Mâm cỗ Tết của gia đình TS Nguyễn Xuân Diện Ảnh: NXD |
Hoàng Tuấn Công
Tục ngữ có câu“Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Nhiều
nhà nghiên cứu, biên soạn từ điển cho rằng, vì phải thực hiện nghi lễ
cúng bái, rồi bận tiếp khách, lại thêm khách đến ăn giỗ nhiều hơn dự
kiến…nên mới bị đói vào ngày giỗ cha; trong khi Tết, nhà nào cũng có cỗ,
đi đâu cũng được mời ăn…nên no đủ(1). Tuy nhiên, giải thích như vậy là chưa thấy hết được ý nghĩa và tầm quan trọng của cái Tết trong tâm thức người Việt.
“Đói giỗ cha, no ba ngày Tết” (dị bản “Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”) được hiểu như sau: Ngày giỗ cha rất quan trọng (“Trâu bò được ngày phá đỗ, con cháu được bữa giỗ ông”; “Một bữa giỗ cha, ba ngày húp nước xáo”). Nhưng giỗ cha không dứt khoát phải
cỗ bàn thịnh soạn. Gặp năm mùa màng thất bát, đói kém, chiến tranh,
loạn lạc... thì ngày giỗ cha, có khi chỉ có nén hương, chén nước, bát
cơm, quả trứng gọi là “cúng cáo”, nhớ ngày kỵ. Như thế không có gì là
trái đạo lý. Bởi tín ngưỡng thờ cúng của người Việt không câu nệ mâm cao
cỗ đầy, “Bắt thiếu giỗ, không ai bắt cỗ lưng” (các cụ có thể
“chước” đi cho). Thế nhưng ba ngày Tết lại là chuyện khác. Người ta có
thể túng thiếu, quanh năm nhịn đói, nhịn thèm, nhưng ba ngày Tết cũng
phải chạy vạy bằng được để ít nhất không được ăn ngon, cũng phải ăn no, hoặc có gì đó khác ngày thường. (Có câu "Giàu hay nghèo, ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà", hay “Đói cho chết, ngày Tết cũng phải no”; “Đói cũng thể ngày Tết, hết cũng thể ngày mùa” là vậy).
Ngày
Tết được ăn ngon, ăn no, mặc đẹp, vui vẻ, nhàn hạ, thì hy vọng cả năm
cũng sẽ được như vậy. Bởi thế, Tết đến, người ta không chỉ ăn cho no
bụng mà còn ăn để lấy may cả năm. Trong câu tục ngữ “Đói giỗ cha no ba ngày Tết”, dân gian đưa ra ngày rất quan trọng (giỗ cha) để so sánh, khẳng định một ngày khác còn quan trọng hơn nhiều: Tết
là ngày quan trọng nhất trong tất cả những dịp lễ quan trọng trong
năm; Có thể bị đói vào ngày giỗ cha, nhưng ba ngày Tết dứt khoát phải
được no.
Tết
không chỉ ý nghĩa với người sống mà còn với cả ông bà, tổ tiên. Kẻ ăn
mày đến ngày giỗ cha, có khi không có gì để cúng, nhưng Tết đến cũng
phải cố tìm cách có được bữa tươm tất, no bụng. Người tha hương nơi góc
biển chân mây, ngày giỗ cha có khi đành ngậm ngùi vọng bái; nhưng năm
hết Tết đến thì nỗi sầu xa xứ bỗng trỗi dậy, thôi thúc người ta tìm mọi
cách để trở về với quê hương bản quán. Không ai muốn (và không thể)
“khất” được cái Tết. Không thể nhịn đói nằm co, một mình một bóng khi cả
đất trời, thiên hạ đều náo nức đón Tết, vui Xuân, sum họp gia đình. Đó
chính là sự đặc biệt của cái Tết so với tất cả những ngày đặc biệt trong
năm.
“Ăn
Tết” được hiểu bao gồm tất cả những nghi lễ, hoạt động vui chơi, thăm
viếng, chúc tụng trong “ba ngày Tết”… Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là
“ăn Tết” với nghĩa quây quần bên mâm cỗ Tết mà tận hưởng thành quả lao
động của cả một năm vất vả cực nhọc, một nắng hai sương.
Tục ngữ có câu “Đi cày ba vụ không đủ ăn Tết ba ngày”. Quả vậy! Trong “Đất lề quê thói” ông Nhất Thanh đã phải thốt lên: “Ta ăn Tết ba ngày mà có thể nói là sắm sửa Tết gần cả năm cũng không phải là ngoa”. Léopold
Cadière (1869-1955), một Học giả Pháp rất am hiểu phong tục tập quán,
tâm lý của người Việt cũng nhận xét: “Đối với tất cả mọi người, ngay cả
nhà nghèo, trong ngày Tết phải dâng cho ông bà tổ tiên những gì thịnh
soạn nhất. Có người vì những ngày ấy mà mang nợ suốt năm, thế mà họ vẫn
bằng lòng: trước hết để dâng cúng tổ tiên và bắt đầu năm mới với bụng
phủ phê no đầy”.
Tuỳ
phong tục vùng miền, tuỳ điều kiện kinh tế của từng gia đình, nhưng
nhìn chung, dù giàu hay nghèo, tâm lý chung là Tết và mâm cỗ Tết bao giờ
cũng phải đàng hoàng, phải to nhất, thịnh soạn nhất; không chỉ so với
bữa ăn thường ngày, mà còn thịnh soạn nhất trong tất cả các ngày giỗ
chạp trong năm.
Xưa
kia, đời sống kinh tế vô cùng khó khăn. Quanh năm lao động quần quật,
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nói gì đến ăn ngon, mặc đẹp. Thế nên,
người ta phải làm lụng, dành dụm, chịu thương chịu khó, thiếu thốn quanh
năm để dồn cho ba ngày Tết, cho mâm cỗ Tết.
Lúa
nếp cho năng suất thấp, hao cơm, nên ruộng đất được ưu tiên cấy lúa tẻ
làm lương thực hàng ngày. Thường mỗi nhà chỉ dám dành dăm ba thước đất
nhỏ hẹp để gieo cấy lúa nếp, rồi chia ra để sử dụng một cách dè xẻn
trong các dịp giỗ chạp, lễ tiết, khách khứa trong năm. Còn lại, nếp phải
để dành cho nồi bánh chưng-một trong những món chủ đạo (nếu không nói
là quan trọng nhất)-chỉ xuất hiện mỗi năm một lần vào ba ngày Tết.
Con
lợn xưa kia được xem là “hũ tiết kiệm”. Giống “lợn ta” vóc dáng vốn đã
bé nhỏ, lại nuôi theo kiểu ăn theo người. Tí nước vo gạo, cám gạo, cơm
thừa canh cặn “lấy phép”, còn lại chủ yếu lợn ăn rau bèo, nên càng chậm
lớn. Sớm tối chăm bẵm, nhưng mỗi tháng lợn chỉ tăng được một vài cân là
chuyện thường. Có khi lợn đã hết sức lớn, nhưng chưa đến Tết, thì người
ta vẫn tiếp tục nuôi để dành. Đàn gà trống thiến chuẩn bị từ đầu năm, đã
lớn đẹp như tranh, cũng phải để cuối năm, con thì bán bớt lấy tiền sắm
Tết, con thì làm cỗ. Để có cá tát ao ăn Tết, thì ngày thường cũng phải
ăn dè. Đến như mấy ống đậu xanh, khóm gừng, củ dong, hay mấy cái gộc
tre, khúc củi nấu bánh chưng, rồi đồng tiền mua lá dong, lạt gói bánh…,
cũng phải dành dụm, dồn góp dần mới làm nên cái Tết, mâm cỗ Tết.
Làm
lụng quanh năm để dành cho cái Tết, nên mâm cỗ Tết trở nên thịnh soạn,
đặc biệt hơn cả. Càng đặc biệt hơn, khi phần lớn những đồ ăn thức uống
ấy đều là những sản phẩm tự cung tự cấp. Còn gì sung sướng, hân hoan cho
bằng sau khi dâng cúng tổ tiên những sản vật tự mình nuôi trồng, cày
cấy, rồi cả nhà quây quần bên mâm cỗ Tết. Mâm cỗ Tết hiện lên tựa trong
giấc mơ ngày thường: đồ ăn thức uống nào cũng ngon lành, thơm phức, đầy
bát, đầy mâm! Người ta ăn với cảm giác tận hưởng, sung sướng nhìn ngắm
lại thành quả lao động một nắng hai sương, công sức lao động của cả nhà
quanh năm dồn góp mà thành. Trong không khí rạo rực của mùa xuân, tất cả
đều hy vọng vào một năm mới no cơm ấm áo với bao điều tốt đẹp.
“Mùng ba ăn rốn, mùng bốn ngồi không”. Nhiều nhà nghiên cứu, biên soạn từ điển cho rằng, câu tục ngữ này phê phán thói ăn tiêu hoang phí, không biết lo xa(2). Nhưng thực ra, ý dân gian không phải vậy.
Cả năm mong Tết, nhưng con cháu hay ông bà tổ tiên; người sống cũng như người đã khuất cũng chỉ đủ đầy, hương khói trong ba ngày Tết. Ngày mồng ba là ngày cuối cùng của ba ngày Tết được ăn uống “thả cửa”, cho dù không thịnh soạn bằng mấy ngày trước đó, nên gọi là “ăn rốn”. Bánh chưng, giò chả gì đó cũng “tổng vét”. Sang mồng bốn, “ngồi trơ”, coi như trở lại ngày thường, hết Tết. Người
ta lại trở về công việc đồng áng với bao vất vả lo toan thường ngày.
Cho đến tận bây giờ, dù điều kiện kinh tế hơn trước rất nhiều, nhưng Tết
với đầy đủ ý nghĩa, lễ nghi cũng chỉ gói gọn trong “ba ngày Tết” mà
thôi.
Hàng ngàn năm qua, dù “thanh bình yên vui hay chiến tranh khốn khổ”...
mỗi năm một lần, ba ngày Tết và mâm cỗ Tết sum họp gia đình vẫn đến rạo
rực, tươi mới như mùa Xuân đất trời, thắp sáng niềm hy vọng vào ngày
mai trong lòng muôn người, muôn nhà...bất kể sang giàu hay nghèo khó...
HTC/Xuân Mậu Tuất 2018
Chú thích:
(1) Tham khảo:
- “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương): “Đói giỗ cha no ba ngày tết Hay
bị đói là vào dịp giỗ cha (vì đâu còn lúc nào mà nghĩ tới chuyện ăn
trong khi đang mải lo chuyện cúng giỗ); hay được ăn no là vào ba ngày
Tết (vì đó là một thông lệ vốn có tự ngàn xưa)”.
-“Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” (Vũ Dung-Vũ Thúy Anh-Vũ Quang Hào: “Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết: Một
phong tục của dân khi xưa...Những ngày giỗ bố mẹ, con cái phải làm cỗ
mời bà con họ hàng. Người kéo đến ăn thường đông hơn số người được mời.
Người lớn lại đem theo cả trẻ con. Có những người khách không mời mà
đến. Bởi vậy, chủ nhà có khi phải nhịn miệng mà thết khách cho vui lòng
khách. Trong ba ngày tết, dù nghèo đói, nhà nào cũng cố phải có cỗ bàn,
bánh trái, nhất là bánh chưng. Tới nhà nào chủ nhà cũng mời ăn.”
(2) Tham khảo:
-“Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” (Vũ Dung-Vũ Thúy Anh-Vũ Quang Hào): “Mồng ba ăn rốn, mồng bốn ngồi trơ. Tục lệ hội hè đình đám, lễ tết: ăn uống hoang phí đến hết mùng ba tết sau đó lại thiếu thốn”.
“Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương): “Mồng ba ăn rốn mồng bốn ngồi trơ Tới
mồng ba mà vẫn còn ngồi ăn rốn (những gì chưa ăn hết trong mấy ngày
tết) thì chỉ đến mồng bốn là đã ngồi trơ mõm ra rồi (vì đâu còn thứ gì
nữa mà ăn). Hay dùng với ẩn ý: nh. Ăn nể ngồi không non đồng cũng lở”.
-“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân): “Mồng ba ăn rốn, mồng bốn ngồi trơ Chê người chỉ biết cái trước mắt, không nghĩ đến tương lai”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét