Tiền Đông Dương được chia thành các đơn vị piastre, cent/centime và
sapèque. Một piastre bằng 100 cent. Một cent lại bằng 2-6 sapèque tùy
theo triều đại. Theo tỷ lệ đó thì một đồng bạc Đông Dương có giá trị từ
200 đền 600 đồng tiền cổ truyền của người Việt. Mặt trước của các tờ
tiền giấy hoặc tiền kim loại ghi bằng tiếng Pháp. Mặt sau ghi bằng chữ
Hán, chữ Quốc ngữ, chữ Lào và chữ Khmer, song cũng có lúc chỉ ghi chữ
Pháp.
Piastre phiên dịch sang chữ Hán thành 元 (nguyên); thông dụng gọi là
đồng, hoặc đồng bạc hay thậm chí ngắn gọn là bạc (khi tiền Đông Dương
còn theo chế độ bản vị bạc cho đến tháng 5, 1930), hoặc đồng vàng (khi
tiền Đông Dương theo chế độ bản vị vàng từ tháng 5, 1930 về sau). Cent
tức sou khi phiên âm sang chữ quốc ngữ thành xu. Người Việt Nam còn có
thói quen gọi các tiền mệnh giá hàng chục xu trở lên là cắc (gọi chệch
từ âm giác của chữ Hán 角). Về sau, người Pháp viết chính thức bằng chữ
quốc ngữ là hào và bằng chữ Hán là 毛 (mao). Sapèque tục gọi là đồng kẽm
hay đồng điếu là đơn vị có giá trị nhỏ nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét