30 thg 4, 2018

LÃNG MẠN - Thơ Quách Như Nguyệt


Mỗi khi buồn em sẽ mơ với mộng
Sống trên mây em cảm thấy nhẹ không
Đời vô thường vốn trống không nhẹ bổng
Cố vui lên với thế giới mầu hồng

Thế giới của riêng em, một mình em!
Em bay nhẩy cùng mây trời diệu vợi
Xa, xa lắc nơi trần gian hạ giới
Quẳng muộn phiền, lòng thong thả chơi vơi

Em lãng mạn… nên yêu anh lầm lỡ
Trăn trở hoài, trái tim mãi ngu ngơ
Em lãng mạn nên mới yêu mù quáng
Khi tỉnh ra thì đã quá muộn màng

Tình yêu là gì?  Bất trắc, hoang mang
Những giờ phút thiên đàng sao ngắn ngủi
Còn lại là nỗi cô đơn lủi thủi
Lúc nhớ nhung… ôi trống vắng quá chừng!  

Lãng mạn hóa mối tình đầy khổ não
Vẽ vời anh, người làm em lao đao   
Thực tế phũ phàng, tìm đến trăng sao
Càng cố quên lại thấy mình càng nhớ…

Lãng mạn là em, em… lãng mạn!
Làm thơ tình mãi miết, miên man
Mặc thị phi, em thật sự chẳng màng
Sống tha thiết, tim hoang đàng rộng mở

Quách Như Nguyệt
23 tháng Tư, 2018

*Nhớ “Chơi Chữ” của Lãng Nhân


Lúc khoảng 10 tuổi, trong nhà người viết có hai tủ sách lớn. “Chơi Chữ” là một trong số sách này. Đó là một tác phẩm biên khảo tập hợp những giai thoại nho nhỏ. Dĩ nhiên, đứa nhỏ lên mười không thể hiểu hết những câu chuyện trong đó, nhưng nhờ nhà văn Lãng Nhân đã viết với văn phong giản dị, dễ hiểu nên đứa con nít vẫn đọc được sách, tuy lõm bõm mà vẫn thích thú.
Với các độc giả miền Nam Việt Nam trước 1975 hẳn khó quên những bài phiếm luận hóm hỉnh, sâu sắc và thấm đượm tình người của cụ Lãng Nhân. Người viết tuy thuộc lớp thế hệ sau nhưng rất thích đọc những tác phẩm biên khảo cũng như các phiếm luận của cụ Lãng Nhân. (*)
Mở đầu tác phẩm Chơi Chữ, cụ Phùng viết:
“Nghề chơi cũng lắm công phu”, huống hồ chơi… chữ!

Chơi chữ cần có những yếu-tố không phải ai cũng gom được đủ: có học đã đành, nhưng lại còn phải có tàị.
Học có hàm-súc, mới biết dùng chữ cho rành-rẽ, dùng điển cho đích-đáng, khiến câu văn ít lời mà nhiều ý; tài có mẫn-tiệp, mới lĩnh-hội được mau-lẹ những nét trội trong một cảnh-huống, và diễn-xuất ra một cách nhanh-chóng đột-ngột, hồ như là tự-nhiên.
Trong văn chương ta, có nhiều lối chơi: thơ, phú, câu-đối, tập Kiều, sử-dụng lối nào là tùy theo tình, theo cảnh, theo cách cấu-tứ mà phô diễn ra cho phù hợp với nguồn cảm-hứng trong giờ phút đó của nhà văn.”
Hai cách chơi chữ trong tiếng Việt được thấy nhiều nhất là Nói Lái và dùng chữ Đồng Âm Khác Nghĩa.
Do tiếng Việt là ngôn ngữ độc âm, nhờ thế rất dễ dàng trong lối Nói Lái. Hẳn ai cũng đều từng nghe câu này:
“Vấn đề khó khăn nhất bây giờ là chuyện đầu tiên
Đầu Tiên nghĩa là Tiền Đâu.
Và ai cũng hiểu câu này:
“Bàn cho nhiều rồi thì cũng vũ như cẩn mà thôi”.
Khi nghe câu này lần đầu tiên, tôi không hiểu. Ngẫm nghĩ một hồi mới nghĩ ra: Vũ Như Cẩnnghĩa là Vẫn Như Cũ!
Với phái nam, nếu được ai khen mình là Người Sáng Chói thì không nên vội mừng vì có thể họ bảo mình là Người Sói Trán.
Còn với phái nữ, lỡ được ai khen trông giống Hương Qua Đèo thì coi chừng họ đang bảo mình là Heo Qua Đường!
Và, có khi nói lái được nâng lên một mức khó hơn khi kết hợp với chữ Hán Việt. Nhà văn Lãng Nhân đã ghi lại câu nói lái sau đây:
Nam Đáo Nữ Phòng, Nam Bất Chính.
Người nam vào phòng người nữ là không chính đáng, không đàng hoàng. Vậy nếu Nữ Đáo Nam Phòng thì sao?
Nữ Đáo Nam Phòng, Thạch Bất Truy
Người nữ vào phòng nam thì thạch bất truy? Muốn hiểu câu bí hiểm này thì phải dịch từng chữ một:
Thạch là Đá, Bất là Không, Truy là Theo.
Trong Truyện Kiều thì Thúy Kiều đã dám cả gan một mình lẻn qua nhà anh chàng Kim Trọng. Và rồi chàng Kim có “thạch bất truy”? Nhưng, Nguyễn Du đã không cho chuyện ấy xảy ra. Khi Thúy Kiều thấy Kim Trọng có vẻ lơi lả thì nàng đã ân cần khuyên rằng: “Mây mưa đánh đổ đá vàng / Quá chiều nên đã chán chường yến anh / Trong khi chắp cánh liền cành / Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.” Do đó, dù rằng ở đây thực đã có chuyện “nữ đáo nam phòng” nhưng lại không hề xảy ra chuyện “thạch bất truy”.
Với các ngôn ngữ đa âm như tiếng Pháp, tiếng Anh thì việc nói lái không dễ như tiếng Việt. Tuy nhiên, tiếng Anh, tiếng Pháp vẫn có thể nói lái được nếu chỉ dùng những chữ độc âm.
Xin đưa ra vài ví dụ:
no tails, toe nails.
ready as a stock, steady as a rock.
soap in your hole, hope in your soul.
Còn nói lái bằng tiếng Pháp, thì cụ Lãng Nhân cũng sưu tầm được một câu chuyện như sau:
Một phụ nữ Việt lấy Tây – vào thời đó người ta gọi là “Me Tây” – một hôm đi mua đồ với chồng. Sau khi cửa hàng cho biết giá, bà me Tây quay qua nói với ông chồng “Très chaud, très chaud!”
Người chồng tưởng vợ than nóng nên vội vàng móc tiền ra trả, cầm món đồ đi ra. Nhưng khi ra đến ngoài, người vợ cằn nhằn “Giời ạ! Đã bảo đắt lắm tại sao còn mua?”
Ông chồng Tây ngỡ ngàng hỏi “Tôi chỉ thấy bà kêu nóng quá, có thấy bà kêu đắt quá đâu”. Người vợ chán nản than “Tôi là người Việt, chẳng nhẽ chê đắt chê rẻ. Nhưng tôi đã nói với ông rồi mà, Tôi nói Très Chaud – Très Chaud tức là Trop Cher
Thì ra bà vợ đã nói lái:
Très chaud thành Trop cher – “Nóng quá” thành “Đắt quá”.
Ông chồng Tây không hiểu, có lẽ vì người Tây không biết nói lái?
Thế còn chơi chữ với chữ Đồng Âm Khác Nghĩa là sao? Hẳn nhiều người đã nghe bài ca dao sau đây:
Bà già đi chợ Cầu Đông,
Xem bói một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!
Không cần giỏi chữ, một người cũng hiểu được “lợi” vừa có nghĩa “lợi ích” vừa có nghĩa “răng lợi. Thầy bói bảo bà già vẫn “có lợi” mà. Như vậy, bà già có nên lấy chồng không?
Tiếng Việt có rất nhiều chữ đồng âm khác nghĩa, do đó, cách chơi chữ này dễ chơi và rất phổ biến.
Một giai thoại văn học nổi tiếng là câu đối chỉ có một vế của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Tương truyền, cụ thân sinh của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm có một học trò rất giỏi tên là Quỳnh – mà ta thường gọi là Trạng Quỳnh. Trạng Quỳnh thường trêu ghẹo cô Điểm. Để ngăn cản Quỳnh, cô Điểm ra những câu đối khó. Nhưng lần nào Quỳnh cũng đối lại được.
Một lần nọ, khi cô Điểm đang tắm thì Quỳnh gõ cửa đòi vào coi. Cô Điểm giận lắm nhưng vẫn ra một câu đối, bảo rằng nếu đối được thì sẽ mở cửa cho vào. Quỳnh hí hửng chịu ngay.
Câu đối đưa ra là Da Trắng Vỗ Bì Bạch.
Quỳnh nghĩ hoài, nghĩ mãi, nghĩ không ra. Cuối cùng đành lẳng lặng rút lui, và từ đó không còn dám trêu ghẹo cô Điểm nữa.
Câu đối này tại sao khó đến mức một người thông minh như Trạng Quỳnh cũng phải bó tay?
Da nghĩa là Bì, Trắng nghĩa là Bạch. Da Trắng là Bì Bạch. Nhưng Bì Bạch còn nghe như tiếng tay vỗ lên da. Cái khó chính là tiếng tượng thanh “bì bạch, bì bạch” này đây.
Về sau, nhiều người tìm cách đối lại, ví dụ như:
Cô Miên Ngủ Một Mình
Cô là Một Mình, Miên là Ngủ – Cô Miên tức là Ngủ Một Mình
Nhà Vàng Ngồi Đường Hoàng
Nhà là Đường, Vàng là Hoàng – Nhà Vàng tức là Đường Hoàng
Trời Xanh Màu Thiên Thanh
Trời là Thiên, Xanh là Thanh – Trời Xanh là Thiên Thanh
Nhưng cả 3 câu này chỉ đối được nghĩa chữ Hán Việt, nhưng không thể đối với tiếng tượng thanh “bì bạch”. Do đó, cho tới nay, câu “Da Trắng Vỗ Bì Bạch” vẫn là câu đối duy nhất chỉ có một vế.
Xin quay lại với tác phẩm “Chơi Chữ” của Lãng Nhân.
Nói về cách Nói Lái, cụ Lãng Nhân sưu tầm được bài thơ Mong Chồng nói lái rất hay. Trong bài thơ này 2 chữ sau của câu trên được nói lái để trở thành 2 chữ đầu của câu kế.
Mong Chồng
Trên đắp chăn bông, dưới đệm bông
Bỗng đêm, sực nhớ lại thương chồng
Trông thường thấy ảnh, người đâu vắng
Văng đấu đong sầu, gạt gió đông
Văng đấu đong sầu, gạt gió đông
Đống gio nhóm lạnh để mong chồng
Trông mòng suốt sáng lòng chưa chán
Chan chứa sầu tuôn một mảnh đồng
Chan chứa sầu tuôn một mảnh đồng
Động mành gió lọt chốn thâm phòng
Phong thầm giọt lệ nhờ thư gởi
Gợi thử tình xem có nhớ không?
Bài thơ này phải đọc theo giọng người Miền Bắc vì khi nói theo giọng Bắc thì tê-e-rờ (tr) phát âm như xê-hát (ch) như chữ Mong Chồng nói lái thành Chông Mòng, cũng như chữ Thương Chồng nói lái thành Chông Thường.
Nhưng đúng ra phải đọc Trông Mòng, và, Trông Thường. Chữ “Trông” là tê-e-rờ như Trông Coi, Trông Chừng. Cũng như chữ “Đống Gio” thật ra phải là “Đống Tro.” Nếu không đọc theo giọng miền Bắc thì không nói lái được.
Việt Nam có thổ âm 3 miền Nam, Trung, Bắc. Và nhờ thế, cách chơi chữ cũng dựa vào cách phát âm của mỗi miền. Cụ Phùng Tất Đắc kể lại câu chuyện này về Tả Quân Lê Văn Duyệt.
Tương truyền, một hôm Tả Quân Lê Văn Duyệt đi xem hát Bội. Trên sân khấu có hai người kép hỏi đố nhau.
Một anh đặt câu hỏi rằng: Đố biết vật gì vừa đực lại vừa cái?
Tả Quân nghĩ anh kép nói bóng gió về mình, bởi vì Lê Văn Duyệt vốn là một hoạn quan. Do đó, Tả Quân nạt rằng nếu không trả lời được thì sẽ bị chém đầu.
Anh kép thản nhiên trả lời:
Chèng ơi, dễ dzị mà cũng hỏng bít. Cái thứ dzừa đực dzừa cái chính là Coong Thằng Lằng!
Coong là cái, Thằng là đực. Thì đúng là vừa đực vừa cái. Chứ nếu nói theo giọng miền Bắc thì chỉ là Con Thằn Lằn thì đâu thể nào vừa Con lại vừa Thằng.
Cũng như nếu có ai bẽn lẽn thú nhận “Tui là cái thứ Chung Vô Diệm” thì xin đừng nghĩ người giống bà bà hoàng hậu xấu xí nhất trong lịch sử Trung Hoa. Và nếu bà Chung có sống lại cũng sẽ rất ngỡ ngàng khi thấy tên mình được đem ra để ám chỉ cái tật khó nói của phái nam. Thậm chí bà ta cũng sẽ chẳng nhận ra tên mình khi nó được đọc theo giọng Miền Nam là Chung Dzô Dzịm!
“Chơi Chữ” còn nhắc tới một giai thoại về Đồng Âm Khác Nghĩa:
Báo Trung Bắc do hai ông Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc chủ trương, một lần đã ra câu đối như sau:
Vợ cả vợ hai, hai vợ cùng là vợ cả 
Nghe tưởng chừng đơn giản phải không? Nhưng thật ra là một câu đối rất lắt léo
Chữ “cả” theo miền Bắc có nghĩa là “lớn”, cũng có nghĩa là “cùng”. Câu này có 2 nghĩa: Nghĩa thứ nhất: Vợ lớn vợ nhỏ gì đều cùng là vợ. Nhưng nghĩa thứ là: Vợ lớn vợ nhỏ đều cùng là vợ lớn, đều quan trọng không kém gì nhau.
Khó thế nhưng vẫn có nhiều người gởi câu đối về tòa báo. Và, câu đối được chấm giải nhất là câu sau đây:
Con nuôi con đẻ, đẻ con há cậy con nuôi.
Chữ “con nuôi” ở đây có hai nghĩa. Khi dùng làm danh từ, “con nuôi” là người con mình nhận nuôi. Khi là động từ, nghĩa là con cái nuôi mình. Do đó, câu này có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất: Giữa con nuôi và con đẻ, mình không nên nhờ cậy người con nuôi. Nghĩa thứ hai, mình có hai đứa con, vừa con nuôi vừa con đẻ, nhưng một khi đã đẻ con ra được thì chẳng cần nhờ tới đứa nào nuôi hết (há cậynghĩa là chẳng cần nhờ cậy).
Đọc tới đây, hẳn quý vị sẽ đồng ý với câu nói của cụ Lãng Nhân, rằng: “Nghề Chơi cũng lắm công phu, huống hồ là Chơi Chữ“.
Nhà văn Lãng Nhân – Phùng Tất Đắc ngoài biên khảo còn là tay viết phiếm tài hoa. Ông nổi tiếng với các truyện phiếm khôi hài nhưng thâm trầm như Trước Đèn, Chuyện Cà Kê… Ông cũng đã để lại cho đời những tác phẩm sưu khảo công phu như Chơi Chữ, Giai Thoại Làng Nho… Phải chăng chính hoạt động biên khảo đã giúp văn ông thêm sâu sắc, duyên dáng? Và có lẽ đó là một bài học quý giá cho những ai theo nghiệp văn chương.
Trong “Chơi Chữ” có được bài thơ đặc biệt của cặp tình nhân tiếng tăm và cũng đầy tai tiếng, đó là nhà thơ Alfred de Musset và nữ sĩ George Sand, cho thấy hai nhà thơ Pháp này không những làm thơ hay mà chơi chữ cũng hay nữa.
Alfred de Musset là nhà thơ, nhà viết truyện ngắn lãng mạn của Pháp thế kỷ 19, nhưng ông nổi tiếng hơn bởi mối tình đầy sóng gió với nữ văn sĩ George Sand. Khi hai người gặp nhau, Musset chỉ mới 23 tuổi trong khi George Sand là một phụ nữ đã có chồng và hơn ông 6 tuổi. George Sand là một phụ nữ đặc biệt, cá tính và có lối sống độc lập, không bị ràng buộc bởi các khuôn phép đương thời

Alfred De MussetGeorge Sand
Musset đã gởi tới nàng bài thơ tình tứ sau:
Quand je mets à vos pieds un éternel hommage,
Voulez-vous qu’un instant je change de visage?
Vous avez capturé les sentiments d’un coeur
Que pour vous adorer forma le créateur.
Je vous chéris, amour, et ma plume en délire
Couche sur le papier ce que je n’ose dire.
Avec soin de mes vers lisez les premiers mots,
Vous saurez quel remède apporter à mes maux.
Đây là bản lược dịch qua tiếng Việt:
Bao lâu từng ước ao.
Giờ đổi giọng được sao?
Nàng đã ngự trong lòng,
Thuận tình ta luống mong.
Cho bút ta lên hương,
Ta viết lời yêu đương.
Thỏa được dạ ta cầu.
Nguyện đọc chữ đầu câu…
Và sau khi George Sand đọc xong những “chữ đầu câu” thì nàng đã cầm bút trả lời ngay:
Cette insigne faveur que votre coeur réclame
Nuit à ma renommée et répugne à mon âme.
Đêm trường ai những ước mong.
Nay tuy e lệ mà lòng thầm ưa!
Musset tất nhiên cũng đọc ngay “chữ đầu câu” và thấy đó là 2 chữ tuyệt vời: “Cette Nuit” – Đêm Nay!
Từ đó, bắt đầu mối tình ngang trái giữa hai con người tài hoa, để sau này được George Sand kể lại trong một tiểu thuyết có tên “Nàng và Chàng” (Elle et Lui).
Cách dùng các chữ đầu câu trong bài thơ để tạo nên một câu riêng là cách chơi chữ được người Việt ưa thích. Thường gặp nhất là trong những bài thơ mừng Tết, mừng Xuân, mừng đám cưới. Đó thường là các câu có 4 chữ như: Cung Chúc Tân Xuân, Vạn Sự Như Ý, Trăm Năm Hạnh Phúc,…
CUNG kính mời nhau một tách trà
CHÚC mừng Xuân mới, tiễn năm qua
TÂN niên hạnh phúc và như nguyện
XUÂN đến bình an khắp gần xa.
VẠN chuyện lo toan không chất đống
SỰ gì bế tắc thảy đều qua
NHƯ hoa mai nở trong tuyết lạnh 
Ý nguyện, duyên lành, mãi thiết tha.
Xin được dùng bài thơ Cung Chúc Tân Xuân – Vạn Sự Như Ý mà người viết sưu tầm để kết thúc bài viết. Xin mến chúc tất cả bạn đọc một năm mới tràn đầy hạnh phúc và bình an.
Trịnh Bình An
Xuân 2018
(*) Ghi chú:
Phùng Tất Đắc (1907-2008), bút hiệu Lãng Nhân, Cố Nhi Tân và Tị Tân. Sinh quán Hà Nội. Năm 1954, di cư vào Nam. Từ 1954 đến 1975, phụ trách nhà in Kim Lai và nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư. Năm 1975, tỵ nạn tại Cambridge, Anh quốc. Ông qua đời ngày 29-2-2008.
Các tác phẩm đã xuất bản: Trước Đèn, Chuyện Vô Lý, Chơi Chữ, Cáo Tồn, Giai Thoại Làng Nho, Hán Văn Tinh Túy, Thơ Pháp Tuyển Dịch, Chuyện Cà Kê, Khổng Tử, Tư Mã Quang-Vương An Thạch, Nguyễn Thái Học, Tôn Thất Thuyết, Nghiêm Phục, Hương Sắc Quê Mình, Nhớ Nơi Kỳ Ngộ.
Chơi Chữ” do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1970.
(Từ Cảnh chuyển)

29 thg 4, 2018

GÓP Ý VỀ BÀI VIẾT " Những từ dùng sai trong ngôn ngữ tiếng Việt "

       Dưới đây là những góp Ý rất chân thành và khách quan của tôi, nhằm mục đích làm trong sáng và phong phú hơn tiếng Việt một cách thực tế, phù hợp với " Tập quán Ngôn ngữ " hằng ngày của cộng đồng nười VIỆT nói tiếng VIỆT, chớ không lập dị hoặc bới lông tìm vết gì cả !

        Trước tiên, xin đề cập đến từ " CHUNG CƯ hay CHÚNG CƯ ".
Trích bài viết :
CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt vì tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
          Theo tôi nghĩ :
       Từ CHUNG CƯ là từ được viết gọn lại của nhóm từ CÙNG CHUNG CƯ NGỤ, đã được quần chúng sử dụng từ trước đến nay, nghe đã quen tai, không cần thiết phải đổi lại thành CHÚNG CƯ, nghe vừa xa lạ vừa chói tai, vừa lập dị vừa không hợp với tập quán ngôn ngữ. Xin được giải thích...
        Trước tiên, xin được nói về TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, TẬP QUÁN là Thói Quen, NGÔN NGỮ là Tiếng Nói. TẬP QUÁN NGÔN NGỮ là Thói quen của một Tiếng nói nào đó mà mọi người đã quen sử dụng và chấp nhận Ý nghĩa của nó theo Thói Quen. Ví dụ :
      Từ CHẮC là CHẮC CHẮN, được sử dụng theo nghĩa KHÔNG CHẮC CHẮN gì cả ! Như các câu sau đây :
      - Trời oi bức quá, chiều nay CHẮC mưa.
      - Trời mưa, CHẮC nó không đến đâu !
      - Tối nay có đi xem phim không ?- CHẮC đi !
     Trả lời là " CHẮC đi "để tỏ cái Ý " KHÔNG CHẮC đi " gì cả ! Đó là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ ! Thế thì...
          Khi nói " CHUNG CƯ " là mọi người đều hiểu ngay rằng đó là nơi có nhiều người CÙNG CHUNG CƯ TRÚ, chớ không phải là NƠI Ở CUỐI CÙNG, MỒ CHÔN hay NGHĨA ĐỊA gì cả , vì " CHUNG CƯ  là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ được mọi người cùng chấp nhận, thì TẠI SAO ta phải đi bới lông tìm vết, bảo nó không chính xác mà phải nói là CHÚNG CƯ cho đúng với cách nói của từ Hán Việt ?!  CHÚNG CƯ vừa chói tai khó nghe, vừa không hợp với TẬP QUÁN NGÔN NGỮ !
      Ta có bảo người Pháp chào nhau bằng câu : " comment allez vous ? " là sử dụng SAI động từ ALLER ( đi ) không ? Và người MỸ chào nhau bằng câu : " How are you doing ? là dùng không chính xác động từ TO DO ( làm ) không ? Cũng như người Việt ta chào nhau bằng câu : " Có khỏe không ? ", không phải ta dùng sai từ KHỎE đâu, người Hoa chào nhau bằng câu : " Sực fàl mì ? 吃飯沒?" ( Ăn cơm chưa ? ) không phải là họ nói SAI đâu, mà tất cả đều là do TẬP QUÁN NGÔN NGỮ được mọi người cùng chấp nhận mà thôi !!!
           Sở dĩ tôi phải nói dài dòng như thế là chỉ để làm cơ sở cho những nhận xét kế tiếp của phần bên dưới.


           Về từ KHẢ NĂNG 可能. Trích...

KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
 *  Góp ý :
           Theo tôi nghĩ thì : KHẢ NĂNG là Phó Từ, có nghĩa là Có Thể ( perhaps, maybe, possibly ), còn NĂNG LỰC mới là Tài Năng và Sức Lực  ( capability, ability )  của con người làm được việc gì đó. Nên câu:
          Hôm nay, khả năng trời không mưa.
chỉ là câu nói thiếu chữ, sai văn phạm, chớ không sai từ, nếu nói lại như thế nầy, thì câu sẽ hoàn chỉnh :
          Hôm nay, khả năng trời sẽ không mưa .
Và câu...
          Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh…
Nói lại thành...
          Con bò nầy có khả năng sẽ chết vì bị bệnh…  
Nhưng...
              Nếu KHẢ NĂNG là Danh Từ, thì có nghĩa giống như là NĂNG LỰC . VD :
        NĂNG LỰC của một người là chỉ KHẢ NĂNG của người đó có thể làm được việc gì đó.

        Về từ " HUYỀN THOẠI ". Trích...
        HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
 * Góp ý :
          Chưa chắc mình đã giỏi hơn ai, sao lại cười người quá thế ?!

         Chỉ đồng Ý với cách giải nghĩa đen của từ HUYỀN THOẠI, sao không tìm hiểu NGHĨA BÓNG và NGHĨA PHÁT SINH của một từ mà lại vội tỏ lời khinh bạc sâu cay đối với người khác như thế ?!
          HUYỀN THOẠI ngoài nghĩa là " Câu chuyện Huyền diệu, Huyền hoặc, Huyền vi không có thực " ra, còn được sử dụng như là một HÌNH DUNG TỪ để chỉ những khả năng vượt trội siêu thực, khó có thể có được trong đời sống hằng ngày. 
           Điều cần nhớ, bây giờ NÓ là TÍNH TỪ chớ không phải là DANH TỪ nữa, phải hiểu theo nghĩa HÌNH DUNG của NÓ, thì mới thấy được cái dụng Ý của nhóm từ HUYỀN THOẠI PÉLÉ hay HUYỀN THOẠI MARADONA. Vì đây là những nhân tài Bóng Đá hiếm thấy trong làng TÚC CẦU THẾ GIỚI mà trước mắt hay tương lai cũng khó mà có được !
           Hơn nữa đây đã là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, vì mọi người đều chấp nhận gọi thế, Ý nghĩa cũng đã rõ ràng, sao lại còn làm ra vẻ ta đây là " bác học " để chê trách mọi người " Dốt hay nói chữ "!.

           Bây giờ thì ta sẽ nói về các từ " HÔN PHU, HÔN THÊ " đây.... Trích :
           HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
 * Góp ý :              HÔN 婚  ( marry, marier )  mà giải nghĩa là CƯỚI    là SAI  ...BÉT ! Theo tôi học thì HÔN là "GIÁ 嫁 và THÚ 娶", GIÁ là Gã, là Lấy chồng, còn THÚ là Cưới vợ. Vậy, HÔN 婚 là Sự CƯỚI GÃ. Cho nên...
       HÔN PHU, HÔN THÊ là Vợ hoặc Chồng có cưới hỏi đàng hoàng, có làm Giấy Giá Thú, Hôn Thú đàng hoàng, chớ không phải Vợ Chồng Tự Kết Hợp, tự mình ăn ở với nhau ! Và khi nói...
       HÔN PHU, HÔN THÊ không ai nghĩ đó là nguời chồng u mê, người vợ u mê  cả !, mà hiểu ngay đó là VỢ CHỒNG HỢP PHÁP, CÓ CƯỚI HỎI ĐÀNG HOÀNG. Những từ nầy RẤT QUAN TRỌNG đối với các Luật Sư và Tòa Án.
       Đâu có ai lập dị một cách... đa sự, mà đi đánh đồng từ ĐỒNG ÂM giữa HÔN PHU 婚夫, HÔN THÊ 婚妻 và HÔN QUÂN 昏君 bao giờ ! Hai chữ HÔN khác nhau xa mà !

                       Tiếp tục Trích...

2.- Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán ViệtĐỘC LẬP Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.
* Góp ý :
         Nghĩa đen thui của ĐỘC LẬP là Đứng đơn độc một mình, Đúng rồi ! Nhưng sao không xét nghĩa phát sinh và ngữ cảnh lúc từ ĐỘC LẬP ra đời ?! Từ ĐỘC LẬP ra đời trong bối cảnh các nước nhược tiểu đấu tranh giành quyền TỰ CHỦ trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của Chủ Nghĩa THỰC DÂN THUỘC ĐỊA sau Thế Chiến Thứ Nhất. Nên...
        ĐỘC LẬP là Tự mình đứng dậy riêng mình, Tự mình tổ chức chính quyền của riêng mình, Tự mình TỰ CHỦ lấy mình, mà không nhờ vào hoặc bị khống chế bởi một Ngoại Bang nào khác. Nói thế, không phải là sửa nghĩa gốc của từ Hán Việt, mà là triển khai nghĩa bóng, nghĩa phát sinh của một từ khi nó đi vào cuộc sống.
         Có ĐỘC LẬP thì mới TỰ CHỦ chủ được !   Hơn nữa từ ĐỘC LẬP đã trở thành TẬP QUÁN NGÔN NGỮ lâu rồi, mọi người đều nói : Lễ ĐỘC LẬP của một nước, chớ không ai nói Lễ TỰ CHỦ của một nước bao giờ !  Còn nói : Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế.
 Đúng rồi !  Cái đó kêu bằng BANG GIAO, ĐỘC LẬP không có nghĩa là " CHƠI MỘT MÌNH ", không chơi với ai. Sao lại hiểu nghĩa HẸP HÒI thế ?!  Và...
         Sao lại chỉ nghe " Có người bảo với tôi  rằng " mà đổ lỗi cho Tôn Dật Tiên, rồi xúc phạm đến bậc trưởng thượng nầy ?! Có đáng trách lắm không ???
           
                     Từ PHONG KIẾN .  Trích ...
             Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
  * Góp ý :
          Chỉ đồng Ý với nghĩa đen của từ PHONG KIẾN và trên bình diện nghiên cứu Lịch Sử. Còn về nghĩa thông dụng khi đi vào cuộc sống thì nhận xét như trên là quá hẹp hòi, vì từ...
          PHONG KIẾN khi dùng rộng ra là để chỉ những Chế Độ Quân Chủ Chuyên Chế lạc hậu so với phong trào đấu tranh Dân Chủ đang lên. Gọi Chế Độ Quân Chủ CHUYÊN CHẾ là PHONG KIẾN để Nhấn Mạnh đến tính chất lạc hậu, cổ hủ, không có nhân quyền... so với Chế độ DÂN CHỦ mới mẻ tôn trọng quyền sống của con người hơn. Trong lúc muốn đả phá cái cũ lạc hậu có nói quá lố một chút cũng là chuyện bình thường mà thôi. Chính vì thế mà khi chấp chánh Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM đã chủ trương BÀI PHONG ĐẢ THỰC ( Bài trừ phong kiến và Đánh đuổi thực dân )  để xây dựng cuộc sống mới . Đâu phải tại dốt và dùng sai từ PHONG KIẾN đâu !    
   
              Trích...
3.- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm). QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.
  * Góp ý :
            Theo tôi nghĩ, gọi ...
        QUỐC GIỖ, GÓA PHỤ là một Sáng tạo làm giàu thêm cho ngôn ngữ tiếng Việt đó chứ ! Sao lại cứ phải khăn khăn ghép từ theo kiểu Hán Việt thế ?! Chả lẻ lại gọi là NGÀY QUỐC KỴ hay toàn Nôm là NGÀY GIỖ NƯỚC ? Còn...
        GÓA PHỤ hay QUẢ PHỤ gì thì đều là những từ thông dụng đã đi vào TẬP QUÁN NGÔN NGỮ của tiếng Việt, sao lại còn phải thắc mắc ?!!!
        Còn luôn miệng bảo là phải ghép hai chữ Hán lại thành một từ mới hợp với Văn Phạm Hán Việt (???)  thì xin hãy quên đi !!!
         Mời xem các Ví dụ sau đây :

Từ HÁN VIỆT : HƯƠNG là THƠM ( NÔM ), ta có từ Ghép :
                                                           Hương Thơm.
HOA là BÔNG, ta có từ Ghép :          Bông Hoa.
KÝ là GỞI , ta có từ Ghép :                Ký Gởi.
PHÂN là CHIA, ta có từ Ghép :          Phân Chia.
LÝ là LẼ, ta có từ Ghép :                    Lý Lẽ.
SANH là ĐẺ, ta có từ Ghép :             Sanh Đẻ.
TIẾP là NỐI , ta có từ Ghép :             Tiếp Nối.......
                                              nhiều vô số kể !....
       AI ? Ai dám bảo là KHÔNG THỂ GHÉP MỘT TIẾNG HÁN và MỘT TIẾNG NÔM lại để thành lập một từ mới ?!

                   Trích...
4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm. X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
  * Góp ý :
        Luôn miệng mạt sát và mỉa mai  người khác  (  “đại giáo sư tiến sĩ” nào ), mà không biết đến sự cổ hũ, cố chấp của mình !
        TIA X là Tia gì ? Tia Sáng, Tia Chớp, Tia Nước hay Tia... Nhìn ?! Trong khi...
        X- QUANG có nghĩa là : TIA SÁNG X .
        Nói chơi thế thôi, chớ TIA -X hay X- QUANG  ( tia Röntgen ) gì mà chả được ! Có cần phải khó chịu đến nỗi phải lý luận tràng giang đại hải khoe mình uyên bác như trên kia không ?!
        TIA-X hay X-QUANG  đều dễ hiểu, dễ đi vào quần chúng, thì thôi, thắc mắc làm gì cho nó ốm ?!
          Sự thật X-QUANG là lấy từ " X-光 " của người Hoa phiên âm sẵn, rồi ta lấy xài luôn cho tiện, khỏi mất công !  Chuyện nầy cũng không phải mới mẻ gì mà đã từng xảy ra trong quá khứ và còn ảnh hưởng mãi cho đến hiện nay. Ví Dụ :
       Người Hoa phiên âm chữ CANADA là 加拿大  ( Jia-na-da ), ta dịch ra Hán Việt là nước GIA NÃ ĐẠI. Tương tự ITALI, họ phiên âm là 意大利  ( Yi-da-li ), ta dịch và gọi là nước Ý ĐẠI LỢI. v.v. và .v.v .... đâu có chết " thằng Tây " Phú Lang Sa nào đâu, thắc mắc làm gì cho nó mệt ?!

         Tương tự như thế, suốt bài viết, tác giả bài viết tưởng rằng mình giỏi Hán Việt lắm, cứ chê trách tập thể cộng đồng người Việt nói tiếng Việt dốt nát, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thực ra, sửa sai mà sửa một cách lập dị, cố chấp, thiếu đầu óc thông thoáng và hiểu biết, thì chưa biết là ai " buồn cười " hơn ai đây ?!
          Suốt từ đầu đến cuối gồm 16 mục Hà Thủy Nguyên (?) luôn miệng bảo : Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm. ( ? )  Không biết là cái Văn Phạm nầy HTN học từ đâu ra mà cứng ngắt không linh động chút nào cả ! Vả lại, chữ Hán Việt cổ có Văn Phạm đâu mà học ?!   Ngay cả dấu chấm câu còn không có mà làm sao có Văn Phạm được ?! . Nhưng thôi, ta hãy nói chuyện chính trước...
           Xuất phát từ động cơ tốt, muốn làm rõ nghĩa để sử dụng từ ngữ một cách chính xác hơn, nhưng cách nhận xét và phê bình của Bài Viết có vẻ thô lổ, cộc cằn, luôn miệng mỉa mai, xài xể bóng gió những từ ngữ được đề cập... do ai đó tạo ra, đưa ra ! Thật tội nghiệp ! Nói và Viết nghiêm chỉnh đàng hoàng còn chưa có tác dụng, huống hồ với giọng điệu trịch thượng, ta đây như Bài Viết thì làm sao mà đạt mục đích yêu cầu cho được. Xin được dẫn chứng...
                 Khoảng giữa năm 1994, dân Sài Gòn đọc được một bài đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng của Giáo Sư Lương Duy Thứ, Trưởng Khoa Trung của Đại Học Tổng Hợp vừa chuyển sang thành Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, nội dung bài báo đề cập đến việc nên dùng từ " CHÚNG CƯ " thay thế cho từ " CHUNG CƯ " giống như bài viết nầy đã đề cập. Sau đó, các báo, đài đều hưởng ứng dùng từ CHÚNG CƯ thay thế cho CHUNG CƯ, nhưng , chỉ một thời gian sau và mãi cho đến hiện nay, đã hơn 20 năm qua , thì... đâu vẫn hoàn đấy ! Tập thể Quần Chúng nói tiếng Việt vẫn thích dùng từ CHUNG CƯ hơn là CHÚNG CƯ !!!   Tất cả báo đài trước mắt đều quảng cáo cho các CHUNG CƯ CAO CẤP, chớ không phải CHÚNG CƯ nữa !
             Từ đó, ta có thể xác định lại một lần nữa là : Cái TẬP QUÁN NGÔN NGỮ của quần chúng, NÓ mạnh biết chừng nào !. Nên, theo tôi thì...
              Những từ nào đã được tập thể quần chúng nhân dân sử dụng rộng rãi rồi thì... thôi, ta nên chấp nhận ( không chấp nhận cũng không được ! ) Nó như là một thành viên mới trong gia đình, nếu tự bản thân Nó không ổn, chắc chắn Nó sẽ bị đào thải mà thôi ! Ví dụ như từ " CHÚNG CƯ " đã nêu ở trên.
             Trở ngược về xa hơn, ta thấy trong TRUYỆN KIỀU của cụ NGUYỄN DU cũng có những từ đã bị đào thải theo thời gian, như :

           Vài tuần chưa cạn chén khuyên,
           Mái ngoài NGHỈ đã giục liền ruổi xe,
           Xót con lòng nặng CHỀ CHỀ,
           Trước yên ông đã NẰN NÌ thấp cao.

    NGHỈ : là Nhân Vật Đại từ, Ngôi thứ ba số it.
    Nặng CHỀ CHỀ : Bây giờ ta nói là Nặng CHÌNH CHỊCH.
    NẰN NÌ : là Năn Nỉ.
           Trong khoảng đầu thập niên 60 của thế kỉ trước rất thịnh hành các từ " Lấy Le ", " Bỏ qua đi Tám ! ", " Hứa Lèo "... Nhưng sau 1975 thì các từ nầy biệt dạng luôn ! Cũng như sau 1975 Miền Bắc đã cho du nhập vào Miền Nam các từ : " Lính Thủy đánh bộ ", " Trung Tâm Nghe Nhìn ", " Máy bay lên thẳng "... như bài viết đã đề cập, nhưng bây giờ khi nhắc đến quân đội MỸ, họ vẫn sử dụng từ " Thủy Quân Lục Chiến, Trực Thăng Chiến Đấu ... như thường !
       Vì thế mà ...
              Ta thấy, Ngôn Ngữ tự nó có sức sống và giá trị riêng của nó, nên cũng đừng quá lo lắng ưu tư đối với các từ như : " Bê-tông hóa ", " tin tặc ", " Lưu Ban ", " Kích Cầu ". ... Nếu không đủ sức thuyết phục người nghe người nói thì tự nó sẽ bị đào thải mà thôi !
          Một điều đáng nói nữa là  vì là lân ban tiếp xúc lâu ngày với ngôn ngữ Trung Quốc, nên bị ảnh hưởng bởi một số từ của Tiếng Hán Hiện Đại, như :
       Sự Cố 事故 : là Nguyên nhân xảy ra một sự việc nào đó, hàm Ý chỉ : Có sự việc rắc rối xảy ra. Còn Cố Sự 故事: là Chuyện Đời Xưa hoặc là Một câu chuyện nào đó .
       Kiêu Ngạo 驕傲: Ngoài nghĩa Kiêu Căng Ngang Ngược, Kiêu Ngạo còn có nghĩa là Làm Phách. Vì không hiểu nghĩa nầy trong Tiếng Hán Hiện Đại, nên người viết bài nầy mới không giải thích được câu hỏi của người bạn.  Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A hay kiêu ngạo với người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được. Kiêu Ngạo là Làm Phách. Nên ”Thằng A hay kiêu ngạo với người khác.”  " Thằng A hay làm phách với người khác " Thế thôi !

         Tham Quan 參觀 : Tham là Tham gia, Quan là xem xét, nhìn ngắm. Đi THAM QUAN là đi tham gia để xem xét và ngắm nhìn cái gì đó, nơi nào đó,chớ không phải như người viết đã mỉa mai. THAM QUAN. 參觀  : Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.

          ĐĂNG KÝ 登記 : là Ghi chép, là Viết lại cái gì đó. Vì không hiểu nghĩa nầy, nên người viết bài đã lên tiếng mỉa mai một cách rất buồn cười như sau :  Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày nay, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.

            Người viết còn không phân biệt được Tiếng Hán Cổ và Tiếng Hán Hiện Đại, nên đã viết...
            Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa.

             Sự thật thì Tiếng Tàu Xưa và Tiếng Tàu Nay cũng Y chang như nhau, dĩ nhiên là có sự biến đổi theo thời gian như tất cả các ngôn ngữ khác trên thế giới. Có điều là người Hoa họ NÓI và VIẾT khác nhau, văn nói là văn BẠCH THOẠI 白話文, văn viết là văn VĂN NGÔN 文言文. Văn nói BẠCH THOẠI thì thông thoáng trơn tru bình dân dễ hiểu, còn văn viết VĂN NGÔN thì cầu kỳ hàm xúc sâu xa bác học khó hiểu hơn. Xưa nay vẫn thế , Văn Ngôn và Bạch Thoại luôn luôn phát triển song song với nhau. Nhưng sau Cách Mạng Tân Hợi ( 1911 ), thì theo trào lưu phát triển thế giới ngày càng phải nhanh gọn dễ hiểu nên chỉ chú trọng vào Bạch Thoại, còn Văn Ngôn thì cho lui vào làm CỔ VĂN. Nói thế, chớ các văn bản ngoại giao, công hàm...  muốn cho lịch sự và trịnh trọng, người ta vẫn phải chen một số Văn Ngôn vào. Người Việt học tiếng Hán, tiếng Hoa, muốn cho dễ phân biệt nên chia làm 2 phần là : Tiếng Hán CỔ và Tiếng Hán HIỆN ĐẠI để phân biệt Văn Ngôn và Bạch Thoại. Thế thôi !. Nên...
          Không phải Tiếng Hán Đời Đường khác Tiếng Hán bây giờ như người viết đã nói đâu.
          Theo tôi nghĩ, người viết bài nầy luôn miệng chê trách người khác không chịu học tiếng Hán Việt, nhưng bản thân người chê cũng không thực sự giỏi Hán Việt hơn ai ! Xin dẫn chứng...
            Trích...
TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊 có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác.
  * Góp ý :
            Giải nghĩa đen theo Từ Điển như thế thì ai lại chả giải nghĩa được ! Nhưng, nghĩa thông dụng thì phải linh động hơn...
     TẶC hay ĐẠO gì đều có nghĩa là TRỘM CƯỚP cả ! Ta có từ kép là ĐẠO TẶC để chỉ TRỘM CƯỚP mà !
     TẶC 賊 : Ngoài nghĩa Trộm hoặc Cướp, còn có nghĩa là GIẶC, để mắng mấy đứa nhỏ rắn mắt hay phá khuấy, người lớn hay nói : " Đồ TIỂU TẶC ! " Có nghĩa là " Thằng Giặc con ! ". Khi rời Linh Xà Đảo trên con thuyền trước sóng to gió lớn sắp chìm, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đã mắng trời bằng câu : " Lão TẶC Thiên ! " ( Cái Lão GIẶC Trời ! ). Trong Tiếng Hán Hiện Đại TIỂU TẶC 小賊 hay TIỂU THÂU 小偷 đều có nghĩa là : Những tên TRỘM VẶC. Còn...
      ĐẠO 盜 là Lấy ngang lấy ngược của người khác, nên ngoài nghĩa TRỘM, ĐẠO còn có nghĩa là CƯỚP như : CƯỜNG ĐẠO chẳng hạn. Đồ Cường Đạo là Quân Ăn Cướp ! Còn ĐẠO VĂN là Lấy ngang văn của người khác làm văn của mình, thì là ĂN CƯỚP VĂN của người ta chứ Trộm Văn gì ?!!!
        Không giỏi từ Hán Việt mà đi chê trách người khác không chịu học từ Hán Việt. Rõ buồn cười ! Cứ luôn miệng bảo :  một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép.
           Hãy xem các ví dụ sau đây :

      Từ Thuần Việt là QUÊ, từ Hán Việt là HƯƠNG, ta có từ Kép : QUÊ HƯƠNG.
      Từ Hán Việt là SINH, từ Thuần Việt là SỐNG, ta có từ kép : SINH SỐNG.
      Từ Thuần Việt là CỬA, từ Hán Việt là TỬ, ta có từ kép : CỬA TỬ.
      Từ Hán Việt là ĐẠO, từ thuần Việt là CHÍCH, ta có từ kép : ĐẠO CHÍCH.
       .V.V....V.V....
      Những từ trên là những từ rất thông dụng trong cuộc sống, sao lại bảo :  một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. ?!

           Còn về các từ của Khoa Học Kỉ Thuật hiện nay như : Computer, Internet, Web.... thì theo tôi nghĩ...
            Từ nào đã được dịch rồi thì thôi, cứ dùng theo những gì đã được dịch cho khỏi lộn xộn ! Như từ Computer là Máy VI TÍNH, thì cứ gọi là VI TÍNH đi. Chứ người Hoa họ gọi là ĐIỆN NÃO 電腦, nếu bây giờ đổi cách gọi, bất cứ gọi bằng gì đi nữa , thì lại càng lộn xộn thêm thôi ! Còn như các từ...
       Internet thì cứ gọi là " Nét " như hiện nay, Ví dụ : " Bửa nay bạn có lên NÉT để xem tin tức không ? ". Còn...
       Web thì là " Quép ", là " Mạng ". Như : Đây là trang Quép của tôi...  Nghĩa là....
       Trong thời buổi TOÀN CẦU HÓA nầy, thì từ của nước nào cứ đọc thẳng bằng âm của nước đó, dịch tới dịch lui làm gì cho nó phiền, rồi lại sợ dịch không chính xác nữa !
      
          Người Việt ta nói : Thùng rổng thì kêu to ! Còn người Hoa thì gọi những người Trí Thức Nửa Mùa bằng từ " Bàn-tong-shui 半桶水 Bán dũng thủy ", có nghĩa là " Nửa Thùng Nước ", nên óc ách ọc ạch dữ lắm ! Không biết là người viết bài nầy thuộc dạng nào, chớ tôi thì tôi thuộc loại NỬA THÙNG NƯỚC đó, cho nên đọc bài nầy tôi thấy tôi " Óc Ách " dữ lắm, nhất là đọc những câu mát mẻ, mạt sát, mỉa mai người khác của người viết. Chịu không nổi, nên mới " Ọc " ra bài viết nầy !
          Kính mong các đọc gỉa đọc và lượng thứ cho ! Chân thành cám ơn tất cả !  
                                                                                     Đỗ Chiêu Đức.