Nếu Albert Einstein là “Nhân vật của thế kỷ 20” như tạp chí TIME bầu chọn thì Kurt Gödel
ắt phải là “Nhà tư tưởng độc đáo nhất thế kỷ”, bởi vì một thiên tài
như Einstein mà đã từng phải thú nhận rằng “đi bộ về nhà cùng với Kurt
Gödel là một đặc ân”. Tiểu luận này sẽ thảo luận vai trò của Gödel quan trọng như thế nào trong việc tìm kiếm chân lý khoa học…
Hình trên: “Einstein/Gödel, Khi hai thiên tài tái tạo thế giới”, sách của Palle Yourgrau
Năm 1933, với những khám phá khoa
học vĩ đại để lại ở phía sau, Albert Einstein đặt chân đến Mỹ. Ông sống
25 năm cuối đời ở Princeton, New Jersey, nơi ông được xem như một ngôi
sao của Viện nghiên cứu cao cấp (Institute for Advanced Study). Hàng
ngày ông đi bộ từ ngôi nhà 115 phố Mercer đến văn phòng làm việc.
Một thập kỷ sau, người ta thấy ông
đi bộ với một bạn đồng nghiệp trẻ. Sáng sáng họ cùng đi đến Viện, nói
chuyện với nhau bằng tiếng Đức, rồi chiều chiều lại cùng nhau đi bộ về
nhà. Dân địa phương ít người biết người bạn trẻ này là ai, nhưng
Einstein thì coi đó là một người ngang hàng với mình, một người giống
như ông, đã tạo nên một cuộc cách mạng về nhận thức trong thế kỷ 20.
Người bạn trẻ đó là Kurt Gödel. Nếu Einstein, với thuyết tương đối, làm
đảo lộn những khái niệm hàng ngày của chúng ta về thế giới vật lý, thì
Gödel cũng gây nên những cuộc đảo lộn tương tự trong nhận thức của chúng
ta về bản chất của toán học và bản chất của chính nhận thức nói chung..
Trong khi Einstein thích giao du và
tràn ngập tiếng cười thì Gödel trang nghiêm, cô độc và ít nói. Nếu
Einstein là một nghệ sĩ violin nghiệp dư đam mê, yêu Beethoven và Mozart
thì sở thích của Gödel rất “ngây thơ” ─ ông ưa thích
cuốn phim của Walt Disney: “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”. Nếu
Einstein có một đời tư khá phức tạp, tinh thần hướng ngoại, tích cực,
vui vẻ, thì Gödel hướng nội nhiều hơn và tin vào thế giới tâm linh.
Mặc dù những thành viên khác trong viện nghiên cứu cảm thấy khó gần Gödel, nhưng Einstein nói với mọi người rằng ông đến viện “chỉ cốt để có đặc ân được đi bộ về nhà cùng với Kurt Gödel”.
Lý do một phần có lẽ vì Gödel không những không e sợ cái uy của
Einstein mà còn không ngần ngại thách thức những ý tưởng của Einstein.
Một thành viên khác trong Viện nghiên cứu là nhà vật lý Freeman Dyson
cho biết: “Gödel là người duy nhất trong các đồng nghiệp của chúng tôi
đi bộ cùng với Einstein và nói chuyện ngang hàng với Einstein”.
Nhưng nếu Einstein và Gödel dường
như tồn tại trên một tầng cao của bầu khí quyển khoa học đương thời thì
chính Einstein lại cho rằng cả hai cũng đều đã trở thành “những đồ cổ
trong viện bảo tàng khoa học”. Thật vậy, Einstein không bao giờ chấp
nhận lý thuyết lượng tử của của Niels Bohr và Werner Heisenberg, còn
Gödel thì tin rằng những đối tượng trừu tượng của toán học cũng hiện
thực như cái bàn, cái ghế ─ một quan điểm mà các nhà
triết học xem như là ngây thơ đáng buồn cười. Cả Gödel lẫn Einstein đều
cho rằng thế giới tồn tại độc lập với tư duy của chúng ta, nhưng nó được
tổ chức một cách hợp lý và hé mở ra để con người có thể nhận thức được.
Cùng chia sẻ với nhau những cảm giác cô đơn về nhận thức, hai người tìm
thấy sự gắn kết với nhau về tư tưởng. Một thành viên khác trong viện
nhận xét: “Họ không muốn nói chuyện với ai khác nữa. Họ chỉ muốn nói
chuyện với nhau mà thôi”.
Và thiên hạ băn khoăn không biết họ nói gì với nhau…
Đó là những ý kiến tóm lược phần mở đầu
bài báo “TIME BANDITS, What were Einstein and Gödel talking about?”
(NHỮNG NGƯỜI VƯỢT THỜI GIAN, Einstein và Gödel nói chuyện gì với nhau?)
của Jim Holt trên tạp chí The New Yorker ngày 28/02/2005.
Làm thế nào mà Einstein, một trong những
bộ não nhạy cảm và sâu sắc nhất mọi thời đại, lại mến chuộng người bạn
trẻ kém mình tới 27 tuổi như Gödel một cách nồng nhiệt đến thế? Câu hỏi
này buộc chúng ta tìm hiểu kỹ về Gödel.
TUỔI TRẺ CỦA GÖDEL
Gödel sinh ngày 28/04/1906 tại Brünn,
thuộc Áo-Hung (nay là Brno, Cộng hòa Tiệp), cha là Rudolf Gödel, điều
hành một xưởng dệt, và mẹ là Marianne Gödel. Trong suốt cuộc đời, Gödel
luôn thân thiết với mẹ; thường xuyên trao đổi thư từ với mẹ về đủ mọi
chuyện. Cha là người Công giáo, mẹ theo Tin lành, anh em Gödel được giáo
dục theo tinh thần của đạo Tin lành. Dòng họ Gödel có truyền thống hoạt
động văn hóa ở địa phương, ông nội của Gödel là Joseph Gödel từng là
một ca sĩ nổi tiếng trong vùng.
Năm 1918, Đế quốc Áo-Hung tan vỡ, Gödel
18 tuổi, tự động trở thành một công dân Tiệp Khắc. Năm 1929, Gödel 23
tuổi, trở thành một công dân Áo. Năm 1938, Đức thôn tính Áo, Gödel 32
tuổi, lại tự động trở thành một công dân Đức. Năm 1948, Gödel 42 tuổi,
trở thành một công dân Mỹ. Với Định lý Bất toàn có ảnh hưởng bao trùm
lên tất cả mọi địa hạt của nhận thức, ông xứng đáng được coi là một công
dân của thế giới.
Lúc nhỏ, cậu bé Gödel được cha mẹ gọi là
“Herr Warum” (Mr. Why / Ông Tại sao) vì có quá nhiều câu hỏi thắc mắc,
tò mò. Nếu khả năng đặt câu hỏi được coi là một đặc trưng của tính người
thì Gödel là một con người người nhất (the most human human).
Từ 1912 đến 1916, Gödel học tiểu học ở Brünn. Từ 1916 đến 1924, Gödel học trung học, đạt thành tích xuất sắc trong tất cả các môn, đặc biệt là toán học, ngôn ngữ và thần học.
Mặc dù lúc đầu Gödel nổi bật trong các môn về ngôn ngữ, nhưng sau này
cậu quan tâm nhiều đến lịch sử và toán học. Ngay từ tuổi học trò, Gödel
đã nghiền ngẫm các tác phẩm kinh điển bậc thầy của Goethe và Immanuel
Kant.
Năm 18 tuổi, Gödel nhập học Đại học
Vienna. Khi ấy, ông đã nắm vững toán học ở trình độ đại học. Mặc dù theo
ngành vật lý lý thuyết, nhưng ông vẫn dự nghe các bài giảng toán học và
triết học. Trong thời gian đó ông tiếp thu tư tưởng toán học hiện thực.
Ông đọc tác phẩm “Nền tảng siêu hình của Khoa học tự nhiên”
(Metaphysische Anfangsgründe der Naturwissenschaft) của Kant, tham gia
Nhóm Vienna với những nhân vật tên tuổi đương thời như Moritz Schlick,
Hans Hahn, và Rudolf Carnap. Sau đó Gödel nghiên cứu lý thuyết số, nhưng
khi ông tham gia vào một hội thảo chuyên đề do Moritz Schlick lãnh đạo,
nghiên cứu cuốn “Introduction to Mathematical Philosophy” (Nhập đề
Triết học Toán học) của Bertrand Russell, Gödel bị lôi cuốn vào logic
toán học. Theo Gödel, logic toán là “một khoa học đi trước tất cả mọi
khoa học khác, chứa đựng những tư tưởng và nguyên lý nền tảng của mọi
khoa học”.
Việc tham dự bài giảng của David Hilbert ở Bologna về tính đầy đủ và phi mâu thuẫn của toán học (the completeness and consistency of mathematics) có lẽ đã trở thành một sự kiện quyết định định hướng cuộc đời của Gödel.
Thật vậy, năm 1928, Hilbert và Wilhelm Ackermann công bố cuốn
“Grundzüge der theoretischen Logik” (Nguyên lý của Logic Toán học),
trong đó một bài toán về tính đầy đủ của toán học được đặt ra: Các tiên đề của một hệ logic hình thức có đủ để khẳng định mọi mệnh đề của hệ logic đó là đúng hoặc sai không? Nói cách khác, các tiên đề của một hệ logic hình thức có đủ để quyết định tính đúng/sai của mọi mệnh đề trong hệ đó không?
Gödel đã chọn bài toán đó làm đề tài cho
luận án tiến sĩ của ông. Năm 1929, Gödel hoàn thành luận án và năm 1930
ông nhận bằng tiến sĩ. Nội dung của luận án này được gọi là Định lý
Gödel về tính đầy đủ (Gödel’ Completeness Theorem). Nhưng đó chỉ là màn
dạo đầu cho một cuộc cách mạng đã thai nghén trong đầu chàng thanh niên
24 tuổi mà sau này Einstein coi là một bạn tri kỷ vong niên.
CUỘC CÁCH MẠNG THỨ BA VỀ NHẬN THỨC TRONG THẾ KỶ 20
Ngay sau luận án tiến sĩ, năm 1931,
Gödel công bố luận văn mang tên: “Về những mệnh đề không quyết định
được một cách hình thức trong tác phẩm Nguyên lý Toán học và những hệ
liên quan” (Über formal unentscheidbare Sätze der “Principia
Mathematica” und verwandter Systeme), trong đó ông chứng minh một cách
toán học không thể chối cãi được rằng đối với bất kỳ hệ tiên đề nào đủ mạnh để mô tả số học của các số tự nhiên, những kết luận sau đây luôn luôn đúng:
1/ Nếu hệ tiên đề là phi mâu thuẫn thì nó sẽ không đầy đủ
2/ Tính phi mâu thuẫn của hệ tiên đề của một hệ thống không thể chứng minh được bên trong hệ thống đó.
Đó là nội dung cơ bản của Định lý Bât toàn (Theorem of Incompleteness). Tính bất toàn lộ rõ ở chỗ tồn tại những mệnh đề không thể quyết định được (undecidabale) ─ không thể chứng minh và cũng không thể bác bỏ. Nói cách khác, trong toán học tồn tại những sự thật không thể biết (unknowable).
Đó là một cái tát vào tuyên bố đầy ngạo
mạn và tự phụ của David Hilbert, rằng “Chúng ta phải biết; chúng ta sẽ
biết!” (Wir müssen wissen. Wir werden wissen).
Không phải ngẫu nhiên Hilbert tuyên bố
như thế. Đó là một phản ứng quyết liệt, chống lại một tuyên bố của Emil
du Bois-Reymond, một nhà sinh lý học người Đức, trong cuốn “Über die
Grenzen des Naturerkennens” (Về những giới hạn hiểu biết của chúng ta về
tự nhiên), xuất bản năm 1872. Trong cuốn này Emil du Bois-Reymond nêu
lên 7 thách đố đối với khoa học, và kết luận rằng vĩnh viễn những thách
đố đó sẽ nằm ngoài tầm với của tư duy lý trí, và do đó tồn tại những sự
thật “ignoramus et ignorabimus” (Chúng ta không biết và sẽ không biết). Hilbert đã đáp trả bằng tuyên bố đầy tức tối và quả quyết nói trên.
Nhưng Gödel chứng minh Hilbert sai ─ quả thật tồn tại những sự thật không thể biết!
Đó là một đòn trời giáng vào chủ nghĩa
duy khoa học (scientism), tạo nên một cuộc cách mạng chưa từng có trong
nhận thức toán học, cho thấy hóa ra toán học cũng bất toàn, giống như
mọi hệ thống nhận thức khác, thay vì một hệ logic chắc chắn tuyệt đối
như David Hilbert và phần lớn nhân loại từ xưa tới nay lầm tưởng!
Nó lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa
Hilbert (Hilbertism), tức chủ nghĩa toán học hình thức (Formalism), một
chủ nghĩa sai lầm trong nhận thức bản chất của toán học, nhưng đã thống
trị và làm mưa làm gió trong thế giới toán học ít nhất từ đầu thế kỷ 20
cho tới năm 1931. Thực tế nó thống trị mãi cho tới những năm cuối của
thập kỷ 1970, khi thế giới toán học chưa thấm nhuần Định lý Gödel.
Nói một cách đơn giản và dễ hiểu, Định
lý Bất toàn của Gödel dạy chúng ta rằng không có một hệ logic nào là
hoàn hảo để có thể cho phép chúng ta giải thích được mọi sự thật. Chính
Gödel đã tuyên bố điều này rất rõ ràng: “To explain everything is
impossible!” (Giải thích mọi điều là bất khả!).
Thuyết phục hơn bất kỳ lý luận nào khác,
Định lý Gödel chỉ ra rằng không có một phép mầu nào giúp chúng ta giải
thích được nguyên nhân đầu tiên và hệ quả cuối cùng của một hệ thống
nhận thức logic. Sự nhận biết nguyên nhân đầu tiên và hệ quả cuối cùng
nằm ngoài logic, nằm ngoài khoa học. Con người chỉ có thể cảm nhận thế
giới bên ngoài khoa học bằng trực giác ─ ánh sáng dẫn đường mà Bà Mẹ Tự
Nhiên ban tặng cho chúng ta, như Einstein đã nhiều lần nhấn mạnh. Không
có trực giác hoặc trực giác kém, con người sẽ mãi mãi sống trong tăm
tối. Khi đó, lý luận và khoa học không những vô ích, mà thậm chí còn có
hại, vì nó dẫn chúng ta đi nhầm đường mà chúng ta không biết ─ thói tự
phụ luôn bịt mắt chúng ta trước sự thật. Chủ nghĩa toán học hình thức và
thuyết tiến hóa Darwin là những dẫn chứng điển hình cho sự tối tăm này.
Chủ nghĩa toán học hình đã chết, thuyết tiến hóa Darwin đang ốm nặng,
và chắc chắn sẽ chết.
Ngày nay nhìn lại thế kỷ 20, có thể thấy đây là thế kỷ của hàng loạt cuộc cách mạng về nhận thức:
Cuộc cách mạng năm 1905-1915 về tương đối tính, khởi xướng bởi Albert Einstein
Cuộc cách mạng năm 1921 về tính bất định lượng tử và tính bổ sung, bởi Bohr-Heisenberg
Cuộc cách mạng năm 1931về tính bất toàn của mọi hệ logic, bởi Kurt Gödel
Cuộc cách mạng năm 1953 về DNA và thông tin di truyền, bởi Crick và Watson
Cuộc cách mạng những năm 1960-1970 về tính hỗn độn, bởi Poincaré-Lorenz
Cuộc cách mạng về lý thuyết và công nghệ thông tin, bởi Alan Turing và rất nhiều người khác…
Điều đặc biệt đáng chú ý là hầu hết các
cuộc cách mạng nói trên đều nhắm tới các đối tượng vật chất, chỉ có duy
nhất một cuộc cách mạng xảy ra trong phạm vi thuần túy phi vật chất, đó
là cuộc cách mạng do Gödel tạo ra.
Gödel không nói với chúng ta rằng thế
giới như thế nào, mà nói nhận thức của chúng ta như thế nào! Nếu Blaise
Pascal nói điều này bằng triết học thì Gödel nói bằng logic toán học.
Khoa học computer là lĩnh vực cho thấy
Định lý Bất toàn có ý nghĩa rõ rệt. Đó là Sự cố Dừng (The Halting
Problem), do Alan Turing khám phá từ năm 1936. Nếu bạn hiểu Định lý Bất
toàn, bạn sẽ biết rằng không tồn tại một chương trình nào là hoàn hảo,
là tối ưu về mọi mặt ( the best), chỉ có một chương trình tốt hơn (the
better) so với một chương trình khác mà thôi.
Nếu bạn hiểu Định lý Bất toàn, bạn sẽ có
một vũ trụ quan đúng đắn hơn. Chẳng hạn, bạn sẽ dễ dàng thấy tính chất
phi logic của thuyết tiến hóa. Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra sai lầm của
học thuyết này cũng như bất kỳ lý thuyết nào có tham vọng giải thích
nguyên nhân đầu tiên và chỉ ra kết quả cuối cùng.
Nhà toán học lỗi lạc John von Neuman,
một trong những cha đẻ của computer, vốn là một cộng sự đắc lực của
Hilbert, đã lập tức từ bỏ các bài giảng về Chương trình Hilbert để thay
thế bằng bài giảng về Định lý Gödel ngay sau khi ông nhận được công
trình của Gödel. Neuman tuyên bố:
“Thành tựu của Kurt Gödel trong logic
hiện đại vô cùng độc đáo và kỳ vĩ ─ thực ra nó còn lớn hơn một công
trình kỳ vĩ, nó là một bước ngoặt có thể nhận thấy rất xa trong không
gian và thời gian… Khoa học logic chắc chắn đã hoàn toàn thay đổi bản
chất và các khả năng của nó nhờ thành tựu của Gödel” (Kurt Gödel’s
achievement in modern logic is singular and monumental – indeed it is
more than a monument, it is a landmark which will remain visible far in
space and time. … The subject of logic has certainly completely changed
its nature and possibilities with Gödel’s achievement.)
Trong bài báo “Kurt Gödel: What Is
Truth? The Strange Story of the Man Who Walked with Einstein” (Kurt
Gödel: Chân lý là gì? Câu chuyện kỳ lạ của người tản bộ với Einstein)
trên trang mạng OSTA (Office of Science and Technology Austria,
Washington DC) ngày 10/06/2006, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của
Gödel, giáo sư toán học Jonathan David Farley tại Đại học Stanford viết:
“Khoa học thế kỷ 20 bị chấn động bởi ba
cơn sóng thần: Một, công thức E = mc2 của Albert Einstein giải thích
nguyên lý bom nguyên tử và lý do mặt trời tỏa sáng; Hai, khám phá của
Francis Crick, James Watson, và Rosalind Franklin cho thấy toàn bộ sự
sống đều bắt nguồn từ chuỗi xoắn kép; Ba, khám phá của nhà toán học trẻ
người Áo, rằng chúng ta không bao giờ có thể biết chắc chắn 1 không bằng
0… Nhà toán học đó là Kurt Gödel… Khi trao tặng Gödel bằng tiến sĩ danh
dự, Đại học Princeton tuyên bố: “Công trình mang tính cách mạng của
ông… đã làm rung chuyển nền tảng nhận thức của chúng ta… và về tư duy
của con người”.
Stephen Hawking, một trong những nhà vật
lý xuất sắc nhất hậu Einstein, một người vô thần và tự phụ nổi tiếng,
đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Định lý Gödel đến nỗi ông hoàn toàn thay
đổi lập trường về tương lai của vật lý. Nếu trước đây, trong cuốn “Lược
sử Thời gian” (The Brief History of Time), ông thể hiện một niềm hy vọng
tràn trề vào sự kết thúc tất yếu của vật lý dưới dạng một lý thuyết
trường thống nhất (theory of unified field), hay còn gọi là lý thuyết
cuối cùng (The Last Theory), hoặc lý thuyết về mọi thứ (Theory of
Everything), thì nay ông tuyên bố công khai trong bài báo “Gödel and The
End of Physics” (Gödel và sự kết thúc của vật lý) rằng khó có thể có
một lý thuyết như thế, đơn giản vì toán học là ngôn ngữ của vật lý, nếu
toán học bất toàn thì vật lý cũng bất toàn. Thay vì cò một lý thuyết
thống nhất, vật lý có thể sẽ có nhiều lý thuyết khác nhau, bổ sung cho
nhau. Mỗi lỹ thuyết chỉ mô tả được một phần hiện thực.
Cuộc cách mạng trong nhận thức của
Hawking đáng được xem như một tầm gương về nhận thức khoa học. Mặc dù
tin tưởng vào sức mạnh của khoa học hơn ai hết, nhưng Hawking thấm nhuần
Định lý Gödel đến mức nhìn thấy mặt hạn chế và khiếm khuyết của khoa
học. Bất kỳ nhà khoa học nào cũng nên suy ngẫm về hiện tương Hawking, để
đổi mới và làm tươi tắn trẻ trung bộ não của chính mình.
Xem ra các nhà tiến hóa không hiểu gì về
Gödel, vì thế họ cứ luẩn quẩn mãi trong vòng tối tăm. Chính Gödel cũng
từng biểu lộ những quan điểm hoặc thái độ phê phán và bác bỏ thuyết tiến
hóa Darwin. Đó là một điều ngạc nhiên vô cùng thú vị mà tất cả những ai
yêu khoa học nên biết.
GÖDEL và THUYẾT TIẾN HÓA
Trong cuốn sách nổi tiếng nhất hiện nay về Gödel và Định lý Bất toàn, nhan đề “Incompleteness: The Proof and Paradox of Kurt Gödel” (Tính Bất toàn: Chứng minh và Nghịch lý của Kurt Gödel), Rebbeca Goldstein viết:
Khi được giới thiệu với Gödel trong
một nhóm nhỏ cùng ăn chiều tại Viện nghiên cứu (Princeton), John Bhacall
lúc ấy mới là một nhà vật lý thiên văn trẻ có nhiều hứa hẹn. Sau khi
John tự giới thiệu mình là một nhà vật lý, Gödel trả lời cộc lốc: “Tôi
không tin vào khoa học tự nhiên”.
Nhà triết học Thomas Nagel cũng nhớ
lại một lần được ngồi cạnh Gödel trong một cuộc tụ họp ăn chiều tại Viện
nghiên cứu và nhóm nhỏ này đang thảo luận với Gödel về vấn đề linh hồn
và thể xác, một đề tài triết học cũ rích mà cả hai (Nagel và Gödel) đều
cố gắng bẻ gẫy lý luận của đối phương. Nagel chỉ ra cho Gödel thấy rằng
quan điểm cực kỳ nhị nguyên của Gödel dường như khó mà dung hòa được với
thuyết tiến hóa (theo quan điểm nhị nguyên thì linh hồn và thể xác là
hai dạng thức tồn tại hoàn toàn tách biệt, liên kết với nhau vào lúc con
người sinh ra đời để hợp nhất thành một thực thể thống nhất để rồi lại
tách ra vào lúc chết). Đáp lại, Gödel tự nhận mình là người không tin
vào thuyết tiến hóa và ông kết thúc ý kiến của mình bằng cách nêu lên
một nhận xét, như thể khẳng định vững chắc thêm cho sự phủ nhận của ông
đối với học thuyết Darwin: “Bạn có biết Stalin cũng không tin vào thuyết
tiến hóa không, ông ta là một người rất thông mình đấy”…..
Nhà ngôn ngữ học Noam Chomsky cũng
kể rằng ông ta có lần bị nhà logic (Gödel) đột ngột ngắt câu chuyện về
ngôn ngữ học. Chomsky hỏi Gödel hiện đang nghiên cứu vấn đề gì, và nhận
được một câu trả lời mà có lẽ chưa ai trả lời như thế kể từ Leibniz
trong thế kỷ 17: “Tôi đang cố gắng chứng minh rằng các định luật tự
nhiên là một tiên nghiệm”.
Những ý kiến nói trên sẽ được bình luận ở
phần cuối bài viết này. Bây giờ chúng ta hãy tiếp tục tìm hiểu xem nhà
toán học vĩ đại Kurt Gödel nghĩ gì về thuyết tiến hóa. Những ai còn mơ
hồ không hiểu tại sao toán học lại phủ nhận thuyết tiến hóa thì hãy cố
gắng đọc và hiểu bài báo sau đây:
“Unanswered Mathematical and Computational Challenges facing Neo-Darwinism as a Theory of Origins”
(Những thách thức chưa được trả lời về toán học và tính toán đối mặt
với Học thuyết Tân-Darwin, một lý thuyết về nguồn gốc sự sống).
Đó là một bài báo khoa học đồ sộ, sử
dụng toán học để đánh giá khả năng hiện thực của học thuyết Tân Darwin
về vấn đề sự sống hình thành ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Kết luận
của bài báo cho thấy khả năng này là phi hiện thực ─ sự sống không thể
hình thành tự phát bằng sự kết hợp ngẫu nhiên của vật chất không sống.
Trong khi đọc bài báo này, nếu các nhà
tiến hóa gặp khó khăn về toán học, xin hãy nổ lực học hỏi để hiểu bằng
được, nếu không sẽ không đủ kiến thức để nói về tiến hóa. Điều vô cùng
lý thú là trong bài báo này, Gödel được nhắc đến như một tư tưởng gợi mở
về nhận thức triết học đối với tính bất khả thi của thuyết tiến hóa ─
một lý thuyết thuần túy dựa trên những cơ chế vật chất quá đơn giản.
Đây, bài báo viết:
Gödel cũng từng biểu lộ mối băn
khoăn về những cơ sở toán học của thuyết tiến hóa. Viết cho một đồng
nghiệp là Hao Wang, ông nhấn mạnh: “Sự hình thành của một thể xác con
người thông qua thời gian địa chất nhờ các định luật vật lý (hoặc bất kỳ
định luật nào khác có bản chất tương tự), khởi đầu từ một sự phân bổ
ngẫu nhiên các hạt cơ bản và trường, cũng chẳng có gì hứa hẹn chắc chắn
giống như sự tách rời khí quyển với các thành phần của nó một cách ngẫu
nhiên”.
Câu nói hơi dài dòng phức tạp nói trên
của Gödel có thể trình bày lại một cách dễ hiểu như sau: chẳng có gì
chắc chắn để tin rằng sự sống hình thành một cách ngẫu nhiên từ sự kết
hợp của các hạt cơ bản, để rồi trải qua một thời gian địa chất dài hàng
tỷ năm, sự sống ấy tiến hóa dần thành con người.
Bài báo viết tiếp:
Đối với Kurt Gödel, người mà cái
nhìn thấu suốt mang tính chất cốt lõi của ông đã làm tiêu tan những nỗ
lực tích lũy trong suốt một thế kỷ của chủ nghĩa toán học hình thức chứa
chất trong ba tập “Nguyên lý Toán học” của Bertrand Russell và
Whiteheads, thì những định luật vật lý là quá đơn giản để có thể giải thích được tính phức tạp sinh học trong tự nhiên trong thời gian có hiệu lực.
Tức là đối với Gödel, sự sống phức tạp
hơn rất nhiều so với những gì mà khoa học đã biết và có thể biết ─
những cơ chế vật chất mà khoa học đã biết không đủ để giải thích sự phức
tạp đó. Dường như còn có cái gì đó không phải vật chất tham gia vào sự
hình thành sự sống! Những yếu tố phi vật chất đó là cái gì, nếu không
phải THÔNG TIN?
Gödel mất năm 1978, có nghĩa là ông đã
biết về DNA. Tuy nhiên, những khái niệm về thông tin vào thời điểm đó
còn đang ở buổi trứng nước. Vậy mà Gödel, với trực giác thiên tài, đã
cảm thấy khoa học vật chất (vật lý, hóa học) không đủ để giải thích sự
sống. Dường như ông gợi ý với chúng ta rằng còn có cái gì đó nữa, không
phải vật chất, tham gia vào việc tạo dựng sự sống. Gợi ý này được Jon
Garvey trình bày trong bài báo sau đây:
“Conservation of information, evolution” (Tính bảo toàn thông tin, Thuyết tiến hóa, v.v.)
Trong bài này, Jon Carvey viết:
Trên trang blog đó, tôi đã trích dẫn ý kiến logic của Kurt Gödel phản đối thuyết tiến hóa Darwin:
Sự hình thành của một thể xác con
người thông qua thời gian địa chất nhờ các định luật vật lý (hoặc bất kỳ
định luật nào khác có bản chất tương tự), khởi đầu từ một sự phân bổ
ngẫu nhiên các hạt cơ bản và trường, cũng chẳng có gì hứa hẹn chắc chắn
giống như sự tách rời khí quyển với các thành phần của nó một cách ngẫu
nhiên. Tính phức tạp của những vật sống phải được thể hiện bên trong vật
chất [từ đó mà nó bắt nguồn] hoặc trong các định luật [chi phối hoạt
động của chúng].
Cái mà Gödel đề cập đến trong câu cuối
của trích dẫn nói trên là gì, nếu không phải DNA? Đó là thông tin tạo
dựng sự sống ─ những mã lệnh chỉ huy vật chất tập hợp lại với nhau theo
một định hướng CÓ CHỦ Ý, thay vì ngẫu nhiên như thuyết tiến hóa tưởng
tượng. Không có những mã lệnh này thì hàng tỷ phân tử xáo trộn với nhau
cũng thành một đống vật chất hỗn độn vô dụng, không bao giờ trở thành sự
sống. Đó là điều thuyết tiến hóa không hiểu, hay đúng hơn, cố tình
không hiểu. Bởi nếu thừa nhận sự tập hợp đó là có chủ ý thì lý thuyết
nguồn gốc sự sống của họ sụp đổ!
Bài báo viết tiếp:
Lập luận của Gödel
là ở chỗ nếu sự tiến hóa triển khai từ một trạng thái ban đầu theo
những định luật vật lý mang tính toán học, thì nó không thể sản sinh ra
bất kỳ một thông tin nào không thừa hưởng từ trạng thái ban đầu ─ và theo quan điểm của ông, cả môi trường nguyên thủy lẫn các định luật đều không đủ giàu thông tin. Nói cách khác, hoặc là thông tin phải được bổ sung, hoặc cần phải có một kế hoạch vô hình được lập ra ngay từ đầu.
Ông nói, sự hình thành tự phát của tính phức tạp của sự sống một cách
đơn giản bởi những biến đổi ngẫu nhiên và sự chọn lọc từ cái trống rỗng là BẤT KHẢ THI về mặt toán học.
Tóm lại, không có thông tin tạo dựng sự
sống thì sự sống không thể hình thành, bất kể bao nhiêu biến đổi ngẫu
nhiên và bất kể sự chọn lọc tài tình như thế nào. Đến đây, ta thấy Gödel
đã đặt dấu chấm hết cho thuyết tiến hóa ở chỗ yếu nhất của nó ─ sự bất
lực của thuyết tiến hóa trong việc giải thích sự hình thành thông tin
ban đầu và thông tin bổ sung trong quá trình được gọi là tiến hóa!
Và do đó không có gì để ngạc nhiên khi ta thấy Gödel tuyên bố phủ định Darwin một cách thẳng thắn không úp mở:Tôi
không nghĩ bộ não hình thành theo cách của học thuyết Darwin. Thực ra
có thể phủ nhận học thuyết này. Cơ chế đơn giản không thể tạo ra bộ
não….. Lực sống là một thành phần nguyên thủy của vũ trụ và nó tuân thủ
những định luật tác động xác định. Những định luật này không đơn giản,
và chúng không mang tính cơ giới.
Có nghĩa là khoa học vật chất (vật lý và
hóa học) quá nghèo nàn để giải thích sự sống. Như ở trên ta đã thấy.
Gödel tin rằng con người có hai phần tồn tại rõ ràng, đó là thể xác và
linh hồn. Thuyết tiến hóa đã bất lực khi giải thích sự hình thành thể
xác, nó càng bất lực gấp bội khi giải thích linh hồn. Chủ nghĩa vô thần
coi linh hồn (hoạt động tinh thần) cũng là sản phẩm của vật chất. Nhưng
Gödel tuyên bố dứt khoát: “Chủ nghĩa duy vật là sai lầm”, và theo ông:
Bộ não là một chiếc computer được kết nối với một linh hồn.
Toàn bộ thuyết tiến hóa vắng bóng khái
niệm tinh thần và linh hồn. Vì thế nó không xứng đáng được gọi là một
khoa học về sự sống. Thuyết tiến hóa không hiểu bản chất sự sống là gì.
BÌNH LUẬN
1/ Định lý Gödel không chỉ là một định
lý toán học, mà còn đóng vai trò nền tảng về triết học nhận thức đối với
bất kỳ một hệ thống nhận thức nào, bao gồm vật lý, trí thông minh nhân
tạo, khoa học computer,… thậm chí cả những lĩnh vực tưởng như xa lạ đối
với nó như ngôn ngữ học, thần học, tôn giáo, văn chương, nghệ thuật.
Ngày nay, một người thiếu kiến thức về Định lý Gödel sẽ dễ rơi vào chủ
nghĩa vô thần hoặc chủ nghĩa duy khoa học, khó nhìn thấy sự thật.
2/ Định lý Gödel cho thấy tri thức khoa
học không đủ để nhận thức sự thật. Sự tôn sùng khoa học như chúa là một
sai lầm tai hại, dẫn tới sự kỳ thị hoặc xem nhẹ những hình thức nhận
thức truyền thống khác như văn chương, nghệ thuật, thần học, tôn giáo.
Có lẽ không phải vô tình mà mà Einstein tha thiết nhắn nhủ: “Chú ý đừng
coi tri thức khoa học là chúa; tất nhiên nó có sức mạnh cơ bắp nhưng…
phi nhân tính”. Điều đáng ngạc nhiên là ở Einstein và Gödel, đôi bạn tri
kỷ vong niên, có những phát biểu về khoa học gần giống nhau ─ Einstein:
“Tôi không tin vào toán học”, Gödel: “Tôi không tin vào khoa học tự
nhiên”. Điều đó ngụ ý gì? Phải chăng cả Einstein lẫn Gödel đều biết rằng
tồn tại những sự thật mà cả toán học lẫn khoa học không thể biết, và
con người chỉ có thể tiếp cận tới những sự thật đó bằng trực giác sâu
thẳm bên trong. Trong con mắt của những người đã giác ngộ hoặc được mặc
khải, toán học và khoa học chỉ là những sự diễn đạt thô thiển của một
phần sự thật mà con người trực giác thấy. Sự mô tả của toán học và khoa
học về thế giới thực ra chỉ là hình ảnh thế giới trong con mắt của con
người, thay vì là chính cái thế giới ấy. Không có cách nào để chúng ta
biết cái hình ảnh ấy trung thực hay méo mó đến mức nào. Tình thế này đưa
chúng ta tới gần với thần học và tôn giáo hơn, thay vì kỳ thị và tránh
xa nó. Chủ nghĩa vô thần bác bỏ thần học và tôn giáo, vì thực ra họ
không hiểu gì thần học và tôn giáo. Họ chỉ nhìn thấy thần học và tôn
giáo ở lớp vỏ bề ngoài. Nhưng dưới ánh sáng của Định ly Gödel, ta sẽ
nhận ra rằng thần học và tôn giáo là những dạng nhận thức bổ sung tuyệt
vời cho khoa học. Chỗ khoa học dừng lại thì thần học và tôn giáo tiếp
tục, nhằm thỏa mãn nỗi khao khát hiểu biết của con người tới cái tận
cùng của vũ trụ. Nếu khoa học xét cho cùng cũng chỉ là một hệ thống nhận
thức dựa trên một hệ tiên đề không đầy đủ thì thần học và tôn giáo cũng
vậy. Chỉ có điều hệ tiên đề của thần học và tôn giáo khó hơn mà thôi.
Thí dụ một tiên đề do Thánh Thomas Acquinas nêu lên: “Ở đâu tồn tại
những thiết kế phức tạp, ở đó tồn tại nhà thiết kế thông minh”. Giới vô
thần không chấp nhận tiên đề này, vì nó sẽ đánh sập toàn bộ vũ trụ quan
của họ. Đúng ra, họ rất sợ tiên đề này, vì đó là tiên đề của Lý thuyết
Thiết kế Thông minh (Theory of Intelligent Design). Lý thuyết này chứng
minh rằng ắt phải có Đấng Sáng tạo, hoặc Nhà Thiết kế Vĩ đại, thiết kế
và sáng tạo ra vũ trụ và sự sống, bởi vũ trụ và sự sống là những cấu
trúc cực kỳ tinh vi, phức tạp, tuân thủ những định luật xác định, không
thể hình thành bởi ngẫu nhiên. Ở đây, Định lý Gödel ủng hộ Lý thuyết
Thiết kế Thông minh, bởi nó từng dạy chúng ta rằng không thể giải thích
được nguyên nhân đầu tiên. Do đó, Lý thuyết Thiết kế Thông minh là một
sự bổ sung cho khoa học. Trước những câu hỏi mà khoa học bế tắc, chẳng
hạn như nguồn gốc của mã DNA là gì, thì Lý thuyết Thiết kế Thông minh có
câu trả lời: mã DNA là “ngôn ngữ của Chúa” (Francis Collins).
3/ Khi tôi còn là một thanh niên, trực
giác đã thầm nói với tôi rằng thuyết tiến hóa là một lý thuyết tưởng
tượng, bịa đặt, nói láo. Khi tôi trực tiếp tìm hiểu sự thật về thuyết
tiến hóa, tôi ngạc nhiên tại sao trước những bằng chứng rõ mười mươi cho
thấy thuyết tiến hóa là phi khoa học, phản khoa học, ngụy khoa học, mà
vẫn có nhiều người tin. Tôi đã tìm thấy câu trả lời: đó là cái trì độn
của đám đông mà Einstein từng mô tả là thiên thu trường tại. Tuy nhiên,
tôi còn nghĩ đến một lý do khác ─ hầu như toàn bộ giới tiến hóa không
hay biết gì về Định lý Gödel, và do đó họ có khiếm khuyết rất lớn về
triết học nhận thức, họ thiếu cả trực giác lẫn triết học khi tìm kiếm sự
thât! Ý nghĩ này lại dẫn tôi tiến thêm một bước nữa bới câu hỏi liệu
một người sâu sắc như Gödel có tin vào thuyết tiến hóa không? Nếu Gödel
tin vào thuyết tiến hóa, tôi sẽ buộc phải xem xét lại cái trực giác của
bản thân mình, vì đối với tôi, Gödel có một uy tín có lẽ còn lớn hơn cả
Einstein (dễ gì mà một vị cao niên có uy tín bậc nhất như Einstein phải
nể trọng một đàn em kém 27 tuổi như Gödel?). Nếu Gödel không có ý kiến
gì về thuyết tiến hóa, tôi sẽ rất buồn, vì thuyết tiến hóa đụng chạm tới
những vấn đề cốt lõi của nhận thức, một người như Gödel không thể nhắm
mắt làm ngơ trước một học thuyết làm méo mó nhận thức của con người như
thuyết tiến hóa. Vì vậy tôi quyết định tìm hiểu xem Gödel nghĩ gì về
thuyết tiến hóa. Kết quả thật bất ngờ, và là một bất ngờ thú vị, vô cùng
thú vị, như độc giả đã thấy ở trên. Gödel không tin và bác bỏ thuyết
tiến hóa. Ông coi những người không tin vào thuyết tiến hóa là người
thông minh. Một trong số đó là Joseph Stalin, một lãnh tụ khét tiếng của
nhà nước xô viết trong nửa đầu thế kỷ 20. Đây cũng là một thông tin RẤT
BẤT NGỜ đối với tôi, nhưng là một bất ngờ RẤT THÚ VỊ (a very nice
surprise)!
4/ Một bạn thân của tôi, một tiến sĩ
khoa học, cũng mến mộ Gödel đến mức “thái quá”, nói với tôi rằng Định lý
Gödel là một thước đo chuẩn của trí thông minh. Không hiểu gì hoặc
không biết ngạc nhiên thích thú với định lý này thì có thể coi như…
không biết gì cả! Tôi thích cái “thái quá” của bạn tôi, vì nó đúng.
Tác giả: Phạm Việt Hưng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét