Ngay cái ngày đầu tiên đó cô đã mang một chuẩn mực mới đến với gia
đình họ, tạm gọi là “phải ở dưới quê…”. Ngó mấy con cá rô nằm cạnh rổ
cải bắp, cô thẩn thờ, trời ơi, phải ở dưới quê, mình nấu cá rô với bông
so đũa, ngọt nước dữ lắm. Bông so
đũa mùa này trổ trắng trên mấy bờ kinh, mật ơi là mật. Hàng xóm cãi
nhau, cô ngó qua rào, “phải ở dưới quê thể nào cũng có người chạy tới
can, người ngoài nói tiếng ngọt tiếng lạt, cũng đỡ căng lắm…”. Sau mỗi
bữa ăn, cô tần ngần, “phải ở dưới quê, đồ ăn dư
như vầy là nuôi được mấy con heo…”.
Cả nhà chủ vừa buồn cười, vừa khó chịu. Họ đã sống một cuộc sống
được xem là hiện đại, đầy đủ, họ hài lòng với những gì mình có. Nhưng cô
giúp việc tỏ ra không mấy hài lòng, suốt ngày đi so sánh, mà so sánh
với nếp quê mới kỳ cục. Phải ở dưới
quê, ra vườn chút xíu là kiếm được rổ rau rồi, đâu phải mua chi cho
uổng tiền. Phải ở dưới quê, mùa này gió chướng thả cửa, ở trong cái nhà
hả họng đón gió sông, mặc sức mà… run, mở máy lạnh làm chi, ngộp quá
chừng. Phải ở dưới quê, chặt cây chuối ra ao tập
lội, khỏi mắc công đi hồ bơi. Phải ở dưới quê…
Mỗi ngày qua, cô lại đưa ra một vài kiểu so sánh mới, chi tiết và
tinh tế đến mức cô đặt cả bụi và cỏ lên bàn cân. Cỏ ở thị thành cũng vô
duyên, phải ở quê, cỏ phơi khô, đem đốt, lấy tro trồng đậu, trồng dưa.
Chủ nhà quen dần, thấy mến cái cách
nói thẳng thừng, gọn lỏn, ngỏn ngoẻn, tỉnh bơ như thể cái xóm nhỏ heo
hút kia mới chính là thiên đường. Và cô, dù đã xa mảnh thiên đường đó mà
lòng còn cắm sào ở bến sông, níu mãi bụi ô rô, đọt nhãn lồng, hàng lơn
nước xanh rêu, con gà mái quýnh quáng gọi
đàn con đến bên ổ mối. Cô đi chậm, cô hòa nhập chậm, bởi bước chân cô
kéo theo hàng hàng ký ức, lớp lớp nỗi nhớ. Dễ gì…
Mỗi người có một chuẩn mực của riêng mình để vịn vào, đối chiếu, so
sánh. Chủ nhà từng nghĩ cuộc sống hiện đại, sung túc là thiên đường.
Nhưng bây giờ thì họ hoang mang, thế giới mơ ước của họ có nguy cơ đổ vỡ
trước cô giúp việc ương bướng,
bởi cô không nghĩ vậy, gì chớ, quê cô là nhất. Cô là người không dễ bị
thuyết phục, kể cả lúc buộc phải đồng tình, ừ cái bếp này không khói,
khỏi bị chảy nước mắt, nhưng không khói thì không thơm mùi củi ướt, mùi
những con mối nhỏ, trứng kiến bị cháy vàng,
mùi khoai lang vùi trong than. Mỗi khi cô “nhưng” nhà chủ thót tim, vì
thấy mình thua là cái chắc. Nhiều lúc nằm nhìn cái máy điều hòa thấy mặc
cảm dễ sợ, mặc cảm với những ngọn gió phóng khoáng thổi nước chảy tràn
lên những bờ sông quê cô. Và việc có nhiều
tiền cũng đôi khi làm nhà chủ bẽn lẽn, họ không bao giờ mua được cái
chốn nhớ cho mình, với khói đốt đồng, bông khế rụng, mấy con ong bầu vo
ve đục kèo nhà làm tổ.
Sáu tháng, cô chỉ có cái lý duy nhất “phải ở dưới quê…” mà xiêu lạc
cả nhà chủ. Họ bắt đầu cảm thấy cái nơi mà họ chưa từng đặt chân đến
mới là thiên đường. Bữa cô về quê dự đám giỗ, họ nôn nao như chính mình
trở về, đám trẻ con dậy sớm, lăng
xăng dặn, chị Hai về nhớ đi câu thác lác, bứt bông súng, hái chùm ruột
đem lên cho tụi em ăn nghen. Người lớn rảo qua rảo lại, ngó cô giúp việc
nháo nhác bên cái giỏ, chỉ mấy hộp bánh tây, trà lài mà cô nhét vào, xổ
ra, rồi lại nhét vào, mắc tức. Chút nữa
thôi, chuyến tàu trưa sẽ đưa cô về lại thiên đường riêng mình. Nhà chủ
ngó cái lưng cô giúp việc khuất dần và nghĩ thầm, mình đã từng có thiên
đường, nhưng nó đã không còn nữa.
Cô trở lại nhà chủ cũng một bữa mưa rào. Dường như mưa cuối mùa.
Lui cui rửa đôi dép, cô cằn nhằn, “rầu quá, dưới quê bước ra là gặp sình
lầy, dơ muốn chết, phải ở thành phố…”.
Chủ nhà hơi khựng lại, ngỡ ngàng. Cô vẫn hồn nhiên, “đám giỗ làm
bánh lủ khủ, phải ở thành phố, chạy ra chợ mua cho gọn…”. Lòng cô đã
không còn buộc dây nơi bến cũ, thiên đường của cô cũng tan biến mất rồi.
Rốt cuộc không có thiên đường nào
hết. Chuyện bình thường thôi, cô đã được nếp sống thành thị nuông
chiều, nhận ra một chuẩn mực mới. Biết vậy, nhưng nhà chủ vẫn buồn, vì
lòng họ đã neo vào một cô giúp việc quê mùa, hồn nhiên, chân chất của
mưa xưa.
Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét