BÁO CÁO THỜI SỰ – Geopolitical Monitor, ngày 13 tháng 3 năm 2022
Tác giả: Csaba Barnabas Horvath
Người dịch: Daniel Trần (Diển Đàn Khai Phóng )
Trung Quốc được nhiều người coi là đồng minh quan trọng nhất của Nga trong cuộc xâm lược Ukraine. Tuy nhiên, sau gần hai tuần giao tranh, những tình tiết khó hiểu đã lên đến đỉnh điểm xung quanh thái độ của Trung Quốc đối với cuộc chiến. Về cả nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ và Đại hội đồng LHQ, Trung Quốc đã bỏ phiếu trắng chứ không bỏ phiếu ủng hộ Nga. Về các lệnh trừng phạt đối với Nga, cho đến nay, Trung Quốc không tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ và hai ngân hàng lớn của Trung Quốc là Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng Công thương Trung Quốc thậm chí đã từ chối giúp Nga xử lý các giao dịch xuất khẩu. Thay vì ủng hộ Nga, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã kêu gọi giảm leo thang xung đột. Trung Quốc dường như đang rút lại sự ủng hộ từ Nga, ở mọi lĩnh vực từ ngoại giao đến kinh tế.
Tuy nhiên, mặt khác, những tuyên bố của Trung Quốc ngay trước cuộc chiến dường như cho thấy sự ủng hộ hoàn toàn của Bắc Kinh đối với Moscow, và việc Nga chờ đợi kết thúc Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh dường như xác nhận tin đồn rằng ông Tập đã yêu cầu Putin làm như vậy. Về phía mình, Trung Quốc hoàn toàn nhận thức được những gì sắp tới và quyết định ủng hộ nó trong sự hiểu biết đầy đủ. Do đó: Hoàn toàn ủng hộ cho cuộc xâm lược trước khi nó bắt đầu, nhưng sau đó lùi dần lại khi cuộc xâm lược đang diễn ra – Chuyện gì đang xảy ra ở đây? Có phải Trung Quốc đã thay đổi ý định do một số sự cố bất ngờ xuất hiện?
Điều gì xảy ra nếu không đúng như vậy? Nhưng đó thực sự là một chiến lược nhất quán khi khuyến khích Nga tấn công, nhưng rút lại lại hỗ trợ sau khi chiến tranh đã bắt đầu? Biết rõ lịch sử quan hệ Trung-Nga, ta thấy rằng một chiến thắng của Nga dường như không nằm trong lợi ích của Trung Quốc. Điều mà Trung Quốc quan tâm là một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài, làm cạn kiệt tài nguyên của Nga càng nhiều càng tốt, làm suy yếu nước này càng nhiều càng tốt, đồng thời cô lập nước này với phương Tây càng nhiều càng tốt, và với sự thất bại cuối cùng của Nga.
Lược sử quan hệ Trung-Nga
Trong suốt gần hết lịch sử quan hệ Trung-Nga, Nga là kẻ thù chứ không phải đồng minh của Trung Quốc. Mục tiêu của Nga không phải là trở thành đối tác nhỏ trong liên minh Trung-Nga, mà là trở thành một cường quốc theo đúng nghĩa của nó. Nga có một bản sắc cường quốc của riêng, có nghĩa là nước này theo đuổi kế hoạch cường quốc của riêng mình, và như lịch sử đã cho chúng ta thấy, bất cứ khi nào kế hoạch đó vượt qua lợi ích của Trung Quốc, Moscow hiếm khi do dự khi đối đầu với Bắc Kinh và, khi càng mạnh, Nga càng sẵn sàng đối đầu trực tiếp.
Nga đã xâm chiếm khoảng một triệu dặm vuông từ Trung Quốc trong các hiệp ước của Aigun và Bắc Kinh năm 1858-1860 – một khu vực được gọi là “Ngoại Mãn Châu”, ngoại vi phía bắc của Mãn Châu cho đến thời điểm đó – và lãnh thổ cho đến nay được gọi là khu vực Nga Viễn Đông, với Vladivostok và Khabarovsk được thành lập ở đó bởi thực dân Nga. Sử học Trung Quốc vẫn coi những hiệp ước này là “những hiệp ước bất bình đẳng”, sự sỉ nhục của phương Tây đối với Trung Quốc, và do đó, ngay cả khi đã hợp pháp về mặt pháp lý, chúng ít nhất cũng là bất hợp pháp về mặt đạo đức.
Mông Cổ cũng như nước cộng hòa tự trị Tuva của Nga là một phần của Trung Quốc cho đến khi Đế chế nhà Thanh sụp đổ vào năm 1911. Nga trước hết hỗ trợ để họ giành độc lập trên thực tế vào những năm 1910, với Mông Cổ đóng vai trò là quốc gia đệm chiến lược chống lại Trung Quốc. Sau đó, những người Bolshevik mở rộng sự cai trị của cộng sản sang cả Mông Cổ và Tuva. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đạt được sự công nhận nền độc lập của Mông Cổ bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Nga cũng chính thức sát nhập trực tiếp Tuva.
Hợp tác Trung-Xô sau chiến thắng của cộng sản ở Trung Quốc năm 1949 chỉ kéo dài một thập kỷ, và sau khi sự chia rẽ Trung-Xô xảy ra vào cuối những năm 1950, hai cường quốc thậm chí đã tiến hành một cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi vào năm 1969 dọc theo những đoạn biên giới mà Nga có được trong các hiệp ước bất bình đẳng 1858-1860.
Quan hệ giữa hai nước chỉ ấm lên sau khi Liên Xô sụp đổ, với việc Nga vừa trở nên yếu ớt để tìm kiếm tình hữu nghị, vừa bị Trung Quốc xem là vô hại. Sự hình thành của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải dường như cho thấy sự khởi đầu của một liên minh Trung-Nga, tuy nhiên đề xuất của Trung Quốc về một khu vực mậu dịch tự do SCO đã bị Nga từ chối, cho thấy những lo ngại của Moscow ở phương Đông: Với dân số chỉ bằng 1/10 của Trung Quốc, và nền kinh tế của Nga chỉ bằng một phần nhỏ so với nền kinh tế thứ hai của thế giới, điều duy nhất còn lại để Nga có thể nắm quyền cùng với Trung Quốc, giống như cách Canada xuất hiện cùng với Mỹ, là yếu tố quân sự.
Rồi thêm vào đó, Ấn Độ và Pakistan với sự đối kháng lẫn nhau của họ đối với SCO đã làm lu mờ tổ chức này đến mức trở thành vô nghĩa về mặt chiến lược và biến nó thành một thứ giống như phiên bản châu Á của OSCE. Nga coi Kazakhstan là phạm vi ảnh hưởng của riêng mình, trong khi Trung Quốc, bằng cách kết nối các đường ống dẫn dầu và đầu tư vào ngành năng lượng Kazakhstan, quan tâm đến việc tăng cường độc lập của Kazakhstan ra khỏi Nga và biến nước này trở thành nhà cung cấp năng lượng chính cho Trung Quốc. Tóm lại, hợp tác Trung-Nga trong những năm gần đây chỉ đơn thuần là tìm ra điểm chung chống lại Mỹ, thay vì hai bên coi nhau là đồng minh thực sự đáng tin cậy.
Một chiến thắng hay thất bại của Nga sẽ xuất hiện trong bức tranh này như thế nào? Chiến thắng của Nga chắc chắn sẽ không có lợi cho Trung Quốc. Bằng cách nâng dân số của Liên minh Á-Âu, phạm vi ảnh hưởng của Nga rộng lớn hơn, từ 185 triệu lên 226 triệu người thông qua việc sáp nhập Ukraine, và nâng cao vị thế chiến lược của Nga đối với NATO và EU bằng cách loại bỏ một lãnh thổ đệm với 41 triệu dân, Nga sẽ trở thành mạnh hơn đáng kể so với trước chiến tranh, và về mặt địa chính trị, một sự thay đổi như vậy sẽ giống như một kiểu tái lập Liên bang Xô viết. Đáng kể hơn, điều này có nghĩa là ít sẵn sàng hợp tác với Trung Quốc hơn, sẵn sàng theo đuổi kế hoạch cường quốc của chính mình hơn, theo đuổi nó ở mức độ mà nó thậm chí có thể gây tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc và để đạt vị thế cường quốc thứ ba ngang hàng Trung Quốc và Mỹ hơn là đồng minh với Trung quốc.
Sự thua trận của Nga sẽ như thế nào
Tuy nhiên, một thất bại của Nga, điều dường như vẫn có thể xảy ra, đặc biệt là nếu nó diễn ra vào cuối một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài, làm suy yếu đáng kể nước Nga và đồng thời cô lập nước này khỏi phương Tây, điều sẽ đặt Nga vào tình thế khó có lựa chọn nào khác ngoài việc trở thành một đối tác đàn em trong liên minh Trung-Nga, nếu không muốn nói là một vệ tinh của Trung Quốc. Sức mạnh quân sự của Nga, thứ mà cho đến nay vẫn được coi là ngang bằng với Trung Quốc, không chỉ thể hiện qua cuộc chiến này là ít đáng sợ hơn so với hình dung của thế giới, mà còn bị tổn thất nặng nề và sẽ tiếp tục chịu tổn thất nặng nề hơn nữa khi chiến tranh vẫn tiếp tục. Ví dụ, theo rò rỉ năm 2020 của trang web Lenta của Nga, Nga có gần 3.000 xe tăng hoạt động; Thế mà, theo các nguồn tin Ukraine, hơn 300 chiếc trong số đó đã bị phá hủy, nghĩa là hơn 10% tổng số xe tăng của Nga, chỉ trong vòng hai tuần. Mặt khác, Oryx, một blog quân sự độc lập ước tính rằng, Nga mất 181 xe tăng tính đến sáng ngày 10/3/2022. Con số này, mặc dù thấp hơn, vẫn cho thấy tỷ lệ đáng báo động là trung bình 12 xe tăng bị mất mỗi ngày và thậm chí với tỷ lệ này, Nga sẽ mất 10% số xe tăng của mình vào ngày 20 tháng 3.
Nga được cho là đã tập hợp 60% kho vũ khí bộ binh quy ước của mình ở biên giới Ukraine và tỷ lệ này chỉ thay đổi theo hướng tăng lên. Nếu những nỗ lực quan trọng tiếp tục với những tổn thất lớn như vậy, quân đội Nga cuối cùng sẽ chỉ còn lại cái vỏ cũ của mình, chưa kể đến những thiệt hại gây ra cho nền kinh tế Nga bởi các lệnh trừng phạt. Một nước Nga suy yếu như vậy, bị cô lập khỏi phương Tây, sẽ chỉ có ít lựa chọn ngoài việc liên minh với Trung Quốc trên bất cứ điều khoản nào mà Trung Quốc muốn. Điều này sẽ cung cấp cho Trung Quốc một đồng minh chiến lược sẵn sàng cam kết và ngoan ngoãn, cũng như khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Siberia.
Mối nguy hiểm lớn duy nhất đối với Trung Quốc trong trường hợp Nga thất bại là khả năng Nga chuyển đổi thành một chế độ thân phương Tây. Khi thời gian trôi qua mà nỗ lực chiến tranh của Nga ở Ukraine không có bước tiến đáng kể nào thì ngày càng có nhiều ý kiến đặt ra về khả năng xảy ra một cuộc đảo chính chống lại Vladimir Putin. Và trong trường hợp cuộc chiến sẽ kết thúc trong một thất bại rõ ràng và không thể phủ nhận đối với Nga, tất cả những hy sinh mà Nga phải gánh chịu cho cuộc chiến sẽ được chứng minh là vô nghĩa.
Tuy nhiên, có một số yếu tố cần được xem xét ở đây:
Thứ nhất, trong trường hợp Nga thất bại, sự thay đổi chế độ chỉ là một khả năng có thể xảy ra hoặc không, trong khi trường hợp Nga chiến thắng, thì sự tái lập một đế chế tương tự Liên Xô sẽ là điều chắc chắn. Do đó, trường hợp sau sẽ là một điều xấu xa chắc chắn đối với Trung Quốc, trong khi trường hợp Nga thua, kết cục tồi tệ chỉ là một khả năng đối với Trung Quốc. Vladimir Putin rất có thể tiếp tục nắm quyền, và trong trường hợp đó, một nước Nga suy yếu sẽ bị cô lập triệt để với phương Tây, do đó hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào liên minh với Trung Quốc.
Thứ hai, ngay cả khi một sự thay đổi chế độ xảy ra cũng không chắc chắn rằng, liệu đó có phải là một sự thay đổi giới tinh hoa hay không. Cách dễ xảy ra là lớp thứ hai của ban lãnh đạo Putin chỉ đơn giản loại bỏ Putin, đổ lỗi trách nhiệm cũng của chính họ trong cuộc chiến cho ông ta; tuy nhiên, họ và đảng Nước Nga Thống Nhất vẫn tiếp tục cầm quyền.
Thứ ba, nếu việc thay đổi chế độ không chỉ là công việc nội bộ đảng, mà là loại bỏ đảng Nước Nga Thống nhất và bộ phận lãnh đạo, thì ngay cả sau đó, như trong suốt các cuộc bầu cử trong thập kỷ qua đã chỉ ra, hai đảng đối lập mạnh nhất của Nga không phải là các đảng thân phương Tây mà là đảng cực hữu của Vladimir Zhirinovsky và đảng Cộng sản. Vì vậy, ngay cả khi đảng Nước Nga Thống nhất sụp đổ, rất có thể sẽ là Zhirinovsky cực hữu, hoặc đảng Cộng sản, hoặc một liên minh của cả hai sẽ cai trị đất nước, chứ không phải một chính phủ thân phương Tây nào đó.
Thứ tư, ngay cả khi một số nhóm thân phương Tây nắm được quyền kiểm soát, với sự ủng hộ mạnh mẽ của không chỉ đảng Nước Nga thống nhất mà còn đảng của Zhirinovsky và đảng Cộng sản, sự ủng hộ của người dân đối với chủ nghĩa dân tộc Nga chống phương Tây dường như vẫn còn mạnh mẽ, rằng bất kỳ nỗ lực kiểm soát từ nhóm thân phương Tây nào cũng có thể dẫn đến tình trạng hỗn loạn kéo dài hoặc thậm chí là một cuộc nội chiến. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy, đây sẽ là điều mà Trung Quốc có thể nắm ưu thế.
Nói về khả năng Nga suy yếu do hậu quả của chiến tranh thì một sự thay đổi như vậy chắc chắn sẽ xảy ra khi chiến tranh kết thúc bằng một cuộc chiến thắng hoàn toàn của Nga. Hơn nữa, Nga có thể sẽ không chỉ suy yếu mà còn suy yếu đến mức độ nước này rất có thể sẽ không bao giờ đạt được vị thế ngang với các cường quốc trên thế giới một lần nữa như tình trạng trước chiến tranh. Nguồn lực kinh tế và nhân khẩu học của Nga trên thực tế quá yếu, nhưng điều đáng ngạc nhiên không phải là sự yếu kém của quân đội nước này thể hiện ở Ukraine, mà là cách nước này điều hành để có thể duy trì sức mạnh như vậy rất lâu sau khi Liên Xô sụp đổ.
Về quy mô dân số, Nga chỉ đứng thứ 9 trên bảng xếp hạng toàn cầu, sau các quốc gia như Bangladesh, Nigeria và Pakistan. Về nền kinh tế, được đo bằng GDP trên con số thực [ND: nominal, khác với PPP], Nga chỉ đứng thứ 11, sau các quốc gia như Canada, Ý và Hàn Quốc. Hơn nữa, vì nền kinh tế Nga bị chi phối bởi xuất khẩu dầu thô, khí đốt tự nhiên, nguyên liệu thô và lúa mì, Nga còn kém cỏi hơn rất nhiều so với các nền kinh tế của các nước đã kể. Với vị trí yếu kém về nhân khẩu học và kinh tế, vị thế cường quốc của Nga chỉ được duy trì do những khả năng quân sự mà nước này được thừa hưởng từ thời Liên Xô và vị thế quốc tế suy yếu sau chiến tranh chỉ có nghĩa là nước này sẽ được xếp vào hạng mà kinh tế và tỉ trọng nhân khẩu học của nó dù sao cũng đã được xác định trước.
Hơn nữa, chỉ riêng sự yếu kém tương đối của quân đội mà thế giới đang chứng kiến hiện nay đã khiến vị thế quốc tế của Nga bị suy yếu. Trước đó, thực sự là thế giới tưởng rằng quân đội Nga hùng mạnh hơn dẫn đến một vị thế quốc tế mạnh mẽ hơn so với những gì vừa thấy. Do đó, bên cạnh khả năng quân sự thực tế mà Nga được thừa hưởng từ Liên Xô, niềm tin chung về sức mạnh là cao hơn những gì vừa xảy ra – đó là sức mạnh mà nước này sẽ không bao giờ lấy lại được. Do đó, trong trường hợp thất bại, một nước Nga suy yếu bị cô lập khỏi phương Tây sẽ thấy mình ở một vị trí không còn lựa chọn nào khác ngoài việc liên kết với Trung Quốc, trở thành như đối tác đàn em trong một liên minh, không chỉ trong một thời gian ngắn cho đến khi nước này hồi phục từ chiến tranh, mà rất lâu, trong nhiều thập kỷ tới.
Yếu tố Siberia
Yếu tố địa chính trị quan trọng trong quan hệ Trung-Nga trên hết là Siberia. Thái độ của Trung Quốc đối với Siberia từ lâu đã trở thành chủ đề tranh cãi. Siberia, một khu vực rộng lớn, dân cư thưa thớt, giàu tài nguyên thiên nhiên nằm ngay cạnh Trung Quốc với nền kinh tế khổng lồ, đói tài nguyên rõ ràng cần được chú ý. Tiếp cận an toàn với các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Siberia có nghĩa là một đảm bảo thuận lợi nhất cho an ninh của nền kinh tế Trung Quốc, ngược lại nền kinh tế sẽ bị bóp nghẹt dưới sự thống trị thù nghịch [từ phía Siberia].
Dù tuyên bố hay không, việc đạt được quyền tiếp cận an toàn với các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Siberia là lợi ích địa chính trị cốt lõi trên thực tế đối với Trung Quốc. Về mặt lý thuyết, Trung Quốc có thể đạt được điều này bằng hai cách. Một trong những cách tốt đẹp và minh bạch là thông qua một số hình thức liên minh với Nga. Cách khác, một cách xấu hơn, là dùng vũ lực để chiếm lấy Siberia hoặc vùng phụ cận.
Trong trường hợp liên minh với Nga, Nga càng yếu càng tốt cho Trung Quốc, vì một nước Nga mạnh mẽ, có tư tưởng độc lập có thể sử dụng sự phụ thuộc của Trung Quốc vào các nguồn tài nguyên ở Siberia để chống lại họ, trong khi một nước Nga yếu kém thì ít có khả năng làm như vậy. Về phương án xấu, Siberia dễ bị Trung Quốc tấn công chiến lược ở một tầm cỡ lớn về nhiều mặt. Đông Siberia, phía đông của con sông Yenisei với diện tích khổng lồ hơn 10 triệu km vuông, bao phủ khoảng 60% lãnh thổ của Nga, nhưng đồng thời, chỉ có khoảng 10% dân số Nga, 14 triệu người thực sự sống ở đó, trong khi Mãn Châu và Nội-Mông, các khu vực lân cận phía bắc của Trung Quốc có tổng dân số không dưới 123 triệu người.
Trên thực tế, dân số 14 triệu người của Đông Siberia lại ít hơn diện tích đô thị của mỗi thành phố trong số ba thành phố hàng đầu của Trung Quốc – Bắc Kinh, Thượng Hải, hoặc Trùng Khánh – và gần bằng dân số của Quảng Châu hoặc Thiên Tân và 14 triệu cũng ít hơn dân số của Đài Loan. Hơn nữa, các khu vực rộng lớn ở Đông Siberia là các chủ thể liên bang tự trị của các nhóm dân tộc bản địa châu Á của Nga, nơi sự cai trị của chính quyền trung ương Nga thỉnh thoảng lại gặp phải một số kháng cự trong nhiều thế kỷ qua. Tuy nhiên, mặt khác, vì Nga là một cường quốc hạt nhân, một nỗ lực như vậy có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân, điều mà Trung Quốc chắc chắn sẽ không dám mạo hiểm.
Tuy nhiên, trong trường hợp khó xảy ra nhưng không hoàn toàn bất khả thi đã được thảo luận ở trên, nếu một thất bại rõ ràng và không thể phủ nhận ở Ukraine gây ra một cuộc đảo chính hoặc một số hình thức thay đổi chế độ khác ở Nga không diễn ra nhanh chóng và suôn sẻ và kết thúc là bất ổn nội bộ kéo dài hoặc thậm chí nội chiến, thì một tình huống như vậy có thể là thời điểm “bây giờ hoặc không bao giờ” để Trung Quốc tiến quân vào Siberia, có thể với lý do gìn giữ hòa bình hoặc một cái gì đó tương tự. Tuy thế, đây vẫn là một kịch bản có khả năng xảy ra rất thấp vì sự kết hợp đặc biệt của các sự kiện, yếu tố và ý định sẽ diễn ra để nó xảy ra, vì vậy kịch bản thực tế hơn mà Trung Quốc có thể làm, và có thể đã và đang mong muốn, chỉ đơn giản là kịch bản mà cục diện chiến tranh suy yếu, đồng thời cô lập Nga khỏi phương Tây ở mức độ mà nước này không có lựa chọn nào khác ngoài việc liên kết với Trung Quốc và chấp nhận một vai trò nước nhỏ trong liên minh. Mặc dù ngay cả trong trường hợp này, do lỗ hổng chiến lược của Đông Siberia, khả năng tiềm tàng của một phương án xấu có thể dễ dàng được Trung Quốc sử dụng để gây áp lực tâm lý cho Nga bất cứ khi nào nước này cân nhắc rời bỏ liên minh.
Chúng ta không biết liệu Trung Quốc có quay trở lại ủng hộ Nga vì những lý do nêu trên hay không. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng nếu Trung Quốc muốn Nga giành chiến thắng, họ cần phải áp dụng một cách tiếp cận khác với cách mà họ đang theo đuổi ngay bây giờ, và giới lãnh đạo Bắc Kinh chắc chắn nhận thức được điều này. Trung Quốc có thể lo ngại về các biện pháp trừng phạt của phương Tây trong trường hợp họ hỗ trợ Nga, tuy nhiên vì Bắc Kinh dường như không ngại tham gia vào cuộc chiến thương mại với Mỹ và Australia trước đó, những lo ngại này sẽ không thể ngăn cản họ giúp đỡ Nga nếu họ thấy Nga chiến thắng là một điều gì đó quan trọng đối với khát vọng toàn cầu của mình.
Do đó, lời giải thích đơn giản nhất là Trung Quốc không muốn Nga chiến thắng bởi vì một nước Nga chiến thắng có thể sẽ trở nên quá quyết đoán để hành động, trong khi một nước Nga bại trận, suy yếu, cô lập sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc trở thành một đồng minh chiến lược ngoan ngoãn của Trung Quốc, cho phép họ tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Siberia trong quá trình này. Với thực tế là Trung Quốc dường như đã biết về kế hoạch của Nga xâm lược Ukraine ngay từ đầu và khuyến khích Nga làm như vậy, sau đó chỉ quay ngược sự ủng hộ một khi cuộc chiến bắt đầu, điều này cho thấy rằng Trung Quốc có thể đã đánh cược về một thất bại của Nga.
Các quan điểm được trình bày trong bài viết này là của riêng các tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Geopoliticalmonitor.com
./.
Nguồn: https://www.geopoliticalmonitor.com/was-china-betting-on-russian-defeat-all-along/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét