Đi biền biệt ba mươi năm, được trở về Mỹ Tho, sau khi đoàn tụ
với gia đình, việc đầu tiên của tôi là tìm thăm thầy, ông giáo Đức, đẹp trai
nhất trường, ai cũng phải ngắm khi thầy thong dong trên chiếc xe alcyon màu
đen, lốp công-pho (confort) màu trắng, tóc chải láng mượt, quần tussor, sơ mi
trắng, phong thái vừa văn minh vừa quý phái. Trẻ chúng tôi rất tự hào vì được
là học trò của người thầy phong lưu nhất tỉnh.
Ngôi nhà của thầy ngày trước vẫn
còn đó nhưng đã đổi chủ. Tôi lần dò sang các nhà lân cận và các khu phố, người
quen biết thầy trước kia không còn bao nhiêu, chỉ biết rằng sau khi tỉnh lỵ
thất thủ năm 1945, thầy đã chuyển đi xứ khác, nghe nói lên Sài Gòn. Nhưng làm
sao tìm được giữa rừng người đô hội.
Tôi học thầy 3 năm, một năm lớp
moyen, năm sau thầy được cất nhắc lên dạy lớp nhất, tôi lên theo như duyên phận
thầy trò sắp sẵn. Học năm đầu tiên đi thi tuyển vào trường cô-le (trung học)
đọc danh sách tôi trúng tuyển môn viết, chỉ còn môn oral (hạch miệng) là đỗ
nhưng buồn cảnh gia đình sau khi mẹ mất, tôi bỏ không thi hạch miệng, tất nhiên
là tôi bị cha tôi dần cho một trận vì cái tính trái gió trở trời và bắt trở lại
trường lớp cũ thêm một năm nữa. Cao lêu đêu hơn bạn bè mới cùng lớp một nửa
đầu, xếp hàng đứng cuối, ngồi bàn cuối, xấu hổ, nhưng xếp hạng là (major) đáng
mặt là đại ca của sư môn.
Mười bốn năm sau, tình cờ gặp chị
bạn học cùng lớp. Trường Primaire hồi ấy là của con trai, nhưng đặc biệt lớp
tôi có hai trò gái, một cô tên là Huệ, con ông đốc tờ, có lẽ ông đốc tờ mến mộ
tài phát âm tiếng Pháp rất ư là Tây của thầy nên xin ưu tiên đặc biệt riêng với
thầy cho cô con gái rượu. Còn cô bạn gặp tôi là Muội, cha Trung mẹ Việt, do cô
Huệ vòi vĩnh phải có bạn gái với nhau mới dám đơn phương xông pha vào chốn nhất
quỷ nhì ma nên được ăn theo.
Cô Muộn chỉ tôi nơi ở của thầy.
Mừng quá, tôi quơ hai chai mật ong làm quà, vội vàng lấy xe đến thăm thầy.
Nhà thầy ở gian giữa dãy phố trệt.
Hồi ấy mới có kinh tế mở nên chỉ có vài quán cà phê hoặc sửa xe, từng căn phố
ngăn cách bằng rào gỗ. Khoảng trống trước nhà có chiếc xích lô đang kê nghiêng
để vá bánh. Anh xích lô hao hao giống nên đoán biết là con thầy. Sát vách kê
một cái phảng nhỏ, bà lão đang ngồi, cô không nhận ra tôi, nhưng sơn đình còn
lưu dấu thời thiếu nữ đã từng lọt mắt xanh ông giáo trường tỉnh.
Tôi chào hỏi và trình bày ý định
học trò thăm thầy. Anh con trai vào trong, trở ra mời vào.
Nhìn vào trong tôi thấy thầy thay
áo, bộ pyjama của thầy đã ngả màu theo thời gian. Thầy đã già yếu, bước từ từ
ra, vừa đi vừa cài nốt nút áo cuối cùng, dáng vẻ vẫn cao đạo tự tin có chút
lạnh lùng. Tôi lễ phép cúi chào.
- Thưa thầy! Con đến thăm thầy.
Thầy đưa tay cho tôi bắt, chưa hề
bộc lộ thoáng buồn vui mà không để cho tôi chờ đợi. Thầy bất ngờ giáng cho tôi
một câu (có lẽ vì trước đây có trò nào đó đã đến thăm thầy trước tôi và nói
cách mạng sơ giản với thầy...).
- Tôi không thích nói chính trị à
nghe!...
Tôi bị cú bất ngờ choáng váng, chưa
lường trước được thái độ của ông già ra sao đây? Vì không thích nói chính trị
phải chăng ám chỉ rằng thầy không mấy cảm tình với cách mạng mà bản thân mình
lại là kẻ theo kháng chiến trở về.
Thời may ba mươi lăm thủ pháp ứng
xử có thủ pháp "đánh gió" nghĩa là có đến bao nhiêu đòn cũngkhông
trúng quân mình. Rất may là chính quyển sách "Quốc văn Giáo khoa thư"
học từ thuở để chỏm, tái hiện đúng lúc để cứu tôi. Tôi tiếp lời thầy:
- Thưa thầy! Con là Carnot đây. Con
nhớ thầy và đến thăm thầy...
Thầy lại ngẩng nhìn tôi, vẫn chưa
mỉm cười, nhưng sắc diện không như lúc mới đến, có lẽ đang tái hiện trước mắt
thầy thằng học trò nghịch ngợm thường bị thầy cho đứng úp mặt vào vách vì tôi
hay nhìn chùm me dốt bên ngoài cửa sổ.
- Ngồi đi !
-Thưa thầy! Năm 75 về Mỹ Tho con đã
đến tìm thầy, nhưng thầy đã đổi chỗ biết tìm đâu. Sáng nay, tình cờ gặp cô Muội
cũng học lớp thầy cho biết, con lập tức đến ngay. Mừng quá!
Thầy đưa tay cho tôi ngưng lời,
nhìn ra ngõ, chỉ tay xuống bàn ra hiệu, không lâu sau anh con trai bưng vô cho
một ly cà phê sữa.
Tôi nhẹ nhõm trong lòng, khoảng
cách 45 năm như xích gần lại, tôi nhắc kỷ niệm:
- Thầy cho uống cà phê, con chợt
nhớ thầy rất thích ăn bánh sầu riêng...
- A! Anh nhớ lâu thật...
- Hồi ấy, đến mùa sầu riêng, trước
giờ ra chơi buổi chiều thầy thường gọi con "Viensici". Con liền lên
bục... để nhận tiền thầy đưa, đạp chiếc alcyon của thầy ra phố chạy một vòng ra
cầu tàu lục tỉnh cho thích, sau đó mới vào "Tiểu Hương tửu lầu" mua
về hai cái bánh sầu riêng gói giấy nhật trình còn nóng hổi. Thầy chia cho con
một cái, ra chơi con rút dưới gầm cầu thang ăn khoái chí!...
Và đến chiều, tan giờ học, thầy
giao cho mang sổ sách về nhà, thấy thầy ghi cho huit points (tám điểm) mà không
có phải trả bài gì sất.
Thầy mỉm cười.
- Thì chẳng phải anh redoublant đã
trả bài từ năm trước rồi sao? Mà này! Tôi quên hỏi anh Bảy mất trong trường hợp
nào. Tôi ở thành vẫn được nghe phong phanh (chẳng cha tôi cũng là giáo viên
đồng nghiệp).
- Cha con vào bưng dạy trường Văn
Chính không phải dạy học trò để chỏm, mà dạy cán bộ người lớn, thưa thầy dân ta
rất nhiều người không được học. Cha mất năm 70, huyết áp cao ngã trên mô đất
đào vì lúc ấy nghèo quá, cha con phải đào mương lên líp làm thuê cho người ta
lấy tiền nuôi con.
- Tôi nghiệp anh Bảy.
Sợ thầy mất vui, tôi nhắc học trò
cũ của thầy:
- Thầy nhớ thằng Huệ không, cũng
như con nó vẫn muốn được gặp thầy. Thằng Huệ Rệp ấy.
- Sao lại gọi là Rệp?
Chuyện này có khi nhà sinh vật học
không biết nhưng học trò biết. Bàn ghế nhà trường rất nhiều rệp, rệp trăm nhà
học học trò mang đến, lại được hút máu con nít bổ béo sinh sôi rất nhanh. Qua
hai tháng bãi trường, con nào con nấy đói meo - lạ là chúng không chết. Trước
khi tựu trường, thầy bắt cả lớp phải diệt rệp mới cho vào ngồi. Chúng tôi lấy
que khều chúng ra từ trong kẽ gỗ, con nào con nấy khô rang, mỏng dính như bánh
tráng, màu vàng vàng, dẹp lép, trong suốt, như những mảnh xác khô, thổi nhẹ đã
bay - tưởng đâu không còn tí tẹo sự sống - Âởy vậy mà đưa đầu ngón tay đến gần
nghe hơi người lập tức những đôi chân nhỏ xíu lại ngoe ngoe thăm dò - đưa gần
nữa, lập tức bám lấy, hút lấy hút để, no căng đỏ thẫm, xổng ra bò rất nhanh
chui xuống kẹt.
Sau lần tổng vệ sinh, bỗng dưng vài
ngày sau, hai cô nữ sinh gãi sồn sột, đem một cái lọ bên trong còn xót vài cái
xác rệp lên mách với thầy - Trò nào đã cắc cớ gom xác rệp cho vào góc tủ của
hai cô, cả đám giặc đói xông ra bu đốt hai cô bằng thích.
Thầy đưa ve chai lên hỏi ai là thủ
phạm và rất giận vì cả lớp im như thóc. Thầy bảo:
- Đáng lý tôi phạt cả lớp, nhưng
tôi để chiếc ve chai ở đây - Thầy đặt xuống trước bàn -Tôi để đây không ai được
lấy đi! Để khi nào có người nhận tội. Tôi muốn em nào đó đừng để suốt đời bị ám
ảnh rằng mình là kẻ hèn - Dám làm không dám chịu... không đáng nhân cách làm
học trò tôi!
Sau hơn một tuần, ngày nào cũng bị
hình ảnh chiếc ve chai ám ảnh, chịu đựng không thấu thằng Huệ về nhà khóc rấm
rứt, ba nó khăn đóng áo dài dắt con đến nhà thầy để cậu quý tử tạ tội.
Nghe xong thầy bảo:
- Trò Huệ? Con ông vựa cá bên bến
tắm ngựa phải không?
- Dạ đúng! Cậu ấy bây giờ nên thân
lắm, thuyền trưởng tàu biển! Giờ về hưu rồi. Nó vẫn nhắc thầy luôn.
- Năm nay anh bao nhiêu tuổi?
- Dạ thưa thầy con sáu mươi lăm,
tuổi con rắn nhưng là rắn nước, hiền lắm!
- Sao lại là rắn nước?
- Dạ hồi trước thầy dạy con phải
như vậy?
- Tôi dạy anh cái gì về rắn?
- Dạ! Con rắn cắn Jean Fréron...
- A! Tên này nhớ lâu thật - Bài đó
không có trong chương trình sơ học, phải lên cấp cao mới học. Bữa ấy tôi giận
lão thầy Mậu lớp D - Ông ấy độc miệng lắm, kích bác tôi trước các thầy, nên tôi
về lớp cho các trò chép bài ấy - và thầy ứng khẩu đọc:
L'autre jour, au fond d'un vallon
Un serpent piqua Jean Fréron
Que pensez - vous qu'il arriva
Ce fut le serpent qui creva
Tạm dịch theo văn xuôi: Ngày kia
dưới thung lũng sâu, một con rắn cắn Jean Fréron - Biết việc gì xảy đến không?
Người không chết mà chính con rắn lăn ra chết (nguyên văn là con rắn vỡ tung
ra).
Vậy đó! Trên đời miệng lưỡi con
người độc hơn miệng rắn độc. Ông Voltaire làm thơ nhiều ngụ ý...
- Mà này! Anh vẫn chưa nói cho tôi,
thoát ly mấy mươi năm, anh làm chức gì?
- Dạ con đi nuôi ong thôi! Không có
chức. Dạ! Tuổi con rắn nhưng sinh vào giờ Mùi.
- Nghĩa là sao?
- Người ta định đề bạt con lên một
cấp, con lại phạm vào giờ Mùi, nên lại bị đánh tụt xuống một cấp.
- à! Trong Cách mạng, người ta
nghiêm khắc chuyện ấy. Vậy có buồn không?
- Dạ, vui vẻ là liều thuốc sống.
- Không nản à?
- Dạ! Vấp ngã thì lồm cồm ngồi dậy
đi nữa. Không lẽ nằm mọp luôn.
- Giỏi đấy! Nhưng đi nữa bằng cách
nào?
- Biết chấp nhận thực tế - thích
ứng và hội nhập.
- Làm sao để thích ứng? Nói nghe
coi?
- Dạ! Cuộc đời nó gặm nhấm chúng
ta, nó còn chép miệng khen ngon, tội gì mình phụ họa với nó để làm mình buồn
thêm? Thân phận condition humaine - tôi ngứa miệng xùy tiếng Tây ra - mỗi người
một khác, nếu cả nghìn triệu người trên thế giới không biết tự thích nghi với
hoàn cảnh, thế giới này loạn mất.
Thứ hai để thích ứng, phải có cái
nghề để tự nuôi sống và trả nợ cơm áo cho xã hội (payer la dette sociale), thầy
đã dạy con như vậy. Con bây giờ làm nghề nuôi ong, không dám nào, tiện đây con
đem mật ong cây nhà lá vườn, tay con làm ra đến biếu gia đình, xin thầy vui
lòng.
- Cám ơn! Anh giỏi đấy! Có cho mình
một cái nghề, còn tôi đây sau khi về hưu ngoài ba cái giáo điều trên bục giảng.
Moi, je n'ai rien entre mes deux cuisses - (Tôi chẳng có gì giữa hai vế).
- Dạ thưa! Con chưa hiểu ý thầy?
Thầy nói tiếp:
- Sách vở thánh hiền đọc hàng pho -
đi đâu cũng tự hào rằng mình là bậc trí
giả, ngoài ba cái giáo điều cóc có thực tế, không năng động cũng chẳng có
sức bật, đá phòng ngự thôi chứ không dám tiến công đột phá, làm chủ gia đình thì con cái xác xơ, giao
cho làm Nhà nước thì quốc gia chỉ có mạt.
Tôi biết thầy ví von để ám chỉ thực
tế đạm bạc của mình: vợ chồng già, con đạp xích lô, ngôi nhà cũ kỹ...
Tội vội đỡ lời:
- Dạ thưa thầy không phải giáo điều
đâu ạ! Học trò của thầy hàng ngàn đứa đi kháng chiến hoặc lập nghiệp ở năm châu
bốn bể. Hiểu vậy mới là chân lý.
- Chân lý ! - Thầy nói theo kiểu
chia động từ - Ban đầu: Tôi đúng - anh đúng - nó sai. Rồi : Tôi đúng - anh sai
- nó sai. Cho đến khi: Tôi cũng sai rồi... Lúc này mới là chân lý. Có thấy sai
mới biết thế nào là đúng.
- Dạ! Đó là tự phê bình và phê
bình. Ấy chết! Con lại nói chính trị rồi...
- Không sao đâu, không nói là không
nói thứ chính trị nhăng nhăng khó nghe kia! Chứ không có chính trị để mất nước
à? Tôi đã đọc không biết bao nhiêu sách Đông Tây kim cổ rồi, tôi chưa hề thấy một triết nhân, một nhà phê
bình nào dám nói rằng: "Tôi sai lầm" - Vậy mà Việt Nam dám nói là
mình sai để chọn được đúng chiếc chìa khóa mở cửa.
Bụng tôi mừng rơn vì thầy trò tôi
đã tìm được điểm tương đồng để tâm đắc.
- Thưa thầy ba năm học, những gì
thầy gieo vào đầu óc thời non trẻ con vẫn nhập tâm. Lúc nào con làm đúng là con
thành, lúc nào con làm sai là thất bại. Tuổi đời càng chồng chất càng thấm thía
bài học của thầy về nhân cách.
Nghe hai chữ nhân cách, bất giác
thầy ngẩng lên nhìn thẳng. Bốn mươi lăm năm rồi tôi mới được thấy tái hiện
nguyên mẫu thầy Đức trên bục giảng ngày nào:
- Phải rồi! (câu tiếp theo nói
nguyên văn tiếng Pháp, rất chuẩn, bàn tay nắm lại chỉ thẳng một ngón về phía
trước):
Qui perd sa dignité, perd tout
(Mất nhân cách là mất tất cả)
Hai chữ "p" của từ mất,
thầy mím môi phát âm nghe xốc dậy cả cuộc đời.
Tôi từ giã thầy, chào cô và anh con
trai xích lô ra về sau khi hẹn gặp lại.
Lên xe, đạp một đỗi tôi nhủ thầm:
"May quá! Hôm nay mình đi thăm thầy bằng xe đạp...".
TRẦN
KIM TRẮC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét