Viet-Studies
Tác giả:
Người dịch: Lê Lam
17-2-2020
Hầu như tất cả mọi người đều ngưỡng mộ mô
hình Bắc Âu. Các nước Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và Phần Lan có năng
suất kinh tế cao, công bằng xã hội cao, niềm tin xã hội cao và mức độ
hạnh phúc cá nhân cao.
Những người cấp tiến nói vì họ có chế độ
phúc lợi hào phóng. Những người theo chủ nghĩa tự do cho rằng các quốc
gia này đạt điểm cao về gần như mọi phương diện của thị trường mở
cửa tự do. Những người hạn chế nhập cư lưu ý rằng cho đến gần đây, họ
là những xã hội thuần khiết về dân tộc.
Nhưng các quốc gia Bắc Âu thuần khiết về
dân tộc trong những năm 1800 khi họ còn nghèo khó. Tăng trưởng kinh tế
của họ đã cất cánh từ sau năm 1870, trước khi nhà nước phúc lợi của
họ được thành lập. Điều thực sự hình thành nên các quốc gia Bắc Âu là
các thế hệ chính sách giáo dục kì diệu.
Tầng lớp tinh hoa Bắc Âu thế kỷ 19 đã làm
một việc mà gần đây chúng ta chưa thể làm được ở đất nước này. Họ
nhận ra rằng để đất nước của họ trở nên thịnh vượng, họ phải tạo ra
những ngôi trường nhân dân thực sự thành công cho những người ít học
nhất trong dân chúng. Họ nhận ra rằng, phải biến việc học suốt đời
thành một nền tảng tự nhiên của xã hội.
Họ nhìn giáo dục khác với chúng ta. Họ
dùng từ tiếng Đức “Bildung” (giáo dục) để mô tả cách tiếp cận của họ,
thậm chí không có một từ tiếng Anh tương đương. Nó có nghĩa là sự biến
đổi hoàn toàn về đạo đức, cảm xúc, trí tuệ và tính công dân của con
người. Nó dựa trên ý tưởng rằng nếu mọi người có thể quản lý và đóng
góp cho một xã hội công nghiệp mới nổi, họ cần cuộc sống nội tâm phong
phú hơn.
Ngày nay, người Mỹ thường nghĩ về trường
học như một sự truyền tải các bộ kỹ năng chuyên môn – học sinh có thể
đọc, tính toán, kể về các sự kiện sinh học. “Bildung” được nghĩ ra để
thay đổi cách học sinh nhìn thế giới. Nó được tạo ra để giúp họ hiểu
các hệ thống phức tạp và thấy mối quan hệ giữa mọi thứ – giữa bản thân
và xã hội, giữa các mối quan hệ cộng đồng trong một gia đình và một thị
trấn.
Như Lene Rachel Andersen và Tom Bjorkman đã
tóm tắt trong cuốn sách “Bí mật Bắc Âu”: “Bildung là cách mà cá nhân
trưởng thành và nhận trách nhiệm lớn hơn đối với gia đình, bạn bè, đồng
bào, xã hội, nhân loại, di sản toàn cầu của chúng ta, khi tận hưởng sự
tự do cá nhân, đạo đức và quyền sống tốt hơn.”
Các nhà giáo dục Bắc Âu đã lao động miệt
mài để trau dồi ý thức kết nối với quốc gia của mỗi học sinh. Trước thế
kỷ 19, hầu hết người châu Âu tự nhận mình là người địa phương chứ không
phải quốc gia. Nhưng chương trình giảng dạy ở Bắc Âu gây dựng cho học
sinh niềm tự hào về lịch sử, văn hóa dân gian của họ.
“Người mà không nhiệt huyết trong những
ngày còn trẻ, sẽ không dễ dàng làm việc như một người đàn ông,”
Christopher Arndt Bruun viết. Ý tưởng là tạo ra trong tâm trí của học
sinh ý thức về các phạm vi mà họ thuộc về rộng hơn – từ gia đình
đến địa phương đến quốc gia – và sẵn sàng gánh vác trách nhiệm
chung.
Các nhà giáo dục Bắc Âu cũng lao động
miệt mài để phát triển nhận thức nội lực của học sinh. Nghĩa là, họ
đã giúp học sinh nhận thấy các nguồn lực luôn trào sôi bên trong
bản thân – cảm xúc, sự khao khát, nỗi đau và ham muốn. Nếu bạn có thể
nhìn thấy những nguồn lực đó và sự tương tác của chúng, như thể từ bên
ngoài, bạn có thể là chủ nhân của chúng chứ không phải là nô lệ của
chúng.
Họ nhận thấy rằng khi con người phát
triển, họ có khả năng trải qua các giai đoạn phát triển, nhìn thấy bản
thân và thế giới qua những lăng kính phức tạp hơn bao giờ hết. Một đứa
trẻ có thể mù quáng tuân theo mệnh lệnh – mẹ, bố, cô giáo. Sau đó, nó
nội tâm hóa và thích ứng với các tiêu chuẩn của tập thể. Rồi, nó
học cách tạo ra các chuẩn mực của riêng mình dựa trên các giá trị riêng
của mình. Sau đó, nó học cách xem mình là một nút thắt trong một mạng
lưới các cá nhân và do đó học được sự tương hỗ và suy nghĩ toàn diện.
Mục đích của giáo dục là giúp mọi người di chuyển qua những chuyển đổi không thoải mái giữa mỗi cách nhìn.
Sự thúc đẩy giáo dục đó dường như có ảnh
hưởng lâu dài đến văn hóa. Dù ở Stockholm hay Minneapolis, người Bắc Âu
có xu hướng nói đùa về cách tinh thần trách nhiệm luôn cắn rứt họ. Họ
có tỷ lệ tham nhũng thấp nhất thế giới. Họ có một nhận thức riêng về
mối quan hệ giữa tự do cá nhân và trách nhiệm cộng đồng.
Niềm tin xã hội cao không xuất hiện ngẫu
nhiên. Nó đạt được khi mọi người tự chịu trách nhiệm với nhau trong
các tương tác hàng ngày của cuộc sống, khi các tổ chức của xã hội hoạt
động tốt.
Ở Hoa Kỳ, niềm tin xã hội đã suy giảm trong
nhiều thập kỷ. Nếu những đứa trẻ của tầng lớp đặc quyền được đến
những ngôi trường tốt nhất, chúng sẽ không có nhiều sự tương tác xã
hội. Nếu những trường đó không thấm nhuần tình yêu quốc gia, sẽ không
có nhiều sự chia sẻ trách nhiệm chung.
Nếu anh có một hệ thống giáo dục mỏng không
giúp sinh viên thấy được tầm quan trọng của sự tương tác giữa mọi
người, thậm chí không giúp sinh viên thấy họ nhìn thấy như thế nào, anh
sẽ kết nối với một xã hội mà mọi người không thể nhìn qua lăng kính
người khác.
Khi nhìn vào mô hình giáo dục Bắc Âu,
bạn nhận ra vấn đề của chúng ta (tức người Mỹ-ND) không chỉ là
không đào tạo con người có các kỹ năng phù hợp với công việc. Mà
chúng ta còn không có một mô hình phát triển lâu dài đúng để gây
dựng một phong cách ý thức mà con người cần có để phát triển trong một
xã hội đa nguyên phức tạp.
Nguồn: New York Times
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét