30 thg 11, 2016

3 kỳ tài đất Việt từng khiến cả Trung Hoa chấn động, họ là ai?

Trung Hoa luôn nức danh với thế giới là mảnh đất của những kì tài trong tất cả mọi lĩnh vực. Nhưng ít ai biết rằng có ba người Việt Nam đã từng làm mảnh đất địa linh nhân kiệt ấy phải ngả mũ kính phục. 
Tại sao Tần Thủy Hoàng phải đúc tượng của Lý Ông Trọng?
Sau khi thống nhất đất Trung Hoa, uy danh lừng lẫy, Tần Thủy Hoàng vẫn phải canh cánh một mối nguy đến từ phương Bắc. Bất chấp sự kiên cố của Vạn Lý Trường Thành, quân Hung Nô vẫn hung hăng quấy nhiễu vùng biên giới. Thời bấy giờ, ở nước Tần, có một vị sứ giả có tướng mạo phi phàm, cao hơn hai thước (một “thước” theo hệ thống đo lường Trung Hoa tương ứng với 3,3m). Nhìn thấy tướng mạo khác thường cùng bản lĩnh của một tướng quân nơi vị sứ giả ấy, vua Tần đã ngỏ ý mời ông đi trừ giặc Hung Nô. Ông được phong làm Vạn Tín Hầu cử đến trấn ở vùng đất Lâm Thao (Tỉnh Cam Túc ngày nay). Giặc Hung Nô khi tới nơi tận mắt chứng kiến Uy danh của ông đã không đánh mà tan, nháo nhào bỏ chạy.

Pho tượng đồng khổng lồ hình Lý Ông Trọng – Tranh vẽ của Bui Van Bao (Ảnh: hungsuviet.us)

Vị sứ giả bí ẩn ấy lại chính là một người dân Việt, ông tên thật là Lý Thân, thường gọi là Lý Ông Trọng, người làng Chèm (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội). Theo truyền thuyết trong dân gian, ông vốn tính tình cương trực, lại có lòng thương dân, phò tá vua Hùng thứ 18 trấn áp biên thùy nên rất được trọng dụng dưới triều vua An Dương Vương và trở thành sứ giả nước Tần.
Sau một thời gian sống tại nước Tần, vinh hoa phú quý không làm nguôi nỗi nhớ quê nhà của người con Viêt chân chất ấy. Lý Ông Trọng xin được về thăm quê. Trong thời gian đó, giặc Hung Nô lại quay lại quấy phá phía Bắc, vua Tần cử người sang vời ông về lại vùng biên giới. Lý Ông Trọng không muốn một lần nữa phải rời bỏ quê hương, nên vua xứ Nam đã phải dối rằng ông đã qua đời. Không còn cách nào khác, vua Tần bèn cho đúc một bức tượng của Lý Ông Trọng, tương truyền, trong bụng của tượng có thể chứa đến hàng chục người.

Người ta còn làm các khớp tay, chân cho tượng nên bức tượng có thể di chuyển, cử động như người thật. Giặc Hung Nô trông thấy bức tượng từ xa, ngỡ tưởng Lý Ông Trọng quay trở lại nên sợ hãi tháo chạy về nước và không dám quay lại thêm lần nào nữa. Nhưng không chỉ có vua Tần Thủy Hoàng cho làm tượng của Lý Ông Trọng. Trong sử sách còn ghi lại hai vị tướng nhà Đường là Cao Biền và Triệu Xương vì cảm phục thanh danh của vị tướng cương trực người Việt ấy, đã cho làm tượng gỗ, sơn son thiếp vàng để thờ cúng.
Vị tướng đất Nam trở thành ông tổ súng thần công Trung Quốc

Súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng (Ảnh minh họa: Internet)
Trung Quốc vốn là quốc gia đầu tiên chế tạo thành công thuốc súng, đưa phát minh này ứng dụng vào quân sự nhằm nâng cao sức tân cống của các loại vũ khí chiến đấu. Nhưng đến thời kì nhà Minh, Trung Hoa cũng như các nước phương Tây vẫn đang loay hoay với các thiết kế về súng đạn. Trong khi đó, ở Việt Nam, một kĩ sư quân sự dưới thời nhà Hồ đã chế tạo thành công một loại súng, sau đó sẽ trở thành điều bất ngờ vô cùng lớn với quân đội nhà Minh: “Thần cơ sang pháo”.
Sách sử của nhà Minh có ghi chép lại sự bất ngờ đến khâm phục của quân đội nhà Minh khi vấp phải sức công phá của loại vũ khí này: Trong cuộc bình Giao Chỉ, nhà Minh đã bắt được súng thần, pháo thần của Giao Chỉ được coi là vũ khí nhất thiên hạ… Súng “thần công” có được gần đây dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài 100 bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến. Không chỉ có vậy nhà Minh đã không ngần ngại vận chuyển súng Thần cơ này về nước họ.

Súng thần cơ được trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quân đội, Hà Nội (Ảnh đăng lại từ Cục văn thư và lưu trữ nhà nước -archives.gov.vn)
Vậy vị tướng ấy là ai? Và loại vũ khí mà ông tạo tại sao lại có uy lực đến như vậy? Vị tướng tài giỏi được lịch sử nhà Minh ghi nhận phát minh ấy chính là Hồ Nguyên Trừng, con trai cả của vua Hồ Quý Ly. Không màng ngôi báu, ông chỉ nguyện được cống hiến cho quốc gia và trở thành một vị tướng trọng yếu của triều đình. Năm 1407, nước Đại Ngu mới hình thành đã đứng trước nguy cơ xâm lược rõ ràng của nhà Minh, Hồ Nguyên Trừng đã gấp rút cho thành lập các tổ đúc súng đạn, chế ra các loại súng trang bị cho quân đội, trong trường hợp cần ngênh chiến với quân Minh.
Dựa trên những hiểu biết về thuốc súng và các phương pháp đúc súng cổ truyền, Hồ Nguyên Trừng đã phát huy trí sáng tạo của một kĩ sư quân sự để tạo ra một loại vũ khí mới có sức công phá cao chưa từng thấy thời bấy giờ, lấy tên là súng Thần cơ sang pháo. Về kết cấu, loại vũ khí này được cho là tiền thân của các loại súng thần công hiện nay, hay cũng chính là khẩu đại bác đầu tiên được chế tạo.

Ảnh trái: Ngự Lâm Quân của nhà Minh với những khẩu súng hỏa mai từ khoảng thế kỷ 14; Ảnh phải: Một loại súng của nhà Minh vào thế kỷ 14, trước thời Hồ Nguyên Trừng. Khi đó, súng bắn là hỗn hợp lửa và than củi cháy dở (Ảnh: Wikipedia)

Tài năng của Hồ Nguyên Trừng đã phát huy ngay từ khi ông là tướng trong triều của vua Hồ Quý Ly. Không chỉ đúc súng, ông còn là tác giả của chiến thuyền cổ lâu, của thế trận độc đáo chống giặc Minh và của nhiều các công trình trị thủy khác. Tài năng của ông lại một lần nữa được khẳng định khi nó đã cứu ông thoát khỏi cái chết. Nhà Minh sau khi đưa ba cha con Hồ Quý Ly về nước, đã tha tội cho Hồ Nguyên Trừng và giao cho ông một chức quan trong triều đình. Điều mà nhà Minh mong muốn chính là dùng tính mạng của cha và em trai ông để có được tài nghệ đúc súng thần cơ của ông. Khi ấy, để làm trọn đạo nghĩa với cha và em trai, Hồ Nguyên Trừng đã chấp nhận làm quan dưới Triều Minh và ông được sử sách nhà Minh lưu lại dưới cái tên Lê Trừng.
Người Việt làm khiến cả thế giới thán phục khi xây dựng Tử Cấm Thành
Khi nhắc đến Kiến trúc cổ Trung Hoa, Tử Cấm Thành có lẽ là một trong những công trình sẽ được nhắc đến đầu tiên và nhiều nhất. Cung điện được cho xây dựng bởi vua Minh Thành Tổ – Hoàng đế thứ ba của Triều Minh. Tử Cấm Thành luôn khiến người ta phải choáng ngợp trước sự đồ sộ, nguy nga, tráng lệ của hệ thống 800 các công trình bao gồm cung điện, lầu thành, ngự hoa viên… trải rộng trên một diện tích lên  đến 720.000m2.
Kiến trúc đặc trưng của Cung điên cổ này là sự bố trí, sắp xếp, trang trí các công trình dựa trên những nguyên lý rất đặc trưng của minh triết phương Đông: Kính Trời, trọng Đạo, Thiên Nhân hợp nhất, Âm dương hòa hợp. Tử Cấm Thành đối với thế giới giống như một bảo tàng lịch sử – văn hóa-nghệ thuật có giá trị nghiên cứu vô cùng lớn. Không ai có thể tưởng tượng rằng vị kiến trúc sư tài năng kiệt xuất đã thiết kế nên Cố Cung – Tử Cấm Thành lại không phải là người Trung Hoa mà lại là một người Việt Nam khiêm nhường, luôn tận tâm, tận sức vì công việc.
untitled-1-45
Tử Cấm Thành là công trình được Nguyễn An thiết kế và chỉ đạo thi công. 

Người Việt ấy là Nguyễn An (1381-1453), sinh ra ở Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Tài năng của Nguyễn An đã phát tiết khi ông còn rất trẻ. Năm 16 tuổi, Nguyễn An bắt đầu tham gia vào hiệp thợ xây dựng cung điện nhà Trần để phát huy tài năng tính toán và biệt tài kiến trúc hiếm có của mình. Nguyễn An đã bị nhà Minh bắt làm tù binh cùng với rất nhiều những nhân tài khác của nước Việt. Trớ trêu hơn nữa, ông bị hoạn và trở thành thái giám phục vụ trong Cung. Vua Minh lúc bấy giờ đang ấp ủ kế hoạch xây dựng lại cung điện của triều đình tại kinh đô mới ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Minh Thành Tổ đã nhìn thấy tài năng kiến trúc của Nguyễn An, lại thêm phần mến phục đức độ liêm khiết, chính trực của ông, đã trao cho ông trọng trách làm “Tổng đốc công” chỉ huy công trường xây dựng Tử Cấm Thành.
tct1
Tử Cấm Thành – Cung điện đồ sộ nhất dưới thời các triều đại phong kiến Trung Hoa. Ảnh dẫn qua: tourbkk.com
Ở cương vị ấy Nguyễn An đã phát huy hết được những sở trường của ông, trong cả lĩnh vực thiết kế và lĩnh vực quản lý, quy hoạch. Ông tham gia  tính toán, sắp đặt trong tất cả các khâu  từ tuyển chọn, chuẩn bị vật liệu cho tới đào tạo thợ, thiết kế, chỉ huy công trình xây dựng. Hãy cùng đọc một nhận xét của Dương Sĩ Kì trong  “Kinh Thành Ký Thắng” về của Nguyễn An: “Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay, bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất chúng”. Trong rất nhiều các sách sử khác của Trung Hoa, nhất là của Triều Minh, Nguyễn An vẫn được nhắc đến như một bậc kì nhân.
Tiếng thơm lưu muôn thuở
Không ai có thể phủ nhận rằng chính những tài năng thiên bẩm của ba nhân vật ấy đã giúp tên tuổi của họ được lưu truyền đến ngày hôm nay. Nhưng nếu nhìn nhận một cách toàn diện hơn, nhân cách của ba người con đất Việt ấy cũng chính là điều khiến người đời sau cảm phục.
Nguyễn An cùng Hồ Nguyên Trừng đều làm quan cho Triều Minh, hưởng bổng lộc, sống trong giàu sang nhung lụa nơi đất khách nhưng tấm lòng của hai ông không bao giờ rời khỏi mảnh đất Việt thân thương, dù chỉ có một người có thể trở về. Người còn lại chỉ có thể mượn bút để viết nên nỗi lòng của mình với quê cha đất tổ. Về cuối đời, Hồ Nguyên Trừng đã lấy bút danh “Nam Ông” (Ông già đất Việt) để viết nên hồi ký “Nam Ông mộng lục”. Rất nhiều người đã tin tưởng vào tấm lòng với đất nước của ông sau khi đọc cuốn hồi kí ấy.
Không chỉ có vậy, họ đều hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ của mình nơi xứ người, không để những tủi nhục của hoàn cảnh nhấn chìm ý chí vươn lên. Nguyễn An, người đã vượt qua nỗi nhục của thân phận hoạn quan, Hồ Nguyên Trừng không để nỗi đau mất nước hủy hoại, họ vẫn cố gắng sống, giữ trọn đức độ và tài năng của mình. Họ chọn cống hiến để để lại những di sản mà ngày nay đã trở thành niềm tự hào của người dân đất Việt. Mặc dù sử sách Việt thời bấy giờ không ghi nhận công trạng của họ, có thể còn có những nhận xét trái chiều về lựa chọn của họ, nhưng chắc hẳn những người Việt của hiện tại sẽ đánh giá công tâm những gì mà những “vị quan Trung Hoa bất đắc dĩ” ấy đã tận tâm kiến tạo.
Hoa Quỳnh.

(daikynguyen.com)

CHUCK FEENEY - Một Tấm Gương Cho Những Người Giàu Có


Sự cao thượng tâm hồn nằm trong tấm lòng mà không phải ở quần áo bên ngoài.
Xem ra Ông này còn là bậc thầy của Bill Gates nữa.
Đáng kính phục ... 
Đây là một ông lão mới thoạt nhìn trông nghèo khó và keo kiệt....
Ông đã 76 tuổi, ở cùng vợ trong một căn hộ cho thuê ở thành phố San Francisco nước Mỹ. Ông chưa từng mặc qua quần áo hàng hiệu, kính mắt rất cũ kỹ, đồng hồ đeo tay cũng không hợp thời. Ông không thích món ăn ngon, thích nhất là sữa hâm nóng và bánh sandwich cà chua giá rẻ. Ông cũng không có xe hiệu riêng, ra ngoài thường đều đi bằng xe buýt, túi xách mà ông từng dùng để đi làm là túi vải.
Mặt khác, nếu bạn cùng ông đến một quán rượu nhỏ uống bia, ông nhất định sẽ cẩn thận kiểm tra đối chiếu hóa đơn; nếu bạn ở lại nhà ông ấy, trước khi ngủ ông ấy nhất định sẽ nhắc bạn tắt đèn.
Một ông già “nghèo khó” như vậy, bạn có biết trước 76 tuổi ông đã làm những việc gì chăng?
Ông đã từng cống hiến cho đại học Cornell 588 triệu đô la Mỹ, cho đại học California 125 triệu đô la Mỹ, cho đại học Stanford 60 triệu đô la Mỹ. Ông từng bỏ vốn 1 tỷ đô la cải tạo và xây mới 7 trường đại học ở New Ireland và hai trường đại học ở Northern Ireland. Ông từng thành lập quỹ từ thiện để phẫu thuật sứt môi hở hàm ếch cho trẻ em ở các nước đang phát triển… Cho đến nay, ông đã quyên 4 tỷ đô la, còn 4 tỷ nữa đang chuẩn bị quyên góp.
Ông là người sáng lập tập đoàn được miễn thuế toàn cầu DFS. Keo kiệt với chính mình, hào phóng với mọi người, thích kiếm tiền lại không thích được tiền –
ông là Chuck Feeney.
Trước mắt, Chuck Feeney còn ba nguyện vọng: Một là trước năm 2016 quyên hết 4 tỷ đô la còn lại. Hiện tại, từ số tiền kia mỗi năm đều có hơn 400 triệu đô la chảy về các nơi cần trên thế giới.
Ông đã dựng nên một tấm gương cho những người giàu có:
“Trong khi hưởng thụ cuộc sống đồng thời quyên góp cho mọi người”. Bill Gates và Warren Buffett đều chịu ảnh hưởng nhiều từ ông mà đã thay đổi hành động của mình.
Sau khi việc thiện của Chuck Feeney bị tiết lộ ra, rất nhiều phóng viên muốn tiếp xúc với ông. Trong tâm ai cũng đều có một nghi vấn: Làm sao Chuck Feeney có thể dửng dưng trước gia tài hàng tỷ đô la kia chứ?
Đối với nghi vấn của mọi người, Chuck Feeney mỉm cười kể cho mọi người một câu chuyện:
“Một con hồ ly thấy bồ đào trong vườn kết trái đầy, muốn vào trong ăn một chầu no bụng, nhưng giờ nó mập quá, không chui vào được. Thế là ba ngày ba đêm nó không ăn không uống để thân thể gầy xuống, cuối cùng cũng chui vào được! Ăn no nê, cảm thấy thỏa mãn, nhưng khi nó muốn rời đi, lại không chui ra được. Bất đắc dĩ đành phải giở trò cũ, lại ba ngày ba đêm không ăn uống. Kết quả, lúc nó đi ra, bụng vẫn giống như lúc đi vào.”
Kể xong câu chuyện, Chuck Feeney nói:
“Mỗi người đều là trần trụi sinh ra, cuối cùng cũng đơn độc ra đi, không ai có thể mang theo tài phú và danh tiếng mà bản thân đã đau khổ tìm kiếm cả đời.”
Truyền thông hỏi Chuck Feeney, vì sao ông lại quyên góp hết gia tài của mình?
Câu trả lời của ông đơn giản và ngoài dự đoán của mọi người .
 Ông nói: “Bởi vì tấm vải che tử thi không có túi đựng.”

NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU 1945

Công trình nghiên cứu về nạn đói năm 1945 của GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam và GS Furuta Moto (người Nhật) chỉ rõ: chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp lúc bấy giờ cùng với thiên tai, mất mùa ở nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm cảnh trên.
12-9406-1420769930.jpg
Sống ngắc ngoải trong nạn đói 1945. Ảnh tư liệu.
Tháng 10/1940, khi đặt chân đến Đông Dương, Nhật thi hành hàng loạt chính sách đánh vào nền kinh tế: buộc thực dân Pháp phải ký kết nhiều hiệp ước yêu cầu cung cấp lương thực, giao nộp lúa, gạo cho Nhật hàng năm; cấm vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc, hạn chế chuyên chở tự do, chỉ cho chở dưới 50 cân gạo trong một tỉnh; bắt người dân nhổ lúa trồng đay, dành ruộng trồng lạc.
Trong khi Nhật vơ vét cho chiến tranh thì Pháp dự trữ lương thực phòng khi quân Đồng minh chưa tới,phải đánh Nhật hoặc dùng cho cuộc tái xâm lược Việt Nam. Thuế đinh, thuế điền, tô tức trở thành những chiếc thòng lọng buộc vào cổ nông dân.
Năm 1944, Việt Nam bị mất mùa nhưng Pháp và chính quyền phong kiến vẫn phải cung cấp cho Nhật hơn 900.000 tấn gạo để nuôi chiến tranh phát xít và làm nguyên liệu để người Pháp nấu rượu, cùng thóc dùng đốt lò thay cho than đá. Hàng chục nghìn mẫu ngô bị phá, hàng triệu tấn thóc bị thu nộp. Theo thống kê, năm 1940, diện tích trồng đay là 5.000 ha nhưng đến năm 1944 đã tăng lên 45.000 ha.
Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra, vơ vét thóc ở miền Bắc khiến giá thóc, gạo tăng vọt.Năm 1943, một tạ gạo giá chính thức là 31 đồng, giá chợ đen là 57 đồng; năm 1944 tăng lên 40 đồng, giá chợ đen là 350 đồng, nhưng đến đầu năm 1945 thì giá chính thức vọt lên 53 đồng còn giá chợ đen từ 700-800 đồng. Giá gạo "phi nước đại" khiến người dân không đủ sức mua, phải chịu cảnh chết đói.
Tháng 9/1944, lụt vỡ đê La Giang (Hà Tĩnh), đê sông Cả (Nghệ An) làm cho nạn đói diễn ra trầm trọng hơn.Theo những người dân trải qua nạn đói khủng khiếp ở Tây Lương (Tiền Hải, Thái Bình) thì vụ mùa năm 1944, lúa trên các cánh đồng rộng hàng trăm mẫu đều bị "rù" (rầy phá hoại), chết trắng, chết vàng. Cả mẫu ruộng không thu nổi vài chục cân thóc mẩy.
3-2745-1420769931.jpg
Trại Giáp Bát, Hà Nội, nơi tập trung những nạn nhân đói năm 1945. Ảnh tư liệu.
Nạn đói đã diễn ra ở 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ, từ Quảng Trị trở ra. Trọng điểm là các tỉnh đồng bằng, nơi dân số tập trung đông, có nhiều ruộng, như Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hóa. Cái đói không buông tha ai, trọng tâm là những người dân nghèo, người lao động, đặc biệt là nông dân không có ruộng đất chuyên đi làm thuê và nông dân ít ruộng đất.
Để chống lại cái đói, cái chết cận kề, người dân ăn từ rau dại, đến củ chuối, vỏ cây, giết cả trâu bò, chó mèo; dân chài thì ăn củ nâu, cá chết. Khi không còn gì ăn thì họ ngồi chờ chết, để người nhà mang đi chôn hoặc chết ở bờ bụi khi đi kiếm ăn. Cái chết đến từ từ, thảm khốc, dày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Cái đói khiến cha bỏ con, chồng bỏ vợ, tình người đứt đoạn, đi xin ăn không được thì cướp giật. Ở các vùng quê, hàng nghìn hộ gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chỉ một vài người sống sót.
Tháng 3/1945, nạn đói lên đến đỉnh điểm. Lũ lượt người ngược, kẻ xuôi chạy đói đến các thành phố lớn, họ bán cơ nghiệp để lấy tiền đi đường. Người dân Hà Nội khi ấy đã phát động Ngày cứu đói, lập trại tế bần phát cháo. Người sắp chết thì được đưa về trại Giáp Bát, còn người chết đói thì xác chất đầy xe bò đem đi "hất xuống hố như hất rác" tại nghĩa trang Hợp Thiện (Hai Bà Trưng).
Mục sư Lê Văn Thái, nguyên Hội trưởng Hội thánh Tin lành Việt Nam thời kỳ 1942-1960 viết lại: "Tôi thường nghe tiếng rên xiết của những người sắp chết, thấy những đống thịt quằn quại gần những xác chết, nơi này 5-3 xác chết, chỗ khác từng đống người sống nằm lẫn với người chết. Trên những đoàn xe bò đầy những xác chết, mỗi xe chỉ phủ một chiếc chiếu, trong những cái hầm mấy trăm xác chết mới lấp một lần. Một vài lá cải thối trong đống rác, một vài hột cơm đổ bên cạnh vò nước gạo thì họ kéo nhau từng lũ đến tranh cướp".
"Họ đi thành rặng dài bất tuyệt gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có, đàn ông có, đàn bà có, người nào người nấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc, giơ xương ra và run rẩy. Ngay cả đến những thiếu nữ tuổi dậy thì, đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng hãy còn che thân người đó", tác giả Vespy viết trong một bức thư vào tháng 4/1945.
Giữa lúc nạn đói lên đến đỉnh điểm thì ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Mặt trận Việt Minh phát động nhân dân phá hàng trăm kho thóc của Nhật để cứu đói. Phong trào diễn ra sôi nổi khắp nơi khiến nạn đói phần nào được đẩy lui. Nông dân bắt đầu trở về quê tiếp tục sản xuất. Đến vụ chiêm (tháng 6) có gạo mới, mức sống thay đổi đột ngột lại khiến nhiều người chết vì ăn quá no. Môi trường bị ô nhiễm nặng bởi xác chết không được xử lý và trải qua cơn đói lâu dài kéo theo dịch tả và dịch sốt vàng da lại giết thêm nhiều người ở Bắc Giang, Cao Bằng.
Nhiều làng xã chết 50-80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai.. Làng Sơn Thọ, xã Thụy Anh (Thái Thụy, Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người. Chỉ trong 5 tháng, số người chết đói toàn tỉnh lên đến 280.000 người, chiếm 25% dân số Thái Bình khi đó. Lịch sử đảng bộ Hà Sơn Bình cũ ghi rõ: "Trong nạn đói năm 1945, khoảng 8 vạn người (gần 10% dân số trong tỉnh) chết đói, nhiều nơi xóm làng xơ xác tiêu điều, nhất là ở những nơi nghề thủ công bị đình đốn. Làng La Cả (Hoài Đức) số người chết đói hơn 2.000/4.800 dân, có 147 gia đình chết không còn một ai. Làng La Khê (Hoài Đức) có 2.100 người thì 1.200 người chết đói, bằng 57% số dân".
16-5855-1420769931.jpg
Một điểm chôn tập thể người bị chết đói, đổ xác đến đâu lấp đất đến đấy. Ảnh tư liệu.
Tháng 5/1945, bảy tháng sau khi nạn đói bùng nổ tại miền Bắc, tòa khâm sai tại Hà Nội lệnh cho các tỉnh miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vì đói và chết bệnh là 400.000, chỉ tính miền Bắc. Số liệu nghiên cứu trong cuốn Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử của GS Văn Tạo thống kê: "Riêng tỉnh Thái Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất, đã được Ban lịch sử tỉnh điều tra, con số tương đối sát thực tế là cả tỉnh chết đói mất 280.000 người. Chỉ tính số người chết đói ở Thái Bình cùng với Nam Định hơn 210.000 người, Ninh Bình 38.000, Hà Nam chết 50.000 thì số người chết đói đã lên đến hơn 580.000. Như vậy, con số 2 triệu người Việt Nam chết đói trong 32 tỉnh cũ tính từ Quảng Trị trở ra và hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng là gần với sự thực".
So sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của các cuộc chiến tranh Pháp - Đức,  CT.Hồ Chí Minh còn phải nói: "Nạn đói nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chết một triệu người, nước Đức chết chừng 3 triệu. Thế mà nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ, ta đã chết hơn 2 triệu người".
70 năm trôi qua, những chứng tích lịch sử về nạn đói năm xưa không còn nhiều, ngoài những nấm mồ tập thể sâu dưới lòng đất lạnh. Những nhân chứng từng đi qua tai họa lịch sử ấy thì ghi nhớ nỗi đau thương sâu trong tâm, mỗi lần nhắc đến chỉ biết rưng rưng nước mắt.
Hoàng Phương
VN Express

TRẢ LẠI TUỔI BIẾT BUỒN - Thơ Thuyên Huy





Người trả lại tôi tuổi biết buồn

Của ngày hai đứa mới vừa thương

Ngõ về thui thủi mình tôi bước

Mưa đuổi tiếng mưa ở cuối đường



Lặng lẽ theo sau lặng lẽ chờ

Áo người thả gió trắng trời mơ

Ngập ngừng hạ khép đôi tà phượng

Phượng đỏ níu hồn tôi ngẩn ngơ



Nhớ nhung đếm tuổi lá sân trường

Thấp thoáng nhà người hiu hắt sương

Cuối thềm chim hát tương tư khúc

Đoạn cuối người đi tôi vấn vương



Tôi giữ lại đây hình bóng người

Để còn có được chút đời vui

Lá thư tình viết chưa lần gởi

Xé nát từ đây  khỏi ngậm ngùi


Thuyên Huy

DU LỊCH RẺ TIỀN VÀ LÒNG TRUNG THỰC - Hùynh Phước Sang


Mới đây có một cô bé có ghi trong bản hướng dẫn đi Phượt Mỹ chỉ tốn 300 usd, trong đó có nói nên vào các Siêu Thị Mỹ mua công cụ lều chỏng dùng rồi trả miễn phí vì ở Mỹ họ cho phép miễn phí điều đó trong vòng 1 tháng!


Cộng đồng mạng tranh cãi, và cô ta nói mình ghi thế thôi chứ đã chú thích không tán thành, chuyện cụ thể tôi không bàn, nhưng tôi thì đọc rất nhiều các bài hướng dẫn của Dân Phượt Việt Nam ta, mấy chuyện vậy đầy luôn ha!

Nào là mua vé vào khu tham quan Angko Wat giá dân địa phương rất rẻ, nên nhờ họ mua dùm rồi giả làm người Cam để ăn gian được tiền vé! Rồi nào là cách đi hành lý quá ký thế nào, xách tay cho 7kg nhưng đeo bớt trên người này kia qua trạm kiểm rồi bỏ vào lại! Rồi cách thuê Homestay nào để có thể kéo thêm người vào ở mà trốn trả phí thêm người…

vân vân… toàn những trò ma mãnh nhỏ nhặt và rất khoái trá truyền nhau như là một sự thông minh và ăn được người ta vậy!

Tôi cũng nhớ trước có đọc về thành tích tay trắng gây dựng sự nghiệp của một cô bé Làm Công Triệu Đô gì đấy, rằng khi còn sinh viên cô ấy kiếm tiền bằng cách phô tô sách và bán rẻ cho các bạn, cô ấy kể về một việc ăn cắp bản quyền một cách vô tư và hồn nhiên! Rồi còn rất nhiều câu chuyện chúng ta hồn nhiên khoe khoang nhau những thành tích ăn cắp hay gian như là sự giỏi giang hơn người!

Tuổi trẻ Việt Nam đó các bạn, chúng ta đã được giáo dục sự gian manh ma mãnh nhỏ nhặt và coi đó là sự Khôn Lanh hơn người ta, xin lỗi, thế giới nó lo để đầu óc đó để lên Sao Kim Mặt Trăng, lo làm ra các Doanh Nghiệp Tỉ Tỉ đô, người ta không ngu mà chả thèm chấp chúng ta mà thôi!

Con Người đứng trước Con Cọp, như là một thế lực mạnh mẽ hơn ta, hay như là một vấn đề to lớn khó khăn, Dân Tộc họ ước mơ tập luyện sức khoẻ võ công để tay không đánh thắng cọp, hay ước mơ sáng tạo ra công cụ vũ khí để khống chế và chiến thắng Cọp, còn Việt Nam ta ước mơ lừa được nó, trói và đốt nó!

Và điều đó đã ăn sâu vào máu, vào tư duy dân tộc ta để tạo ra các thế hệ hôm nay! Nếu không nhận ra sự hèn kém đó để bắt đầu thay đổi, chúng ta sẽ mãi nhỏ nhen tủn mủn xấu xa trong nghèo hèn và bị khinh khi mãi mà thôi!

Hãy nhận ra và bắt đầu thay đổi!


Huỳnh Phước Sang

(ảnh : Hà Giang -mùahoa tam giác mạch,từ Google)

10 công việc lạ lùng đến nay đã tuyệt tích nhưng khiến bạn nhớ khôn nguôi (từ daikynguyen.com)

Quá khứ luôn mang lại những điều thú vị và bất ngờ, bạn có đoán được những nghề nào từng xuất hiện trong quá khứ nhưng hiện nay không còn ai thấy chúng không?
Cuộc sống hiện đại đã đem đến nhiều thiết bị thay thế sức người, mặc dù chúng đã từng là những công việc không thể thiếu được trong những năm 1800 và 1900, nhưng hiện nay những nghề này chỉ còn tồn tại trong các câu chuyện ngày xưa mà thôi.

1. Nghề xếp pin chơi bowling

Trước khi có những sàn bowling 100% tự động, người ta thường thuê các bé trai sắp pin bowling sau mỗi lượt chơi. Nếu thời nay công việc thú vị này vẫn còn tồn tại, thì hẳn sẽ mang lại một khoản thu nhập làm thêm phù hợp với sinh viên nghèo.

Nghề Cắt Băng 

Trước khi có tủ lạnh, người ta phải tìm cách bảo quản thức ăn bằng băng tuyết. Đây là một công việc vô cùng nguy hiểm và đòi hỏi sức khỏe tốt bởi những khối băng dày và nặng này sẽ cần được cưa từ các hồ nước đã đóng băng trong điều kiện thời tiết rất khắc nghiệt.

3. Nghề do thám các tín hiệu ra-đa

 Trước khi có máy dò ra-đa, quân đội phải tìm cách để ứng phó với máy bay của quân địch xâm nhập. Và đây chính là… máy dò ra-đa thô sơ của thời ấy!

4. Người thắp đèn


Trước khi điện xuất hiện, đèn dầu được sử dụng vô cùng rộng rãi, và dĩ nhiên, sẽ có một người làm chiếc “công tắc” đa năng cho những chiếc đèn đường đấy bằng cách sử dụng các cây gậy dài để châm dầu, thắp sáng và tắt đèn.

5. Người báo thức

 

Vào thời Cách Mạng Công Nghiệp, khi chưa có đồng hồ báo thức, thường sẽ có một số người được thuê làm ‘đồng hồ’ gọi những người khác dậy. Đồng hồ báo thức ‘sống’ này sẽ dùng gậy, chùy hoặc đá sỏi để gõ vào cửa sổ và đánh thức cho bằng được người cần báo thức để họ đi làm đúng giờ. Thời nay, mặc dù chúng ta đều có thể dễ dàng đặt báo thức trên điện thoại hoặc trên đồng hồ, nhưng có lẽ còn có những bà mẹ vẫn đang phục vụ ‘nghề’ này hằng ngày cho con cái vào những năm tháng chúng cắp sách đến trường.

6. Người giao sữa


Đây là một nghề mà có lẽ chúng ta đã thấy đôi lần trong các bộ phim lấy bối cảnh thời xưa. Người làm nghề này đi giao sữa, và thỉnh thoảng giao cả bánh mì cho khắp mọi nhà. Sau khi tủ lạnh ra đời, nhu cầu giao sữa ít đi và nghề này cũng dần trở nên không cần thiết.

7. Người bắt chuột

 

Đây hẳn là một nghề rất lạ! Trong ảnh là những người đàn ông đang giúp thành phố Luân Đôn ngăn chặn bệnh dịch và phá hoại từ chuột. Công việc này gặp nhiều rủi ro, nhưng họ vẫn làm vì mục đích tốt đẹp cho xã hội.

8. Nghề chuyển gỗ

Người làm nghề chuyển gỗ thả nổi những khúc gỗ trên sông cho trôi theo dòng nước để đưa gỗ tới nơi cần thiết. Sau này, với sự ra đời của xe tải, hiển nhiên những anh công nhân chuyển gỗ này cũng bỗng nhiên… thất nghiệp.

9. Người nối máy


Vào thập niên 60, người nối máy tiếp nhận và nối các cuộc gọi với nhau. Họ phải cắm phích vào nguồn mỗi khi có ai đó đang thực hiện cuộc gọi đường dài và vô số những nhiệm vụ khác nữa. Sự ra đời của kỹ thuật số cũng là sự kết thúc của công việc văn phòng đầy tính thủ công này.

10. Phát thanh viên nhà máy

 Phát thanh viên nhà máy được định nghĩa là những người ‘đọc’. Trong thời Cách Mạng Công Nghiệp, các công nhân thuê phát thanh viên đọc bài cho họ nghe để giúp họ thư giãn và khuây khỏa suốt thời gian làm việc mệt nhọc, buồn tẻ trong ngày