Nguyễn Khắc Giang | |
(TBKTSG
Xuân AL) - Trên một chuyến bay từ London về Hà Nội ba năm trước, tôi
gặp một nhà nhân học trẻ người Ý, tên là Giulio. Để hoàn thành luận văn
tiến sĩ, anh sẽ phải đi điền dã - một phương pháp nghiên cứu yêu cầu
người thực hiện phải sống cùng nhân vật ở địa bàn - là một vùng núi xa
xôi trên Thượng Lào, trong thời gian hai năm rưỡi. Tôi hỏi: “Vậy anh
liên lạc với người thân thế nào?”. Anh cười trả lời: “Ở đó không có sóng
điện thoại, không có Internet. Tôi sẽ chết trên Facebook”.
Mất tích trên
mạng là một điều khủng khiếp. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà
chỉ cần vài tiếng không “lên sóng” cũng sẽ thấy bồn chồn không yên.
Chúng ta sợ bị tụt hậu vì không biết được tin nóng nào đang được thảo
luận, bạn bè đang cập nhật những chuyến đi chơi, hay đơn giản là không
ai còn nhớ đến mình. Các nhà tâm lý học gọi đây là hội chứng sợ bị lãng
quên (hội chứng FOMO - fear of missing out).
Bị bỏ quên là
nỗi sợ quen thuộc với loài người. Kể từ lúc còn sống bầy đàn, tổ tiên
của chúng ta sợ bị đồng loại bỏ rơi trong rừng thẳm, không có được thông
tin về đợt săn thú mới, hay biết được mối đe dọa từ bên ngoài. Bị bỏ
lại khi đó đồng nghĩa với cái chết.
Khi loài người
bước ra khỏi thời kỳ hỗn mang và phát triển hơn, bị bỏ lại không còn
mang ý nghĩa sống còn, dù có thể quyết định việc một người giàu có hay
nghèo nàn hơn (nhờ tiếp cận được nguồn thông tin độc quyền, như đầu tư
vào loại cổ phiếu nào hay mua nhà ở đâu). Nhưng đâu đó trong mỗi con
người, nỗi sợ đó vẫn tồn tại. Và với sự xuất hiện của mạng xã hội, nó đã
có điểm tựa hoàn hảo để quay trở lại.
Riêng ở Việt
Nam, theo số liệu của hãng nghiên cứu thị trường We Are Social, tính đến
năm 2017, đã có đến 46 triệu người dùng Facebook thường xuyên. Trong số
đó, trung bình dành ra khoảng gần bảy tiếng mỗi ngày trên Internet, và
ba tiếng đồng hồ mỗi ngày để “lướt phây”. Con số ba tiếng, dù nhiều so
với 24 giờ đồng hồ chúng ta có mỗi ngày, không đủ để kết luận là nhiều
hay ít. Nhưng một nghiên cứu trích dẫn trên tờ Tâm lý học ngày nay
(Psychology Today) trong năm 2016 cho thấy, chỉ có 9% số người dùng
Facebook là để giao tiếp thực sự với bạn bè. Còn lại, đa phần dùng
Facebook để đọc những thông tin ngẫu nhiên trên mạng. Thời gian lướt tin
càng nhiều, nhóm nghiên cứu cho biết, càng khiến cho người dùng
Facebook cảm thấy chán nản hơn. Cho đến khi chúng ta đóng cửa sổ
Facebook lại, hầu hết đều tiếc rẻ thời gian bị lãng phí. Cảm giác làm
việc không hiệu quả khiến chúng ta stress.
9% số người
dùng Facebook để giữ liên lạc với bạn bè cũng không khá khẩm hơn. Công
dân mạng có xu hướng ghen tị với người khác - có ý thức hay trong vô
thức - khi đọc những tin vui được cập nhật, xem những bức ảnh xinh tươi
khi đi du lịch của bạn bè (mà không có mình). Khi đó, chúng ta sẽ nhìn
lại bản thân, và cho rằng đời mình quá nhạt nhòa so với cuộc sống đầy
màu sắc của bạn bè. Tâm lý này lại được nhân lên khi tất cả người dùng
đều có xu hướng tô hồng quá mức những gì mình trải nghiệm qua lăng kính
ảo.
Tìm kiếm niềm
vui trên Facebook, phải chăng, đang là cuộc đua xuống đáy? Người dùng kỳ
vọng Internet và mạng xã hội sẽ mang lại mức độ thỏa mãn nhất định về
thông tin, nhưng càng sử dụng thì họ càng lún sâu vào tâm trạng tiêu
cực. Nghiên cứu vào năm 2015 của Giáo sư Ofir Turel, Đại học California,
cho rằng cơ chế hoạt động của não khi dùng Facebook giống như khi chúng
ta dùng cocaine.
Cùng với nỗi sợ
bị bỏ quên, mạng xã hội còn tạo ra một hiệu ứng ngược: thông tin cá
nhân của chúng ta mãi mãi tồn tại trên Internet. Trong hầu hết trường
hợp, điều này không phải là vấn đề lớn. Nhưng thử tưởng tượng, nếu bạn
là những đứa trẻ bị bạo hành được báo chí và mạng xã hội đưa tin liên
tục trong thời gian qua, bạn sẽ cảm thấy thế nào khi lớn lên và bất chợt
bắt gặp quá khứ kinh hoàng của mình trên một kênh YouTube có hàng triệu
người theo dõi?
Con người, về
mặt thể chất và tinh thần, cần được tái tạo liên tục để tồn tại. Chúng
ta cần quên - và được quên - những ký ức hay hình ảnh tiêu cực mà chúng
tạo ra rào cản để bước tiếp. Internet và mạng xã hội, với công cụ tìm
kiếm siêu đẳng, từ chối loài người quyền cơ bản đó. Tất cả những gì được
tải lên mạng, dù đúng hay sai, cũng có thể trở thành bằng chứng chống
lại chúng ta trước tòa án cộng đồng mạng. Vào năm 2014, một người Tây
Ban Nha đã kiện Google lên tòa án châu Âu, yêu cầu hãng này gỡ bỏ các
thông tin tiêu cực về anh này cách đây 15 năm. Google thua cuộc, dẫn đến
việc phải gỡ bỏ thông tin về anh ta trên công cụ tìm kiếm. Đó là một án
lệ có ý nghĩa rất to lớn về “quyền được lãng quên”: một ngày sau vụ án,
12.000 người đã nộp đơn lên Google với yêu cầu tương tự.
Tất cả những
bất cập trên tất nhiên không làm mất đi lợi ích khổng lồ của mạng xã
hội. Tuy nhiên, cũng giống như những tiến bộ công nghệ khác, để tối đa
hóa hiệu quả, người dùng cần nhìn nhận nó một cách đa chiều hơn. Bill
Gates có lẽ là nhân vật quan trọng nhất trong cuộc cách mạng máy tính và
Internet tỏ thái độ rất dè chừng với công nghệ. Ông chỉ đọc sách giấy,
và không cho phép con cái sử dụng các thiết bị điện tử cầm tay cho đến
năm 14 tuổi.
Không phải ai
cũng là Bill Gates, và không phải những gì Bill Gates làm cũng đúng,
nhưng xu hướng hạn chế bớt công nghệ, đặc biệt là Internet và mạng xã
hội, đang dần được chú ý nhiều hơn. Nhiều người dần quay lại với cách
sống tiền Internet: giao tiếp trực tiếp nhiều hơn, trở về hòa mình vào
thiên nhiên, tham gia các hoạt động thiện nguyện, hay dấn thân vào các
cuộc hành trình, để tự giải thoát khỏi “cộng đồng mạng”. Nhiều người bạn
của tôi thậm chí đã đóng hẳn trang Facebook cá nhân của mình. Và họ cho
rằng mình thực sự làm được nhiều thứ có ý nghĩa hơn khi không bị đắm
chìm trong cạm bẫy của Mark Zuckerberg.
Như một thói
quen của thị dân điển hình, một sáng mùa đông, tôi dậy sớm và “check”
Instagram bên ly cà phê sữa nóng. Bất chợt tôi thấy Giulio “like” bức
ảnh mới tôi đăng lên hôm qua. Giulio - trên mạng đã hồi sinh. Ba năm
không kết nối, anh nói không thấy bị loại trừ một chút nào khỏi thế giới
ảo. Facebook, Instagram, và Twitter nồng nhiệt đón anh trở lại với
những làn sóng thông tin rất quan trọng và không thể bỏ lỡ. Mạng xã hội,
nói theo ngôn ngữ âm nhạc, như khách sạn ma mị trong bài hát nổi tiếng
Hotel California của Eagles: “Bạn có thể trả phòng bất kỳ lúc nào, nhưng
sẽ không bao giờ thoát khỏi nơi đây”.
Tâm đắc với suy
nghĩ của mình, tôi định chia sẻ nó trên trang Facebook của mình, vốn đã
có vài ngàn lượt theo dõi. Nhưng tôi đã kịp nhận ra chính mong muốn
chia sẻ đó đã biến bản thân thành nô lệ của mạng xã hội lúc nào không
hay. Tôi tắt điện thoại và tiếp tục nhâm nhi ly cà phê của mình trong
tiếng chim kêu và nắng sớm, cảm thấy mình đã quyết định sáng suốt.
| |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét