Ngộ Không Phi Ngọc Hùng.
Tiếng Tàu tiếng Việt
Thủy ngưu đâu phải là trâu nước mà là con trâu cày của
ta.
Vì theo người Tàu “ngưu” là con bò, ngưu nãi là sữa bò chứ
nào phải sữa trâu? Vì bên Tàu không có trâu (sic)
(Khuyết danh).
Chuyện Ta chuyện Tàu
Sự
thực thì khởi đầu dòng Hán tộc dân không có đông lắm, họ lấy Thiểm Tây, Hà Nam,
Hà Bắc, Sơn Đông làm địa bàn, lấy lưu vực sông Hoàng Hà làm căn bản. Nhưng họ
lấy văn hóa để đồng hóa các nước mà họ coi là man di mọi rợ: Đông Di, Tây
Nhung, Bắc Địch, Nam Man.
Như
trên lá cờ cộng sản Tàu, ta thấy có 5 ngôi sao, một ngôi sao lớn là tộc Hán,
còn 4 sao nhỏ là 4 tộc người Mông (Cổ), Mãn (Thanh), Tạng (Tây Tạng), Hồi.
Chỉ
còn Việt Nam (Nam Man) chưa lên lá cờ máu đó.
(Chuyện Ta chuyện Tàu – Trần Khánh)
Chữ Việt cổ
dối em : ru em
(Phạm Xuân Độ)
Tên Nôm tên Tự
Sự hình thành tên “Chùa Bà
Đanh”
Chùa
Bà Đanh nhắc trong văn bản này tại xã Ngọc Sơn, Huyện Kim Bảng, tình Hà Nam.
Chùa do dân làng Đanh dựng nên, cách
làng chừng nửa cây số, ba mặt giáp sông Đáy, qua sông là Núi Ngọc. Chùa tên chữ
là Bảo Sơn Tự và tên nôm là Chùa Bà Đanh.
Lời kể trong Ký sự Sông
Hồng của ông Lê Văn Trịnh xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam:
“Làng
đây là làng Nghênh Xá. Do đó ở đây người ta lập chùa và thờ phụng Ngài. Đầu
tiên người ta gọi là “Chùa bà làng Đanh”.
Đây
là cái tên của địa phương, chứ không phải bà là bà “Đanh”. Sau đây người ta gọi tắt là “chùa Bà Đanh”. Chùa ở
đây tên chính là chùa Bảo Sơn Tự, chùa Bảo Sơn. Thế thì sao gọi là bà? Là vì ở
đây thờ theo hệ tứ pháp: Đức vua bà nên gọi là “Chùa Bà” Thế còn duệ hiệu
của ngài là “Pháp Phong” tức là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, Pháp
Phong.”
“Bảo Sơn Tự” là tên chữ,
được viết bằng Hán tự trên hoành phi của chùa. Tên chữ do người có vốn Hán văn,
Nho học đặt ra. Tên chữ của chùa bằng chữ viết (trên hoành phi, câu đối, bi ký)
Tuy vậy trước hoặc sau khi
có tên tự, vẫn sử dụng tên nôm – Chùa Bà Đanh. Tên nôm có thể không được chép
lại ở các văn bia, không được được vẽ vào tường, lên cổng, nhưng được nhắc tới,
trong đời sống hàng ngày. “Vắng như chùa Bà Đanh” không mấy ai là không biết.
Chùa do dân làng dựng nên,
vậy chùa lấy tên của làng. Ta có “Chùa làng Đanh”. Ba chữ này đều là ba chữ
thuần Việt (không có nguồn gốc Hán văn) nên rất dễ nhớ, hơn nữa gắn ngay với
địa danh của làng. Chùa thờ tứ pháp, mây mưa sấm chớp được hình tượng hóa vào
các nữ thần. Vì vậy tên của chùa có một sự hình thành khác chính là các bà nữ
thần. Xét thấy tên nôm “Chùa Bà làng Đanh” đã được hình thành và hoàn toàn xa
rời với tên chữ “Bảo Sơn Tự”, tiết lộ một vài điều: tên nôm có thể ra đời sớm
hơn tên chữ, được gọi rộng rãi, tồn tại từ lâu.
(David Phùng – Tên gọi Nôm một số kiến trúc tôn giáo)
Pha
Pha : xuyên qua
(xông pha - pha phôi khóm lác chùm lan)
(Tự điển tiếng Việt cổ - Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn
Thiện)
Bên hè phố sách
Sài Gòn và những trang sách cũ
Ở đây, người ta có thể tìm lại được
những quyển sách hiếm hoi xuất bản từ những năm 60s hay 70s ở Sài Gòn mang tên
những nhà xuất bản An Tiêm, Lá Bối, Khai Trí, Giao Điểm, Văn .v..v.. Chúng lẫn
ở trong hàng hàng lớp lớp sách cũ chồng lên nhau, nhưng khi hỏi chủ nhân tiệm
sách tên một quyển sách nào đó, tôi ngạc nhiên khi nhận được câu trả lời rất
quả quyết là họ có hay không có. Chứng tỏ, tuy không sắp xếp sách vở theo một
thứ tự khoa học, nhưng người bán biết và nhớ những gì họ có.
Cầm quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học của Phạm Công Thiện do nhà
An Tiêm (hay Lá Bối?) xuất bản khoảng năm 1964 hay 1965 ở Sài Gòn, gáy đã long
được dán lại bằng nhiều lớp băng keo, trang trong có nhiều chỗ bị mối mọt lỗ
chỗ, chủ nhân của nó cho tôi biết đây là quyển thứ hai ông “có” được.
Quyển thứ nhất ông đã “nhượng” lại cho
một người quen, mà quyển ấy so với quyển tôi đang cầm trên tay còn tệ hơn
nhiều: mất trang, bìa chỉ là một tờ giấy trắng với tên tác phẩm viết bằng tay.
Tôi còn hỏi ông một số tác phẩm nổi tiếng khác thời ấy, ông cho biết, phần lớn
ông đều đã có cơ hội “cầm xem lại”, và, một cách hãnh diện, ông cho biết, “hiện
nay chúng đã nằm rất trang trọng trong những tủ sách ở rải rác khắp nơi trên
toàn thế giới.”
Ở một tiệm sách cũ khác, cũng ở gần đó,
tôi nhìn thấy có vài số tạp chí Thiếu Nhi của ông Nguyễn Hùng Trương (tức ông
Khai Trí, chủ nhà sách Khai Trí) và nhà văn Nhật Tiến xuất bản từ năm 1971. Chủ
nhân cho tôi biết, họ vừa bán xong nguyên bộ tạp chí Thiếu Nhi nhiều tập, vì
thế tôi chỉ thấy vài quyển lẻ nằm đó. Họ cũng vui vẻ chỉ cho tôi qua gian hàng
sách cũ bên kia đường, nơi đó, tôi có thể tìm thấy nhiều hơn những quyển sách
cũ.
(T.Vấn)
Con cúi
Đàn bà con gái sắn quần lên
Cái gì trăng trắng như con cúi
(Chỗ lội làng Ngang – Nguyễn Khuyến)
“Cúi” hay “con cúi” là một khối lượng
bông (bông để dệt vải) hình trụ, nhỏ bằng ngón tay, dài cỡ gang tay, sẵn sàng
đem kéo thành sợi. Bông từ trái (quả) chín nở ra múi, hái về phơi khô, đến khi
kéo thành sợi phải qua việc “cán” (tách bông khỏi hột), “cung” (làm tơi bông
cho các sợi bông li ti không bết vào nhau thành nùi mà rời xa đều nhau), rồi
cuộn/cuốn thành “con cúi”, trước khi được kéo thành sợi..
(Kim Bồng)
Giai thoại
làng văn xóm chữ
Vũ qua biển
Bắc
Năm ấy, được tin sứ nhà
Thanh sắp sang nước ta, vua Lê, chúa Trịnh giao cho trạng giữ việc tiếp sứ.
Trạng Quỳnh cho dựng một ngôi quán nhỏ bên bờ sông Cái, bà Điểm ngồi bán hàng.
Còn Quỳnh giả làm lái đò, chở sứ bộ qua sông. Mấy tên trong sứ bộ Tàu qua ngôi
quán bà Điểm, nhác trông cô hàng nước xinh tươi óng ả, liền thả lời bỡn cợt.
Một tên líu lớ đọc bâng quơ:
- Nam bang nhất thốn thổ
bất tri kỷ nhân canh.
(Một tấc đất nước Nam không
biết bao nhiêu người cày. Ý nói mỉa đàn bà nước này lẳng lơ).
Bà Điểm đang nhai trầu, nhổ
toẹt một bãi nước cốt xuống đất, nói trống không:
- Bắc quốc chư đại phu,
giai do thử đồ xuất.
(Nghĩa là: Bọn quan to, ông
lớn ở nước phương Bắc đều từ chỗ ấy mà chui ra cả).
Câu đối lọt vào tai bọn sứ
bộ, chúng giật mình, câm họng. Đến lúc xuống đò... Đò ra giữa dòng sông, một
tên trong đoàn sứ bộ hổng ruột, xổ ra một tiếng "bủm".
Hắn đọc một câu chữa thẹn:
- Lôi động Nam bang.
(Sấm
động nước Nam).
Trạng Quỳnh đang chèo, liền
đứng thẳng, vạch quần đái vổng cần câu xuống nước mà nói:
- Vũ qua Bắc hải
(Mưa
qua bể Bắc)
Cả đoàn sứ bộ không thốt được một lời, trong bụng vừa tức, vừa sợ, cứ ngậm miệng cho đến lúc tới nơi.
(trích Giai thoại về Trạng Quỳnh)
Nét “tục” trong tục
ngữ phong dao
Em
như cục cứt trôi sông
Anh
như con chó chạy rông trên bờ
(“Tục
Ngữ Phong Dao” - Nguyễn văn Ngọc)
Với tôi (Hoàng Cầm) hồi ấy cách mạng
như một người khổng lồ mà tôi thì bé bỏng xa lạ quá. Cái uy thế của cách mạng
tôi không thấy rõ lắm ở những người như các anh Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Kim
Lân, Nguyên Hồng, nhưng lại thấy nổi bật hẳn lên ở anh Nguyễn Đình Thi. Ngồi
trước mặt anh, bên cái bàn giấy lộng lẫy có đủ cả máy điện thoại và hai chồng
sách dày, bìa cứng in nổi chữ vàng chữ bạc:Các Mác với vấn đề văn hoá, Tư bản luận, Chống Du-ring...tôi
hoa cả mắt và cảm thấy mình là con chim chích vào rừng...
Không khí cuộc gặp mặt bỗng trở nên nghiêm trang và lời mở đầu của anh Thi lại càng làm cho nó thêm lạnh nhạt, căng thẳng:
- Tôi đã nhận được vở kịch của anh. Cả lá đơn nữa. Anh Nguyễn Huy Tưởng và anh Nguyên Hồng đã giới thiệu Kiều Loan với tôi. Tôi cũng đã đọc qua ...
Không khí cuộc gặp mặt bỗng trở nên nghiêm trang và lời mở đầu của anh Thi lại càng làm cho nó thêm lạnh nhạt, căng thẳng:
- Tôi đã nhận được vở kịch của anh. Cả lá đơn nữa. Anh Nguyễn Huy Tưởng và anh Nguyên Hồng đã giới thiệu Kiều Loan với tôi. Tôi cũng đã đọc qua ...
Vừa nói, anh Thi vừa rút ở cái cặp da
đen bóng tập bản thảo vở kịch đánh máy của tôi. Anh trao nó cho tôi với một
nhếch mép cười mà cho đến nay tôi vẫn không sao hiểu được, nhất là câu nói ngay
sau cái cười nửa miệng ấy:
- Rằng hay thì thật là hay!
Hai tiếng cuối câu đay xuống, tôi nghe như có vẻ vừa giễu cợt vừa hững hờ. Và anh Thi cũng chỉ nói có thế. Không hơn nửa lời. Rồi anh thu dọn sổ sách, như có ý bảo tôi "Về đi!". Cũng để cho anh lính mới làng văn biết rằng mỗi giờ mỗi phút với anh Thi là vàng ngọc đấy! Tôi thấy mình như bé quá, bất cứ lúc nào nhớ đến anh, bất cứ ở đâu, lời anh nói khi đưa trả tôi kịch bản Kiều Loan vẫn cứ day dứt trong tâm trí mình: Một lời khen ư? Không chứng minh được! Một liên hệ giữa câu Kiều ấy với thời đại ta đang sống? Cũng không đến mức to tát thế.
Hoặc một ý so sánh nhân vật Kiều Loan với nhân vật Thuý Kiều!
Rằng hay thì thật là hay... Chưa đến lúc bình phẩm như vậy, vì đã nói gì với nhau đâu về cái tác phẩm kịch thơ ấy của tôi.
- Rằng hay thì thật là hay!
Hai tiếng cuối câu đay xuống, tôi nghe như có vẻ vừa giễu cợt vừa hững hờ. Và anh Thi cũng chỉ nói có thế. Không hơn nửa lời. Rồi anh thu dọn sổ sách, như có ý bảo tôi "Về đi!". Cũng để cho anh lính mới làng văn biết rằng mỗi giờ mỗi phút với anh Thi là vàng ngọc đấy! Tôi thấy mình như bé quá, bất cứ lúc nào nhớ đến anh, bất cứ ở đâu, lời anh nói khi đưa trả tôi kịch bản Kiều Loan vẫn cứ day dứt trong tâm trí mình: Một lời khen ư? Không chứng minh được! Một liên hệ giữa câu Kiều ấy với thời đại ta đang sống? Cũng không đến mức to tát thế.
Hoặc một ý so sánh nhân vật Kiều Loan với nhân vật Thuý Kiều!
Rằng hay thì thật là hay... Chưa đến lúc bình phẩm như vậy, vì đã nói gì với nhau đâu về cái tác phẩm kịch thơ ấy của tôi.
(Nguyễn Đình Thi trong tôi
– Hoàng Cầm)
Thanh Tịnh
Họ Trần,
sinh ngày 12-12-1913 ở Thừa Thiên. Học trường Đông Ba, trường Pellerin( Huế).
Có bằng thành chung. Dạy tư ở Huế.
Đã viết giúp: Phong hoá, Ngày nay, Hà nội báo, Tiểu thuyết thứ năm, Tinh hoa...
Đã xuất bản: Hận chiễn trường (1936).
Xem thơ Thanh Tịnh cái cảm giác trội nhất của tôi là thấy một cái gì cứ dàn trải, dàn trải hoài mà lại lỏng. Có lẽ là một mặt hồ, cũng chưa đúng. Hồ còn có bờ, có hình nhất định. ở đây không có bờ, và nước - âu cũng phải gọi là nước - cứ chảy tràn lan. Những cảnh sắc in hình trên mặt nước vẫn thường xuyên thay đổi: có khi là một cây liễu rủ, có khi là một luỹ tre. Nhưng sắc dầu có khác, bao giờ cũng chỉ ngần ấy nước mà thôi. Có một lần người ta bỗng thấy trên mặt nước dựng lên một lâu đài xương máu (Hận chiến trường, Mấy vần thơ máu); nhưng khi người ta tới nơi nó lại biến mất. Thì ra một ảo cảnh.
Kể chỗ này cũng trống trải. Hình như đằng xa kia có vài ngọn núi. Nhưng đây vẫn là nơi hò hẹn của những ngọn gió bốn phương. Mỗi lần gió đến mặt nước không buồn cưỡng, cứ tự nhiên lướt theo chiều gió. Có khi người ta còn thấy nó vươn mình lên ngang tầm gió, tưởng như nó muốn hoá thân làm gió. Nhưng qua lại thôi và rồi nó cũng được cái mềm mại, cái ẩn ước là bản sắc của nó.
Tháng 9 – 1941
(Thi Nhân
Việt Nam - Hoài Thanh/Hoài Chân)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Bực mình chẳng muốn nói ra
Muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào
mời
(Bùi Kim Chi – Khảo luận về
ca dao, thành ngữ)
Chùa Một Cột
Năm Kỷ Sửu 1049, chùa Một Cột được xây trên
trụ đá và trụ đá này được cắm sâu xuống lòng đất.
Chùa Một Cột 1884
Mãi đến năm 1105, tức 56 năm sau, khi trùng tu chùa Một Cột lần
thứ nhất, người ta mới đào hồ ở chung quanh và trồng sen.
Vì vậy với chuyện Lý Thái Tông nằm mơ thấy
Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen dưa tay dắt vua lên tòa, tỉnh dậy vua cho xây
chùa giữa hồ sen.
Tất cả chỉ là truyền thuyết sau này.
(Tiến trình văn hóa VN –
Nguyễn Khắc Thuần)
Báo chí
Chưa bao giờ báo chí Việt Nam bút chiến
với nhau dữ dội như ta thấy, các cuộc bút chiến này, trọng tâm có lẽ là sự cạnh
tranh nghề nghiệp, tranh dành độc giả, nhưng cũng gián tiếp đặt ra được nhiều
vấn đề, làm sáng tỏ nhiều lập trường văn nghệ, sửa chữa được nhiều lộn xộn
trong nghề viết văn.
Các báo chia thành hẳn bốn khối: khối A
của các nhà mệnh danh là cựu học với các tờ báo ra đời từ 1932 hay trước năm
1932 mà còn hoạt động cho tới năm 1934 ; khối B của nhóm Tự Lực Văn Đoàn với
Phong Hoá và Ngày Nay ; khối C của các báo ra đời từ 1934 trở đi, đối lập, phản
kháng lại Tự Lực Văn Đoàn ; khối D của nhóm mác-xít với các ông Hải Triều, Hồ
Xanh, Bùi Công Trừng…
(Phê bình văn học thế hệ 1932 – Thanh Lãng)
Vật phẩm tế thông gia
Trong
văn hóa của người Việt, cúng tế người quá cố rất được xem trọng, bởi lẽ trong
tâm thức Việt "nghĩa tử là nghĩa
tận". Trong những người đến tế còn có thông gia của người chết.
Vật
phẩm tế thông gia tại Kiên Giang có: bốn hộp bánh tây, bốn bánh in hình tròn,
bốn hộp trà, hộp đựng hai cây đèn
cầy lớn, hộp đựng ba cây nhang lớn, hộp đựng hai chai rượu trắng, một tấm bàn đưa (tấm điếu), một
phong bao tiền cúng. Tất cả các vật phẩm kể trên được để trên mâm, đặt trước
linh tọa với tất cả sự cung kính dành cho người đã khuất.
(Tế thông gia - Đỗ Kim
Trường)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Những sai lầm tai hại trong
hai quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam và Từ điển từ và ngữ Hán Việt
của Nguyễn Lân.
hùng
hồn 雄渾
Trong các quyển từ điển chữ Hán thông thường, chữ “hồn” 渾 được giải nghĩa là nước đục, là lộn xộn (đồng nghĩa với chữ “hỗn” 混 trong các từ “hỗn hợp”, “hỗn độn” ), là chứa ở bên trong, là tất cả. Có lẽ soạn giả chỉ dựa vào đó nên đã cắt nghĩa rằng, hồn nghĩa là bao quát. Thật ra, các nghĩa vừa kể chỉ là một số nghĩa thông dụng nhất hiện nay của chữ hồn, và đều là những nghĩa mở rộng chứ không phải là nghĩa gốc của nó (mà cũng là nghĩa được thể hiện trong từ “hùng hồn”). Chữ “hồn” vốn có nghĩa là nước trào dâng cuồn cuộn, rồi từ đó mà mở rộng ra thành các nghĩa kể trên. Trong từ hùng hồn 雄渾,hùng nghĩa là mạnh mẽ, chữ hồn 渾 được dùng theo đúng nghĩa gốc của nó, nghĩa là tuôn chảy. Hùng hồn là một tính từ để chỉ lời nói hoặc lời văn mạnh mẽ và trôi chảy. Tuy soạn giả đã nêu được định nghĩa gần đúng như thế cho từ hùng hồn và nghĩa đúng cho từ tố hùng nhưng ông đã bịa đặt nghĩa cho từ tố hồn, đó là một lỗi lớn.
Trong các quyển từ điển chữ Hán thông thường, chữ “hồn” 渾 được giải nghĩa là nước đục, là lộn xộn (đồng nghĩa với chữ “hỗn” 混 trong các từ “hỗn hợp”, “hỗn độn” ), là chứa ở bên trong, là tất cả. Có lẽ soạn giả chỉ dựa vào đó nên đã cắt nghĩa rằng, hồn nghĩa là bao quát. Thật ra, các nghĩa vừa kể chỉ là một số nghĩa thông dụng nhất hiện nay của chữ hồn, và đều là những nghĩa mở rộng chứ không phải là nghĩa gốc của nó (mà cũng là nghĩa được thể hiện trong từ “hùng hồn”). Chữ “hồn” vốn có nghĩa là nước trào dâng cuồn cuộn, rồi từ đó mà mở rộng ra thành các nghĩa kể trên. Trong từ hùng hồn 雄渾,hùng nghĩa là mạnh mẽ, chữ hồn 渾 được dùng theo đúng nghĩa gốc của nó, nghĩa là tuôn chảy. Hùng hồn là một tính từ để chỉ lời nói hoặc lời văn mạnh mẽ và trôi chảy. Tuy soạn giả đã nêu được định nghĩa gần đúng như thế cho từ hùng hồn và nghĩa đúng cho từ tố hùng nhưng ông đã bịa đặt nghĩa cho từ tố hồn, đó là một lỗi lớn.
(Lê Mạnh
Chiến & H.H.Phúc)
Bên hè phố sách
Sài Gòn và những trang sách cũ
Khệ nệ ôm
nguyên một chồng báo Tuổi Ngọc trên tay…
tác giả T.Vấn (áo trắng)
Tôi nói bâng quơ với chủ nhân cửa hàng
sách cũ về những đợt thu gom sách báo chế độ cũ hồi 1975 của chính quyền cộng
sản sau khi tiếp thu Sài Gòn, những buổi các cán bộ văn hóa thành phố, phường
khóm phát động thanh niên sinh viên học sinh gom sách báo lại và đốt.
30 năm, một cuộc phần thư với mưu toan
chôn vùi lịch sử trong những đống tro tàn, chôn vùi những thành tựu văn hóa của
một nửa nước Việt Nam vì sợ rằng với tính đa dạng, phóng khoáng, nhân bản và tự
do của nó, kẻ thắng trận trên mặt trận quân sự sẽ trở thành kẻ bại trận ngay
trên mảnh đất mình vừa chiếm đoạt ở một mặt trận khác. Nhưng vô ích. Những thứ
tôi đang có trên tay là một chứng minh. Chúng đã sống sót như chúng tôi đã sống
sót.
(…)
Một nhà văn miền Bắc, sau này đã thú
nhận rằng không phải đợi lâu, ngay sau khi theo chân đoàn xe tăng tiến vào
thành phố Sài Gòn, bà đã biết rằng mình và mấy chục triệu dân miền Bắc đã bị
lừa gạt từ bao nhiêu năm nay. Và cuộc đốt sách chưa từng có trong lịch sử Việt
Nam chỉ là một hành động ngu xuẩn hòng cố sức che dấu sự lừa dối của giới cầm
quyền.
Sau này, những người vượt thoát được từ
1975 đã tìm cách tái bản lại một số sách báo cũ của miền Nam trước 1975 dưới
hình thức photocopy những ấn bản mà họ mang theo được hay in ấn lại hoàn toàn
mới và phát hành khắp nơi ở hải ngoại. Công việc ấy cũng góp phần phổ biến và
gìn giữ những di sản văn hóa dân tộc. Bây giờ, với mạng lưới điện toán toàn
cầu, rất nhiều bộ sách cũ xuất bản ở miền Nam trước chính biến 1975 đã được
đánh máy lại, đưa lên các trang thư viện điện tử, hình thành nên một sự giao
lưu văn hóa khắp nơi, từ trong nước cho đến hải ngoại .
(T.Vấn)
Nét “tục” trong tục
ngữ phong dao
Gà
Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn, l. Cổ Am, c. Hành Thiện.
(“Tục
Ngữ Phong Dao” - Nguyễn văn Ngọc)
Ông Táo
Từ một truyền thuyết dân gian...
Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa có
hai vợ chồng nhà kia, chồng là Trọng Cao và vợ là Thị Nhi. Hiềm một nỗi lấy nhau
đã lâu vẫn không có con, và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những chuyện lục
đục! Một lần, trong khi lời qua tiếng lại vì một chuyện không đâu, Trọng Cao có
trót lỡ tay đánh vợ một cái! Giận chồng, Thị Nhi bỏ nhà ra đi, và trong khi lưu
lạc nơi đất khách quê người, Thị Nhi đã gặp Phạm Lang. Thông cảm hoàn cảnh của
nhau, hai người yêu thương nhau rồi thành vợ thành chồng.
... Sau khi Thị Nhi bỏ đi, Trọng
Cao rất hối hận. Trọng Cao đã đi đến rất nhiều nơi tìm, cho đến khi tiền lưng
đã cạn, phải lần hồi bằng nghề hành khất mà vẫn không thấy tăm hơi Thị Nhi đâu
cả!
Cho đến một lần, Trọng Cao vào một nhà
nọ xin ăn, không ngờ người mang cơm ra cho lại là Thị Nhi! Hai vợ chồng nhận ra
nhau mừng mừng tủi tủi, nhưng cũng thật trớ trêu, bởi danh chính ngôn thuận lúc
này Thị Nhi đã là vợ của Phạm Lang!
Trong khi còn chưa biết khu xử làm sao
cho vẹn cả đôi bề, lại sợ Phạm Lang về bắt gặp thì biết ăn nói làm sao, Thị Nhi
liền bảo Trọng Cao tạm ẩn vào trong thùng rạ. Đi đường mệt mỏi, lại được bữa
cơm no, rượu say, nên vừa đặt lưng xuống, Trọng Cao đã ngủ say như chết! Không
may đêm đó có gió to, than lửa ở bếp bén vào thùng rạ thiêu trụi cả Trọng Cao
và cái bếp! Khi nghe mọi người xung quanh hô hoán, Thị Nhi và Phạm Lang giật
mình chạy ra thì chỉ còn biết đứng... nhìn!
Nghĩ vì mình mà chồng cũ phải chết,
trong cơn đau đớn, Thị Nhi bèn nhảy vào đống lửa chết theo! Thấy thế, Phạm Lang
cũng nhảy vào để được cùng chết theo vợ..
(Từ truyền thuyết…ngày Tết ông Táo - Phùng Thành Chủng)
Chữ nghĩa
làng văn xóm chữ
Theo các nhà ngữ học thì tiếng Việt là
thứ tiếng đứng thứ 12 trên thế giới về số đông người nói là 83 triệu. Tiếng
Việt vay mượn rất nhiều từ ngữ 58 thứ
tiếng lớn nhỏ ở nam Á châu, từ tiếng Thái Lào, Khmer, Miến, Malay,
Indonesia cho đến những tiếng nói thiểu số với vài ba trăm ngàn người, tiếng
Muờng, tiếng Nùng, tiếng Hmong, tiếng Chàm. Như:
-
ta nói rộn rịp mà không
hiểu “rịp” là
gì,
“rịp” là bận việc, gốc tiếng Lào Thái.
(Nguyễn Hy
Vọng - sưu tầm & tản mạn)
Thành hoàng
Thành hoàng xuất
phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là
cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng
để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành.
Vị thần này dù có hay
không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng
là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó.
(Thần Thành hoàng - Bùi Thụy Đào Nguyên)
Ba mươi năm: vượt qua khỏang cách và dấu nối
Trần Nhuệ Tâm:
Ông
gặp một thi sĩ, văn sĩ Việt kiều lần đầu ở: phi trường quán…? Trước đó ông biết
họ qua tác phẩm nào?
Nguyễn Trọng Tạo: Hồi đầu những năm 90 thế kỷ trước tôi sống ở Huế và đã gặp ở đó khá nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại về thăm đất nước. Hầu hết những người tôi được gặp thì trước đó tôi đã được đọc, được biết tên họ trên sách báo hải ngoại hoặc trong nước. Có người tôi đã được đọc họ từ trước 1975. Những người tôi gặp thường là những tên tuổi quen thuộc. Đỗ Khiêm (Đỗ Kh) đến tư gia thăm tôi. Thuỵ Khuê và chồng con xuống ga tàu hoả Huế được tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa đi gặp nhiều văn nghệ sĩ Huế.
Tôi và HPNT cũng đã đón Khánh Trường từ sân bay Phú Bài. Du Tử Lê sau ba lần về Huế mới đến gõ cửa nhà tôi và HPNT rồi hơn 10 năm sau lại gặp nhau ở Hà Nội. Trần Vũ tìm tôi ở Huế không gặp, chục năm sau tôi lại tìm được Vũ tại Pais và đến nhà chơi. Nhiều lần hẹn nhau với anh Đặng Tiến mới găp được nhau tại nhà anh Dương Tường.
Những người ấy đều ghi dấu ấn sâu đậm trong tôi bằng tác phẩm và những hoạt động văn học của họ. Đấy là những người Việt muốn cùng với những người cùng nòi giống tôn vinh văn chương tiếng Việt dù phong cách và quan niệm khác nhau.
(Trần Nhuệ Tâm phỏng vấn Nguyễn Trọng Tạo)
Nguyễn Trọng Tạo (sinh1947) trong một gia đình nho học ở
làng Trường Khê, huyện Diễn Châu,
tỉnh Nghệ
An.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét