Quang cảnh thành phố Vũ Hán, nhìn từ lầu Hoàng Hạc (ảnh: Wikimedia Commons).
Vũ Hán là một trong những thành phố lớn của Trung Quốc nằm ở phía Nam sông Dương Tử, cách Thượng Hải khoảng 800 km về phía Tây. Đây từng là đất nhà Sở, một trong “Thất hùng” thời Chiến Quốc trước thời Tần, và là cái nôi của nền văn minh rực rỡ nước Sở.
Cái tên Giang Thành
Cũng
giống như Trùng Khánh có tên gọi khác là Sơn Thành, Thành Đô có tên Dung
Thành, Côn Minh có tên Xuân Thành, Vũ Hán còn được gọi là Giang Thành,
ngoài ra còn được gọi bằng một cái tên khác là Hỏa Lò.
Sở dĩ Vũ
Hán được gọi là Giang Thành vì nơi đây có rất nhiều con sông lớn chảy
qua, trong đó lớn nhất là Trường Giang còn gọi là sông Dương Tử và Hán
Giang còn gọi là sông Hán Thủy. Sông Dương Tử chia thành phố Vũ Hán làm
hai nửa, người dân sống bên bờ Hán Dương và Hán Khẩu được gọi là người
của phương Bắc, người dân sống bên bờ Vũ Xương lại được gọi là người
phương Nam.
Có thể
bạn sẽ thắc mắc: Sông Dương Tử chảy qua rất nhiều thành phố ở Trung
Quốc, nhưng tại sao chỉ riêng Vũ Hán được gọi là Giang Thành? Nguyên
nhân chính vì nơi đây có Hoàng Hạc Lâu, một thắng cảnh nổi tiếng ở Vũ
Hán gắn liền với sông Dương Tử và là một trong “Tứ đại danh lâu” của
Trung Hoa.
Hoàng Hạc Lâu trong một tác phẩm hội họa thời Minh (ảnh: Wikimedia Commons).
Xưa kia,
khi Lý Bạch tới Vũ Hán du ngoạn, ông đã cùng Sử lang trung uống rượu
trên lầu Hoàng Hạc, vừa uống rượu vừa thưởng thức âm nhạc. Trong lúc vui
vẻ, thi tiên Lý Bạch đã cao hứng xuất khẩu thành thơ. Bài thơ có tiêu
đề: “Dữ sử lang trung khâm thính hoàng hạc lâu thượng xuy địch” (cùng
quan Lang trung họ Sử uống rượu nghe sáo trên lầu Hoàng Hạc), nội dung
như sau:
Trường Sa đất biếm làm thân khách
Ngoảnh lại Trường An chẳng thấy nhà
Hoàng Hạc lầu cao nghe sáo ngọc
Thành Giang nghe khúc “Lạc mai hoa”.
Ngoảnh lại Trường An chẳng thấy nhà
Hoàng Hạc lầu cao nghe sáo ngọc
Thành Giang nghe khúc “Lạc mai hoa”.
Nguyên văn:
“Nhất Vi thiên khách khứ Trường Sa
Tây vọng Trường An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang Thành ngũ nguyệt Lạc mai hoa”.
Tây vọng Trường An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang Thành ngũ nguyệt Lạc mai hoa”.
Người Vũ
Hán rất thích cái tên Giang Thành nên tự gọi mình là người Giang Thành.
Ngoài tên gọi này, Vũ Hán còn có một tên khác, nguồn gốc của nó phản
ánh lịch sử phát triển và văn hóa nơi đây.
Khí hậu
và thời tiết ở Vũ Hán mang nét đặc trưng rõ nét nhất của khí hậu Trung
Hoa: Mùa đông lạnh giá, mùa hè đổ lửa, hai mùa xuân thu mát mẻ lại qua
nhanh. Sống ở nơi này, tuy con người có thể tận hưởng khí hậu phong phú
của bốn mùa trong năm, nhưng khắc phục được cái khắc nghiệt của hai mùa
hè và đông cũng hết sức khó khăn.
Mặc dù
vậy, khi ngắm nhìn dòng Trường Giang sóng cuộn và Đông Hồ lãng đãng khói
sương, chúng ta mới nhận ra rằng tạo hóa đã ban cho Giang Thành một ân
sủng. Vào buổi chiều tà, đứng trên cầu Trường Giang nhìn sắc hồng bên
sông, dạo qua công viên ven bờ sẽ thấy Vũ Hán vẫn là nơi thật xinh đẹp,
dễ thương, chất phác, hiền hòa.
Nguồn gốc tam trấn của Vũ Hán
Vũ Hán
do ba thị trấn là Vũ Xương, Hán Dương, và Hán Khẩu hợp thành, được phân
chia thành khu văn hóa, kinh tế, chính trị. Lịch sử, quy mô, và tốc độ
phát triển của mỗi trấn lại có nét đặc sắc khác nhau. Tên gọi Vũ Xương
bắt đầu cuối thời Đông Hán, đầu Tam Quốc. Để chiếm được Kinh Châu, năm
221 Tôn Quyền quyết định rời đô từ Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh) tới
huyện Ngạc và đổi tên là Vũ Xương với ý nghĩa “Dĩ vũ trì quốc nhi xương”
nghĩa là: lấy trị quốc làm đất nước hưng thịnh. Vì vậy tên gọi Vũ Xương
và nay là thành phố Ngạc Châu đổi tên gọi cho nhau. Từ các cuộc khai
quật khảo cổ học, những địa danh như “Thủy quả hồ”, “Phóng Ưng đài”,
“Cầu Nam hồ lão nhân”… đều là nơi người cổ đại sinh sống.
Ngành
thủ công mỹ nghệ Vũ Xương thời xưa rất phát triển, chủ yếu là đóng tàu,
luyện kim và đúc tiền. Đồ gốm Vũ Xương được gọi là đồ gốm Cảnh Thanh.
Ngoài ra, một sự việc đáng đề cập nhất ở Vũ Xương là sự phá hủy và xây
mới lại nhiều lần của Hoàng Hạc Lâu. Cuối thời Ðông Hán thế kỷ thứ 3,
vua nhà Ðông Hán nhu nhược bị các lộng thần chèn ép. Tào Tháo lấy danh
nghĩa phò nhà Hán mà chiếm giữ phía Bắc, sau lập thành nhà Ngụy, Lưu Bị
xưng là tôn thất nhà Hán mà lập ra nhà Thục, chiếm giữ miền Tây Nam, Tôn
Quyền lui về Giang Ðông lập ra nhà Ngô, sau xưng đế và lấy hiệu Ngô
Hoàng Vũ.
Thế Tam
Quốc phân chia từ đó, thành Kinh Châu thuộc về Ðông Ngô nhưng Lưu Bị đã
khéo chiếm trước và nói là “mượn” tạm để có đất dung thân, sau này lại
giao cho Quan Vũ. Vì khinh thường quân địch nên Quan Vũ thiệt mạng và để
mất Kinh Châu về tay Ðông Ngô. Năm 223, Tôn Quyền ra lệnh xây thành
Giang Hạ (Hạ Khẩu) bên ngã ba sông Trường Giang và Hán Thủy để đóng
quân. Trong cái thế Tam Quốc thời đó, Hạ Khẩu là một thành trì chiến
lược rất quan trọng vì cả ba nước Ngụy – Thục – Ngô đều cho rằng phe nào
chiếm được Hạ Khẩu thì đó là bên thắng cuộc.
Để theo
dõi tình hình, Tôn Quyền cho xây tháp quan sát trên ngọn đồi nhỏ cạnh
sông Trường Giang, phía tây nam của thành Giang Hạ. Ðứng trên tháp,
người ta có thể quan sát được thuyền bè di chuyển trên sông Hán Thủy và
phía Tây của Trường Giang. Tháp quan sát này được đặt tên là Hoàng Hạc
Lâu. Nơi đây đã trải qua hơn mười lần xây dựng kể từ thời Tam Quốc, mỗi
lần tái thiết lại thể hiện một phong cách riêng, phản ánh phong cách
kiến trúc và đặc điểm của các thời đại khác nhau.
Trải qua
bao thăng trầm, Hoàng Hạc Lâu đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều
lần. Triều đại nào của Trung Hoa cũng cho xây lại Hoàng Hạc Lâu, không
biết có phải vì bài thơ của Thôi Hiệu hay không? Nhưng rõ ràng là ở
Giang Hạ, cuộc sống của người dân đất Sở xưa kia không thể thiếu được
Hoàng Hạc Lâu, có lẽ bởi không ai muốn để Hạc vàng bay đi mất…
Nguồn
gốc của Hán Dương và Hán Thủy có liên quan mật thiết với nhau. Người xưa
có câu: “Thủy bắc vi dương, sơn nam vi dương”. Thời cổ đại, vùng đất ở
phía bắc Hán Thủy và phía nam Quy Sơn là nơi có được nhiều ánh sáng mặt
trời nhất nên cổ nhân gọi là Hán Dương.
Vào năm
606 sau Công nguyên, năm thứ hai niên hiệu Đại Nghiệp thời Tùy Dạng Đế,
huyện Hàm Tân được đổi thành Hàm Dương. Thời nhà Đường, sau khi chính
quyền quận chuyển đến thành phố Hán Dương, nơi đây mới nhanh chóng phát
triển hưng thịnh.
Ở Hán
Dương, khu vực bãi Anh Vũ Châu từng là nơi tập trung tàu buôn ở sông
Dương Tử trong các triều đại Đường, Tống, Nguyên. Đây cũng là điểm thu
hút rất đông khách du lịch. Chùa Quy Nguyên ở Hán Dương là một trong
những thánh địa Phật giáo được bảo tồn nguyên vẹn nhất ở Vũ Hán.
Những
công trình kiến trúc ở Vũ Xương và Hán Dương được xây dựng trong cùng
thời kỳ đều có lịch sử khoảng 1800 năm. Trong lịch sử, Hán Khẩu và Hán
Dương có khoảng thời gian phát triển đồng bộ tương đối dài. Đến năm
Thành Hóa thứ 10 thời nhà Minh (năm 1474 sau Công nguyên), sông Hán Thủy
đã thay đổi dòng chảy 8 lần, từ đó dòng chảy từ Quy Sơn Bắc Lộc nhập
vào Dương Tử giang. Hán Dương và Hán Khẩu có rất nhiều kiến trúc tường,
thành, từng là quận, huyện trong các thời kỳ lịch sử.
Sau đó,
Hán Khẩu nhanh chóng trở thành cảng thương mại với danh tiếng và tốc độ
phát triển vượt xa so với Vũ Xương và Hán Dương. Vào cuối triều đại nhà
Minh cho đến đầu thời nhà Thanh, Hán Khẩu cùng trấn Chu Sơn của Hà Nam,
trấn Phật Sơn của Quảng Đông, và trấn Cảnh Đức ở Giang Tây trở thành bốn
trấn nổi tiếng của Trung Quốc, được mệnh danh là “Chicago phương Đông”.
Ngành thương mại và vận tải ở hải cảng của Hán Khẩu khá phát triển, trở
thành cảng khẩu hưng thịnh số một Trung Quốc.
Vào năm
1905 cuối triều Thanh, thống đốc Trương Chi Động của Hồ Quảng cho xây
dựng đê Trương Công ở Hán Khẩu. Con đê làm hạ thấp mức nước của sông
ngòi ở khu vực xung quanh, dần dần tạo thành vùng đất liền. Nó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc mở rộng vùng đất Hán Khẩu nhỏ hẹp ban đầu và
được coi là dấu tích không thể mờ nhạt trong lịch sử phát triển của Vũ
Hán.
Đầu năm
1927, chính quyền đã sáp nhập Vũ Xương và Hán Khẩu làm thủ đô và đặt tên
là Vũ Hán. Như vậy, thành phố Vũ Hán hiện đại là sự kết hợp của Vũ
Xương, Hán Khẩu và Hán Dương.
Vì sao có cái tên “Hỏa Lò”?
Thời
tiết Vũ Hán vào mùa hè mang lại cho người ta cảm giác vô cùng khó chịu.
Nguyên vì Vũ Hán có nhiều sông ngòi, diện tích mặt nước lớn, làm lượng
hơi nước bốc hơi lớn và độ ẩm trong không khí tăng lên khi mặt trời
chiếu sáng vào ban ngày. Từng đợt khí nóng bao bọc giống như chiếc khẩu
trang lớn bao trùm thành phố, một mặt làm giảm tốc độ bức xạ của nhiệt
lượng lên không trung, từ đó làm giảm nhiệt độ không khí trong phòng,
mặt khác làm bề mặt cơ thể không dễ tản nhiệt, giống như đang ở trong
phòng tắm hơi, mồ hôi toát ra nhiều, oi bức khó chịu như đang trong “lò
lửa” nên mới có tên gọi này.
Kiên Định
Theo Secretchina
Theo Secretchina
Xem Thêm :Về Bài Thơ HOÀNG HẠC LÂU
Hoàng Hạc Lâu và những Lâu Đài Liên Quan - Đỗ Chiêu Đức **
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét