi chỉ biết hồn nhiên, lang thang vui chơi trong một vùng đất lảnh có nhiều cá, nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú, vô tận …
Khoảng năm 1952-1954, quê tôi có vẻ yên ổn, thanh bình. Đồn Tây hiếm khi báo động. Cái vọng lâu cao trước đồn đã được hạ xuống. Ít khi thấy xe cơ giới có trang bị súng canon vingt (đại bác 20 ly) chạy ra , chạy vào, tuần tiểu. Thỉnh thoảng, chúng tôi chỉ nghe tiếng súng douze-sept (đại liên đuôi-sết, 12,7 ly), vài loạt của tàu mặt dựng trên sông Vàm Cỏ Đông vọng về và lâu lâu thấy những chiếc máy bay thả những lính nhảy dù… đâu đó, xa tít ở cuối chân trời…
Vui biết mấy một thời Tiểu học! Hễ đến trường là bọn con trai chúng tôi đem theo trong cặp bàng những đồ chơi trẻ con, chờ trống điểm giờ ra chơi là rủ nhau “cáp độ”. Đó là những trò chơi nhỏ theo mùa như bắn “cu li” hay bắn bi, bắn bi ăn bi, bi một lổ, hai lổ; đánh đáo lổ hoặc đánh đáo ra, đánh đáo hạt điều, đánh đáo tiền cắc; chơi “chọi tạt” ăn hình Tarzan, hình cowboys hoặc ăn bao thuốc lá thơm xếp thành hình tam giác; chơi đá gà, chơi u bắt mọi, chơi khô-ướt, chơi đếm 5-10, chơi cá sấu lên bờ; chơi rồng-rắn cắn đuôi, chơi đá banh…Ngoài ra còn có các trò chơi bị cấm vì nguy hiểm như “đánh quạ” giống như đánh khúc côn cầu (hockey), ném banh, đánh gồng, bứt dây dộng chuông…
Nhóm con gái thì chơi các trò chơi đằm thắm nhưng không kém phần hào hứng như đánh đũa, nhảy dây; ông đi qua bà đi lại, bắc kim thang; than thế nổ, nhảy chén chậu, cùm nụm cùm nịu…
Những ngày nghỉ học, đầu mùa mưa, chúng tôi thường rủ nhau đi câu cá ở suối Bàu Trai, đi giăng câu, thả lưới nhưn, đặt lờ bóng; đi câu cắm ở ruộng, đi câu ếch, đi câu nhấp, đi câu cá trê, đi câu cá rô, “câu tọt”( câu nhấp lưu động…)
Đến cuối mùa mưa, nước ruộng, nước ao, nước bàu trong vắt, có màu cỏ khô nâu; nơi cạn có thể nhìn thấu đáy nước. Bấy giờ, sau khi được nhiều cá là chúng tôi rủ nhau tắm bàu, tắm ao…đùa giỡn trong tiếng la hét rộn ràng…Ôi! một thuở trường làng.…Còn một chút gì để nhớ…Bao giờ tôi quên?!
 
Tắm suối (Ảnh minh họa)
*****
(1) Thời đó, châu vi như một cái ấp nhỏ, bị bắt buộc tập trung, nên điều kiện sinh hoạt của người dân rất thảm hại về mặt vệ sinh. Gần 200 nóc gia, không có lấy một nhà vệ sinh nào. Khi cần là ra đồng núp bụi, núp bờ…gieo rắc những “di sản” tràn lan, mới có, cũ có, như một bãi rác hôi thối, tỡm lợm…Chỉ tội nghiệp cho những trẻ mục đồng phải thường giẫm đạp “ghê chân”, khi phải lùa trâu bò đi và về ra những cánh đồng xa. Có thể do đó, mới có từ “đi đồng” là đi ra đồng làm cái chuyện khẩn thiết bản thân.
(2) Dân địa phương gọi là dòng suối vì hai bên bờ có những bóng cây; có những lùm, bụi, cây dại thấp; có biền đầy những dây leo và dòng nước, dù chảy xiết hay lặng lờ trôi ra sông cái; đối với tôi,dòng suối ấy, rất gần gũi, mến thương…
Sau nầy, khi thành Tỉnh Hậu Nghĩa, con suối đó được khai thông và nâng cấp nhiều lần đến tận sông Vàm Cỏ Đông. Ngày nay, tên con suối đó không còn nữa. Tên “con suối xưa” đã trở thành một con kênh rộng 40m, có nước lớn, nước ròng, có một cây cầu Bàu Trai dài 80m, có ghe thuyền miền Tây tấp nập lui tới đến Bến Chợ, bán hàng hóa, đặc sản miền Tây, bán phân tro theo mùa hoặc thu mua những nông sản địa phương…
Những ngày nghỉ học, đầu mùa mưa, chúng tôi thường rủ nhau đi câu cá ở suối Bàu Trai, đồng thời xem người ta đi đánh bắt cá bằng nhiều phương tiện khác nhau.
Đến điểm câu, chúng tôi ngồi trên một tấm thảm cỏ chỉ, êm như nhung, trên bờ suối. Mỗi đứa chúng tôi câu bốn cần câu phao là chuyện bình thường. Chúng tôi chọn khu vực thả câu kề cận nhau để có thể vừa câu cá, vừa tán gẫu cho vui.
-Ê bồ, bồ có nhớ tụi mình biết đi câu cá hồi nào không, hồi lớp mấy không?
*Tui không nhớ rõ lúc mình câu chung lần đầu là năm lớp mấy trường làng nhưng có thể khi ấy, tụi mình hãy còn bé lắm.
-Phải hồi 10 tuổi, lớp tư, cours enfantin (3) đúng không?
(3) Trường sơ cấp thời đó có 3 lớp: Lớp năm hay vỡ lòng gọi là cours préparatoire; lớp tư là cours enfantin, lớp ba là cours élémentaire. Trường Tiểu học có 5 lớp, ngoài 3 lớp như trường sơ cấp, còn có thêm hai lớp nữa là lớp nhì, cours moyen và lớp nhất là cours supérieur.
*Có lẽ là như vậy. Đi câu phải biết móc mồi, biết canh độ sâu gắn phao, biết quan sát chỗ có cá để thả câu, biết kiên nhẫn đợi chờ cá-ăn-câu-phao-nhịp; biết bình tĩnh khi giật cá…như vậy là câu cá được đấy.
-Móc mồi vào lưỡi câu, gắn phao, thả câu, kiên nhẫn ngồi chờ…thì ai cũng làm được. Chỉ khi giật cần câu là cả một nghệ thuật trong đó…Giật không đúng là sẩy cá. Thật tiếc uổng! Con cá sẩy, thường là cá to. Tuy vậy, còn có người đi câu, để mà câu thôi, không cần có cá. Đi câu để lắng đọng tâm hồn; suy gẫm chuyện mình, chuyện đời; câu cá để chờ thời, chờ vận, như một người chừng mực, hiểu đời,biết sống; như một thức giả; như một bậc hiền-nhân-quân-tử; như bậc thánh nhân…
* Nhớ bài “Chăn trâu”, học thuộc lòng hồi đó không?
“Ai bảo chăn trâu là khổ? – Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong vòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ. Trong khoảng trời xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi vui thú, tưởng không có gì sung sướng cho bằng…” (Quốc Văn Giáo Khoa Thư)
(Chăn trâu, ảnh minh họa)

-Đúng phoóc?
-Vậy mình đổi lại mấy chữ thành đi câu cá đi!
* Ờ, hay đó! Thử xem!
“ Ai bảo đi câu là khổ? – Không, đi câu sướng lắm chứ! Đầu đội nón mê như lọng che. Tay cầm cần câu như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên thảm cỏ, tai nghe chim hót trong vòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ. Trong khoảng trời xanh, lá biếc, đi câu thảnh thơi vui thú, tưởng không có gì sung sướng cho bằng…”
-Ôi! Hay! Hay quá, hay quá là hay! Xin thưởng cho một tràng pháo tay: (đốp đốp đốp…)
Hay! Hay quá, hay quá là hay! Xin thưởng cko một trận cười: (meo meo meo…)
* Cười gì mà nghe y như tiếng mèo ngao vậy?
-Hê hê…
…..
-Vậy là, hễ cá lôi phao về bên phải, phải giật ngược về phía bên trái và ngược lại. Hễ cá lôi phao về phía xa trước mặt thì giật bổng lên. Còn cá lôi phao về phía mình đứng câu?
*Thì cũng giật bổng thôi. Có thể đây là lý thuyết cơ bản, là bài học vỡ lòng của người đi câu cá.
(Ngày nay đi câu thường phải mang theo vợt. Ta chỉ giật nhẹ cho cá dính vào lưỡi câu và kéo nó lượn đến gần chỗ mình, thuận tay, đưa vợt ra vớt cá, nếu là cá lớn. Còn cá nhỏ cứ giật bình thường, cá dính vào lưỡi câu bị giật tung lên trời, theo giới hạn của sợi nhợ, cá sẽ đu đưa đến chỗ mình câu, bắt lấy, mở lưỡi câu ra và bỏ vào đục).
- Sao phải giật như vậy? Giật tùy thích thì có dính cá không?
*Biết sao không? Anh hai tôi nói rằng, phải giật cần câu theo cách ấy thì lưỡi câu mới dính sâu vào mang cá, không sẩy; còn giật tự do thì có khi cũng dính cá, mà phần lớn là sẩy cá; khi ấy, lưỡi câu dính gần mép cá; cá bị giật lên khỏi nước, sức nặng của cá cùng với sức cản của nước ghì lại, làm cho cá bị sứt mép là cá sẩy, hoặc nó bay từ bên nầy rơi tõm sang bên kia, như có dịp “đằng vân”, thăng thiên chơi, cơ hội thú vị miễn phí …
-Đúng rồi! Ha ha!…
…….
-Còn việc làm mồi câu cá thì…có bí quyết gì không?
*Có chớ, bí mật gia truyền nên ít ai phổ biến. Tui chỉ nghe kể lại, cách chế biến mồi câu đại khái mà câu cũng nhạy hơn bình thường. Đối với cá rô thì xào trứng kiến với mỡ bò, cạo them một ít sáp đèn cầy cho dễ vắt mồi câu, xào đừng ướt quá…mồi câu đơn sơ, dễ làm như vậy rất nhạy. Đối với cá trê thì lấy nước rô-ti thịt, cá còn dư trong chảo, đựng trong một cái hũ chao rửa sạch. Mỗi khi móc mồi trùng xong là nhúng lưỡi câu có mồi trùng vào hũ, mới thả xuống nước… khắc cá đến ăn.
(Ngày nay khi đi câu cá rô, người đi câu thường có mồi nhử cá. Mồi nhử đem chôn và thoa dưới bùn, đồng thời dọn dẹp sạch cỏ chỗ định câu khi giật cần khỏi bị vướng víu, làm chừng 4 điểm như vậy là đủ, mỗi điểm cách nhau chừng 5-7m. Thao tác xong 4 điểm, quanh lại điểm 1 câu liền. Có khối cá rô nghe mùi mồi nhử lượn lờ, đớp móng, tìm mồi,đang chờ sẵn ở đó. Vừa thả mồi trứng kiến xuống là cá rô đớp liền, người đi câu tha hồ giật lia giật lịa, móc mồi không kịp luôn… Khi cá chậm ăn là đã hết cá ở đó, mình phải dời qua các điểm 2, 3, 4…còn nếu muốn được nhiều cá hơn nữa thì đi tìm vị trí khác, cũng làm như vậy.
Ngày nay, người đi câu cá rô làm mồi nhử tân kỳ và hiệu quả lắm, có phổ biến trên tạp chí Kiến thức ngày nay…rất tuyệt vời! Cách làm mồi nhử cá rô như sau:
*1 muỗng canh, sữa bột em bé.
*1 muỗng canh, cà phê bột thơm ngon,1 gói càfé sữa hòa tan cũng được.
*1 lon cám rang vàng.
*5-7 cánh tai vị hay ngũ vị hương là vị thuốc Bắc đại hồi, mua ở tiệm thuốc Bắc hoặc ở các tiệm chạp phô bán đồ gia vị; rang lên đâm nát rất thơm.
* 1 ống thuốc chích dầu bạc hà 2ml hiệu Solucamphre cốt để tạo mùi thơm kỳ dị.
Tất cả trộn đều, bỏ riêng vào 1 lon có nắp đậy, thế là đã có mồi nhử cá rô rồi đấy. Mồi nhử đem trộn với bùn, thoa đều tráng đáy, ở điểm thả câu [xem bên trên]).
Đến mùa lúa trổ đòng đòng, cá rô ở ruộng mập ú cỡ ba ngón tay, mỗi lần giật cần, nghe sướng tay lắm. Đi câu chừng 1 tiếng đồng hồ, được 2-3 kg cá rô…là chuyện “chắc như bắp”. Tuy nhiên, nói đi còn nói lại, ngày nay dân đông, ruộng lúa thâm canh đều sử dụng rất nhiều thuốc trừ sâu. Mặt khác, khi mùa mưa đến, cá lên ruộng sinh sản được, phải gian nan thoát hiểm, may mắn vượt qua biết bao nhiêu là những công cụ đánh bắt cá ở dọc đường đi. Còn lại số lượng cá được lên ruộng đồng sinh sản, chừng 20%. Số cá ấy còn bị những người đi “chích điện” truy tìm, vơ vét nốt. Cho nên số lượng cua, cá, ếch, rắn…trên ruộng đồng quê mình chỉ còn rất ít so với hơn 60 năm về trước. Môi trường sinh thái mất cân đối, lúa bị nhiều sâu rầy làm hại.
Ba tui nói, hồi đó, trên một đám ruộng nước mới cày lật, ếch nhỏ, ếch lớn ngồi đặc trên các vỡ cày, rình mồi. Có một cậu bé nào rê ếch bằng một cần câu dài chừng hai sải tay, trên đám ruộng đó, thì có hàng trăm con ếch ùa theo đường rê câu, giành ăn mồi… cậu bé chăn trâu đó, cứ giật sẩy rất nhiều mà bọn ếch cứ kiên nhẫn, lì lợm, ngồi chờ mồi câu…
Mỗi khi đi trên bờ ruộng thăm đồng, cứ vài bước chân là ếch từ bờ nhảy xuống ruộng lúa tõm…tõm..liên hồi như tiếng trống bỏi (Đồ chơi trẻ thơ, trống bỏi có 2 mặt nhỏ như cái chén, có một sợi dây, đầu xỏ một cái nút tròn, vừa đủ để nút chạm vào hai mặt trống, có gắn một tay cầm. Trẻ thơ cầm trống, lắc tay qua lại, nút dây ấy đánh vào hai mặt trống…nghe tong…tong… liên tục, rất vui tai).
Còn cá con thì nhiều vô kể. Vác nhũi đi nhũi chừng một lát thì được một nồi cá con kho quéo, đủ bữa cho cả nhà, chưa kể các cách bắt cá khác…

                                                         nhũi cá
 
 
 
-À mà bồ có đi câu đêm lần nào không?
*Có chứ! Nhất là gần mùa gió Bấc. Trời im vắng, se lạnh, chỉ nghe tiếng đớp móng “uủn…uủn …” của cá, phải đem theo một cây đèn pin hộp để tiện dụng. Người ta thường câu ở dưới suối, câu trước các miệng rọ…
Khi đến chỗ câu, người đi câu lần mò móc nguyên 1 con trùng sành vào lưỡi câu trê, thả mồi xuống nước, câu ngầm, không cần phao, (Ngày nay, khi đi câu đêm, người không quen câu ngầm, có thể mua phao lân tinh, rất tiện), nhấp nhấp liên tục làm như con trùng đang cử động, chốc chốc lại nhè nhẹ giở cần lên, nếu cảm thấy nhợ căng hơi nặng tay và có đối lực lại, là cá trê đã ăn mồi, lập tức, giật cần ngược lại… là dính một “chú cá trê”. Khi lên khỏi nước, dính vào lưỡi câu rồi, nó thường vừa giãy giụa vừa kêu “kẹt kẹt…” nho nhỏ…Cá trê thường đi ăn hai lần, hừng đông sáng và chập tối. Mỗi đêm câu đến khuya, tùy theo có “sát cá” (câu giỏi) hay không, số lượng cá câu được hai ba ký cá là chuyện bình thường.
…..
- Bồ có đi “soi ếch” lần nào không? Chắc là thú vị lắm?
* Ờ…ờ…! Đầu mùa mưa ấy mà! Loài ếch “rộng miệng, to tiếng” thường chết vì tiếng kêu của chúng. Khi trời sắp mưa, ở trong hang, nó kêu to: bị lộ điểm, bị bắt. Khi có mưa lớn đầu hôm, nước ruộng lấp xấp, đi tìm bạn tình để duy trì nòi giống, chúng cũng kêu to lên để rồi bị bắt cả cặp.
-Người ta đi soi ếch như thế nào?
 
                                (Soi ếch, ảnh minh họa)
* Phải có đồ nghề! Đồ nghề soi ếch rất đơn giản: một cái đèn soi tự chế, một “chiếc đèn con cóc bằng thiếc” chuyên dùng, có bán ở tiệm tạp hóa; một cái nơm để chụp ếch; thủ theo một cái hộp quẹt máy cho nhạy… Nếu không kịp chuẩn bị đèn đuốc, có người soi ếch bằng “con cúi” bằng rơm cũng được.
Thời gian thuận lợi đi soi là vào lúc quá nửa đêm. Khi ấy, tiếng ếch kêu đối đáp nhau vang đồng. Chúng kêu lên, tìm chọn bạn tình, để làm cái chuyện yêu đương mà dân gian gọi là “mắc cặp”. Người đi soi chỉ cần soi đèn, men theo hướng có nhiều tiếng ếch kêu vì khi ếch đã mắc cặp thì không rời nhau, không hoảng sợ chi cả, cứ an vị tại chỗ, bất kể “dâu bể tang thương”, trời gầm không buông. Trong ánh đèn soi, bộ da đen-vàng đặc trưng của cặp ếch nổi trên mặt nước lồ lộ, cùng với 8 cái chân bơi bơi. Định vị xong, quật ngang lồng đèn để chúng không thấy mình, đưa nơm tới chụp…là bắt cả cặp. Ở điểm có nước lấp xấp, thường có nhiều ếch. Chúng nằm lóc ngóc, nổi trên mặt nước, nơm bắt không kịp luôn! Khi lùng sục xung quanh vạt ruộng tình trường, bắt hết ếch rồi…lại lắng nghe tiếng ếch kêu, xách đèn men theo hướng đó…tiếp tục soi đèn bắt ếch …
( Có thể sắm một “cây đèn khí đá” bằng thiếc, có 2 ngăn, thì độ sáng mạnh hơn rất nhiều lần so với đèn con cóc đốt bằng dầu hỏa. Nó có chóa đèn mạ kền, sáng trưng. Như vậy là chập tối, phải chạy ra quán tạp hóa của “chú chệt mập” mua “khí đá” hay “đất đèn”, tức là đá carbure de calcium, đá tan trong nước sẽ cho khí đốt acétylène, C2H2, bỏ đá ấy vào ngăn dưới, mở nước từ ngăn trên nhểu xuống là có khí C2H2 bốc lên béc đèn, châm lửa tại béc (mỏ đèn)… đốt thử đèn, xoi béc đèn…Nếu đèn cháy tốt, khóa hơi đèn, khóa nước lại, để đèn và nơm ở góc nhà dưới, háo hức, chờ đến khuya…là khởi hành, vào cuộc. Ngày nay người ta soi ếch bằng đèn bình ắc-quy mang trên lưng, có dây dẫn điện đến một cây đèn đeo trước trán. Tân kỳ nhất là một chiếc đèn led có pin charge, vừa nhẹ nhàng, vừa lâu hết pin, rất rẻ).
-Đi soi ếch, bồ có gặp ma không?
*Tui thì chưa thấy ma bao giờ nhưng nghe người lớn kể chuyện ma; dù chỉ đi theo anh hai tôi để xách đục hoặc xách giỏ và thủ một cái chỉa đùm phòng khi gặp rắn; lắm lúc tui cũng thấy rờn rợn khi đi ngang các đám mả đất, thấp lè tè…vì có thể có ma trơi…
-Ghê quá!
*Mà ba tui thường nói “Đức trọng quỷ thần kinh”. Người có đức, ma quỷ cũng phải sợ người ấy. Người sống hữu hình còn khó làm hại nhau, huống chi hồn ma dật dờ vô hình…làm sao “nhát” hay hại mình được? Người lớn thì nói vậy, còn con nít bọn mình…nghe chuyện ma rồi…hết dám đi soi ếch, câu đêm… vắng vẻ một mình luôn…
-Kìa! Kìa! Cái phao của bồ nhịp nhịp…chắc là cá trê …coi chừng giật đó!
Thế mà đã hơn sáu mươi năm trôi qua! Sáu mươi năm mà thời gian vùn vụt qua nhanh, ngỡ ngàng như trong giấc mộng!...
Về họp mặt bạn cũ, ôn lại những kỷ niệm của một thời thơ ấu xa xưa, lòng chạnh bồi hồi khôn tả! Bạn bè giờ đà ly tán cả. Có đứa ở xa lắc phương trời. Có người rêu phong cùng cát bụi, ôm tuổi trẻ, quên đời. Nam nữ đều ở tuổi U80, da mồi tóc bạc, đi đứng lụm cụm khó khăn. Ai cũng đeo trên vai gầy một số căn bệnh tuổi già để chờ ngày “ đoàn tụ” với người thân, ở bên kia thế giới mới. (Mà nói cho “oách” là “đi Đứt”, hay “đứt bóng” …vậy mà! Còn gặp nhau là còn trẻ trung, còn rộn rã những tiếng cười thân ái, còn sống lại những kỷ niệm thương mến đã tàn héo từ lâu…Rồi đây, biết năm sau và những năm sau nữa, ai còn - ai mất? Số mệnh tất định, khôn lường. Tuổi già như ngọn đèn sắp hết dầu, chập chờn trước gió, vụt tắt vô chừng. Giây phút tương phùng của bạn già…thật là trân quý biết bao!
Còn chăng cơ hội, hạnh ngộ ngày vàng?
Chuyện ngày xưa… cánh hoàng hôn không đợi!
Tuổi thơ bay nhanh, trời xanh mây nổi,
Tái tê lòng, khắc khoải, cuối trời quên…
Tâm hồn tôi cứ bâng khuâng xao động, trong ngậm ngùi tiếc nhớ, miên man…
Quê hương giờ đang chuyển mình thay đổi toàn diện, từng ngày. Những tài nguyên thiên nhiên, gắn liền với những cánh đồng mênh mông của một thời thơ ấu hơn sáu mươi năm trước, giờ đã cạn kiệt do khai thác, đánh bắt một cách bừa bãi; tàn diệt môi trường một cách thiển cận, nhẫn tâm, vô ý thức. Nếu kể về chuyện ếch- cá của quê mình, thuở ấy, con cháu bây giờ và sau nầy, chắc chúng khó lòng hình dung được. Những chuyện câu cá thời thơ ấu đó…có thể chỉ còn là những chuyện xưa tích cũ lỗi thời…
-Bồ còn nhớ mẩu chuyện vui nào, hồi đó không? Đã chìm sâu hơn sáu mươi năm rồi… xa lắc!
*Ừa! Hơn sáu mươi năm! Thời gian nhanh quá! Chuyện như mới ràng ràng đây thôi…trong chớp mắt, phút chốc…tụi mình đã lẩn thẩn, mang thân già lụm cụm!…Chuyện câu cá ấn tượng, sao mà quên được! Nhớ hoài:
“Lúc đó, vào một buổi sáng nghỉ lễ, tui cùng một tốp bạn ra cánh đồng loáng nước, bắt cua. Có một anh bạn ở Chợ Lớn mới chuyển về, cũng muốn nhập bọn đi bắt cua cho biết. Đến nơi, chúng tôi cứ để chân trần, ùn ùn lội trong rỗng nước của đám đất chưa cày lật, ngập đến nửa ống chân. Nước ruộng trong veo màu-vàng-nâu-cỏ-cháy. Nghe tiếng động, cua ở trong rỗng nước chạy ngời ngời về phía trước mặt mình như trò chơi đuổi- bắt. Khi thấy cái khuôn nhỏ, vuông vuông, màu tím-trắng có vân, chạy trước mặt mình, đó đích thị là một con cua, thế là thò tay chụp nó, tóm nó theo bề dọc các ngoe, hay nắm hai bên cái mai, tránh hai cái càng ra, bắt bỏ vào giỏ là xong. Hoặc là lấy chân đạp nhẹ, giữ nó lại trong chân rồi cẩn thận thò tay bắt lấy. Nếu không biết cách bắt lấy, ngón tay mình có thể bị cua kẹp, đau điếng.
Nếu không biết cách bắt lấy, ngón tay mình có thể bị cua kẹp, đau điếng.
Đang hăng say vào cuộc săn lung cua, bỗng nghe một tiếng la thảm não, vang lên: “Ui da!”. Cả bọn ngoái nhìn thì thấy nạn nhân là anh bạn mới đang nhăn nhó, để thấy một con cua mới lớn kẹp sâu vào ngón tay út.
-Ui da! Đau quá!
Tui liền chạy lại cứu. Lính quýnh, khó có thể bẻ càng cua. Tui liền nắm cả bàn tay dính cua của bạn, đặt nhanh xuống mặt nước; theo kinh nghiệm dân gian; khắc cua sẽ nhả càng ra, bôn tẩu. Mà quả như thế thật! Nhưng nó có chạy đâu cho khỏi tay tui. Nó vừa rời khỏi tay anh bạn là nó liền nằm gọn trong tay tui.
-Mi sắp hóa kiếp mà còn bướng bỉnh, làm tàng, sức mấy mà giỡ trò anh hùng rơm! Ta cho mi biết tay! Đồ ngang ngược!
Thế là tui vụt mạnh nó vào giỏ của bạn. Nó nằm cong queo. Quả là bạn chưa biết cách bắt cua. Ngón tay út ngòi viết của bạn ấy khuyết sâu, rướm máu.
-Có ai có dầu gió không?
-Có dầu cù là Mác-su nè!
-Một chút hết liền hè!
-Sao không để ý? Bắt dứt khoát, cẩn thận, tránh càng nó ra!
-Ha ha…bắt cua, cua kẹp, bắt rùa rùa bơi!
-Thôi đi bạn! Cô dạy là người ta đang bị rủi ro, ngoài ý muốn, chớ nên “cười” mà tội nghiệp!
-Cười người chớ khá cười lâu,
Cười người bữa trước, bữa sau người cười
- Chớ nên châm chọc bạn nhé!…
-À! Có phải chuyện bạn “Ngà cua kẹp” không?
-Nhưng tiếp sau đó còn tiếp liền một chuyện vui nữa, đúng không?
* Ờ! Ngà cua kẹp sau đó một lúc, tự nhiên lại la “oái oái!” nữa, rồi ba chân bốn cẳng chạy té nước, quăng cả đục cua.
-Có chuyện gì vậy?. Mặt tái mét, Ngà nói trong hơi thở hổn hển đứt quảng:
-Kinh khủng…Thấy ghê quá!
-Chuyện gì? Ở đâu?
-Đằng …kia cà! Không hiểu chuyện gì xảy ra mà bạn lại “khiếp vía” đến thế. Mãi sau bạn mới nói:
-Con ếch…
-Có con rắn ở đó phải không?
-Không phải rắn! Sợ…lắm!
- ???
-Có con ếch mẹ…cõng…con ếch con!
Cuối cùng hóa ra là một cặp ếch tìm được nhau quá muộn trong “chợ tình”, đang say sưa làm cái chuyện “ái ân quên trời đất, yêu nhau quá muộn màng”. Ngà là dân thành phố mới về, lần đầu mới thấy nên mới lạ lẫm, sợ hãi, trong ngớ ngẩn, buồn cười…”
…..
-Bồ kể tui mới nhớ một chuyện khác:
“Hồi đó, chiều tối tui thường đi ra ruộng cắm câu. Sáng sớm tui háo hức, lon ton đi thăm câu, bắt cá về…Sao có một đầu cần câu bị kéo sát mặt nước? Dây nhợ kéo nghe nằng nặng, rối vòng trong bụi lúa. “Chắc là đã dính một anh “cá lóc” to đây”, tui nhủ thầm.. Khi lui cui nhổ cần, kéo lên … thấy một phần da bông bông cục cựa, loáng thoáng trên mặt nước nhiều cỏ. “Đúng là một con cá lóc to”. Sợ sẩy thì uổng, tui hồi họp, lấy hai tay chộp vào chỗ da bông bông đó, tóm nó kéo lên. “Oái! Con rắn!”, tui buông tay, hào hễn bỏ chạy thật xa…Một lúc lâu định thần mới quay lại, nện cho nó mấy cây cần câu cắm, nó mới “ngay đơ cán cuốc”…rồi cứ để nguyên lưỡi và nhợ câu…mà cho vào giỏ. Hóa ra là một con rắn ri cá khá to. Chuyện hi hữu là vầy. Cái cần câu đó đã dính sẵn một con cá rô nhỏ trước đó rồi, con rắn ri cá lại đến xơi con cá rô đó, nên nó mới dính câu luôn. Sự việc hồi họp, buồn cười, trớ trêu, làm mình muốn “lên ruột” (4), Thật là con mắt tráo trưng quá! Hi hi… Mà bồ kể nốt chuyện kia đi!”
…..
* Do Cơ duyên thôi! Cũng là chuyện câu cá! Lần đó đi câu, tui bắt được một con cá lạ, hình như cùng họ hàng với cá Nược! (5)
-À! Cá Nược, loại cá có vú ở sông Vàm Cỏ Đông. Mà bồ câu cá đó, ở đâu vậy?
* Đích thị chỉ có ở quê mình… được một cô “ cá Ngần” tuyệt đẹp!
- Ồ! Cá Ngần là Cá Ngân Long mà, loại cá cảnh quý hiếm? Khối tiền đó! Bồ có đem bán cho ai không?
*“Chim trời cá nước” mình có duyên kiếm được là để nuôi…chớ bán cho ai. Trời đãi cho mình mà!
-Rồi nó có sinh sản gì không?
* Có chớ! Sinh sản được 6 lứa, mà sao mỗi lứa chỉ có …một con hè!
-Thật là cơ duyên đó! Mà bồ nuôi nó được bao lâu?
*Nhờ Trời…nó rất dễ nuôi…Đến nay đã được tám lần sáu năm rồi…mà còn tiếp tục nuôi nữa đó!
- ??? Ha ha…Tám lần sáu năm; sáu lứa, sáu con; tên là cá Ngân long hả…À à!...Biết tỏng rồi! Hóm hỉnh, ví von, ngoắt ngoéo… tự trào mà! Tình sử của “chàng và nàng”... mà mình cứ ngỡ …là “chuyện câu cá”.
* Ha ha!...
 
 Ngân Triều
 
Ghi chú:
(4) là sợ hãi cao điểm
(5) Ở đây nói quanh co, tung hỏa mù để người đối thoại khó đoán. Thực ra Cá Ngần và cá Nược không giống nhau và ở Sông Vàm Cỏ Đông chỉ có cá Nược, cá có vú, không có cá Ngần.
(*) ĐTTT- Nguyễn Du, câu 3-4

Cảm tác khi đọc "Chuyện câu cá" của Ngân Triều
Sao mình mải câu
Sòng đời ngồn ngộn hư vinh,
Dư ba biển mộng, sao mình mải câu?
“Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” (*)
Nguyễn Nam
CHS Tây Ninh - SPS khóa 2,
 
 
Mời Xem 1 Bài Khác Của Ngân Triều :