Nếu thơ là mạch sống của xã hội và phản
ánh tâm sự của con người thì khi tìm tới đầu nguồn của nền thi văn nước ta, người
ta đã gặp thấy hai câu sau đây được coi là đã xuất hiện từ thời Hai Bà Trưng
(thượng bán thế kỷ I sau Công Nguyên) với mục đích kêu gọi tinh thần đoàn kết
giữa các sắc dân cư ngụ trên vùng cổ Việt lúc bấy giờ:
Bầu
ơi thương lấy bí cùng,
Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Thật sự bên cạnh những câu thơ mượt mà
trong ý nghĩa và chất phác trong ngôn từ như vậy, người ta cũng tìm thấy rất
nhiều câu ca dao rất sâu sắc xuất hiện, đồng hành cùng dân tộc từ buổi đầu lập
quốc cho tới ngày nay. Qua các giai đoạn lịch sử đã in đậm dấu vết tiếng thơ của
từng thời đại trong lòng dân tộc trước những khúc quanh hay qua những thành tựu
của đất nước với sự có mặt của hàng hàng lớp lớp những người làm thơ, các văn
nhân thi sĩ thuộc nhiều thế hệ. Với nhan
đề của bài sưu khảo “Tiếng thơ Tao Đàn,
đốt lò hương cũ…”, người viết chỉ muốn gợi một thoáng nhìn về một vài tổ chức
văn học đã từng được biết đến dưới danh xưng “Tao Đàn” qua đó sống lại những bước
chân thăng trầm của đất nước, để nghe vọng đâu đây âm ba của lịch sử qua các
triều đại quân chủ như những tiếng tơ đồng đầy cảm thương, xen lẫn nuối tiếc những
tháng ngày đã trôi qua.
1.-
Tìm về từ nguyên của hai chữ Tao Đàn.
Trong văn chương Việt Nam, chữ “tao nhân mặc khách” có nghĩa người
tao-nhã, người văn chương. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, mục Tao nhân nói Khuất Nguyên người nước Sở
làm bài Ly-tao, nước Tàu có thể văn Tao gốc từ đó, đời sau nhân đó gọi người
hay văn là tao-nhân. Tao nhã là lối thơ như nhị nhã (Đại-nhã và Tiểu-nhã), lối
phú như ly-tao, là văn rất thanh cao, nên khen người có văn tài nói là tao-nhã.
Tao thể: thể văn theo lối bài phú Ly-tao của Khuất-Nguyên (Đào Duy Anh, Hán Việt Từ Điển, Trường Thi xuất bản,
In lần thứ ba, Sài Gòn 1957, trang 235). Thiều Chửu cho biết sự phong-nhã cũng
gọi là phong tao, vì thế nên gọi các
làng thơ là tao nhân (Hán Việt Tự Điển, Cơ sở xuất bản Đại
Nam, trang 782). Người tao nhã, khách
thuyền quyên, Phong hoa tuyết nguyệt là tiên trên đời (Bích câu kỳ ngộ).
Nhưng chữ tao đàn đã từng xuất hiện trên văn đàn Việt Nam từ cuối thế kỷ XV với
Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú của vua Lê
Thánh Tông, Tao Đàn Chiêu Anh Các của
Mạc Thiên Tứ thế kỷ XVIII, hay thậm chí Tiếng
Thơ Tao Đàn của nhà thơ Đinh Hùng (1955-1967) thế kỷ XX có liên hệ gì với
các chữ tao nói ở trên ? Để thấy sự
liên hệ có lẽ cần truy tầm vào tiểu sử và sự nghiệp của một nhà thơ cổ Trung Quốc,
Khuất Nguyên, tác giả thiên Ly Tao.
Theo tác phẩm 100 Danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc do Vương Tuệ Mẫn
chủ biên “Khuất Nguyên (340-280 tr.
C.N.), nhà thơ yêu nước vĩ đại. Tên thật
là Khuất Bình, “Nguyên” là tên chữ của ông. Tên và tên chữ của Khuất Nguyên
có liên quan đến ngày sinh của ông. Ông sinh vào ngày Dần tháng Dần năm Dần,
theo quan niệm truyền thống thì ngày tháng năm sinh của ông phù hợp với “nhân
sinh vu dần”, vì thế cha ông bèn đặt tên cho ông là “Bình”, đặt tên chữ là
“Nguyên”. “Bình” là tượng trưng cho trời, có nghĩa là ngay ngắn. “Nguyên” tượng
trưng cho đất, có nghĩa là rộng rãi bằng phẳng. Liên hệ giữa tên gọi và ngày
sinh thì có nghĩa bao hàm thống nhất ba cái trời, đất và người.” (Đinh Khả Trần
chấp bút, bản dịch TS Nguyễn Văn Dương, Nhà xb. Thông Tin Văn Hóa, Sài Gòn
2002, trang 271)
Theo Sử
ký của Tư Mã Thiên, “Khuất Nguyên là
người học rộng, nhớ lâu, thấy rõ lẽ trị loạn, thạo việc giấy tờ, ứng đối với
chư hầu, được nhà vua rất tin dùng. Đại phu Thượng Quan (có sách chú Thượng
Quan là họ, có sách chú thượng quan là chức quan) cùng ông ngang hàng, tranh được vua yêu, trong bụng ghen ghét tài
năng. Hoài Vương sai Khuất Nguyên làm pháp lệnh. Khuất Nguyên nháp bản thảo
chưa xong, đại phu Thượng Quan trông thấy muốn cướp lấy, Khuất Nguyên không
cho, ông ta bèn gièm với vua:
-Bệ
hạ sai Khuất Bình làm pháp lệnh, không ai là không biết. Mỗi khi lệnh ban ra,
Bình lại khoe công của mình, nói: “Ngoài ta ra, chẳng ai làm nổi!”
Nhà
vua giận, bỏ rơi Khuất Bình. (Nhữ Thành, Sử Ký Tư Mã Thiên, Nhà xuất bản Văn Học,
Hà Nội 1988, trang 542).
Khuất
Nguyên đã từng hai lần bị đày. Lần thứ nhất là vào khoảng năm Sở Hoài vương thứ
24 (305-304 tr. C.N.), ở bên ngoài
khoảng bốn, năm năm. Nguyên nhân đi đày có thể là Khuất Nguyên đã cực lực
phản đối chính sách ngoại giao thân Tần phản Tề của Hoài vương.
Khuất
Nguyên đã nhiều lần khuyên can trước mặt, vạch tội Hoài vương và phái liên
hoành, vì thế bị nói gièm và bị đày ở thượng lưu sông Hán, tức là một dải huyện
Vân và huyện Tương của tỉnh Hồ Bắc ngày nay, lúc đó nằm ở phía bắc đô thành
Dĩnh (nay là huyện Giang Lăng tỉnh Hồ Bắc) của nước Sở.
Lần
thứ hai bị đày là vào thời Khoảnh Tương vương, lần này nguyên nhân bị đi đày là
do ông đắc tội với Lệnh doãn Tử Lan. Ông chỉ trích Tử Lan không nên khuyên
Hoài vương vào nước Tần để họp liên kết đồng minh dẫn đến bị Tần giam giữ mà chết.
Địa điểm đi đày là ở Giang Nam, trong thời gian đi đày Khuất Nguyên lưu lạc trú
ngụ khắp nơi, lúc ở dải Mịch La, đô thành Dĩnh (có người đọc chữ này là “Sính”
, không đúng phiên thiết. N.D) của nước Sở bị quân Tần đánh phá, tình thế vô
cùng nguy cấp. Khuất Nguyên nhìn thấy tương lai của đất nước, của cá nhân một
màu đen tối, không còn mảy may hy vọng, liền nhảy xuống sông Mịch La tự trầm, kết
thúc cuộc đời vất vả của mình. Theo truyển thuyết Khuất Nguyên nhảy xuống vào
ngày Tết Đoan ngọ tức ngày 5 tháng 5 âm lịch nên ngày này được dân tộc Trung Quốc
và Việt Nam kỷ niệm cho đến bây giờ.
Tâm hồn Khuất Nguyên là tâm hồn cương trực,
ghét thói điêu ngoa xảo trá ở đời. Trong Ly Tao có những câu:
Chúng
chen chúc trên đường vụ lợi,
Tấm
lòng tham, tham mãi, tham hoài.
Đem
dạ mình, đọ bụng người,
Sinh
tình ghen ghét, đặt lời gièm pha.
……………………………………………..
Người
đời thật đã thừa khôn khéo
Đua
nhau theo mực vẹo thước cong.
Khuôn
vuông, mẫu thẳng chẳng dùng,
Cúi
luồn, cầu cạnh, một lòng như nhau.
(Nhượng
Tống dịch)
Tuy nhiên điều cần nhớ là tác phẩm Ly Tao do Khuất Nguyên viết để lại dấu ấn
cho đời. Theo học giả Nguyễn Hiến Lê “Tác
phẩm bất hủ của ông là thiện Ly-tao (Nghĩa
là xa vua mà buồn), một bài trường thiên 370 câu tả tâm sự ông. Đặc sắc của
thiên ấy là lời triền miên bi thảm thường dùng phép tượng-trưng, phép
nhân-cách-hóa và dẫn rất nhiều thần thoại. Tình cảm ông thay đổi kỳ dị: mới vui
đó đã buồn, mới cười đó đã khóc; mới muốn đi xa lại đổi ý, đòi lên chầu Thượng
Đế, rồi lại muốn bói, muốn trở về cố hương; muốn tự tử. Thật là chân tình, mỗi
chữ là một tiếng thở dài, một giọt nước mắt; ít thấy văn-nhân nào đau khổ,
thác-loạn đến bực ấy.” Nguyễn Hiến Lê, Đại
cương văn học sử Trung Quốc, Cuốn I, Từ
Thượng cổ đến đời Tùy, Nhà xb. Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn, 1955, trang 92).
Các tác giả lớn của Trung Quốc như Lưu
An, Tư Mã Thiên, Lý Bạch đã đánh giá rất cao tác phẩm Ly Tao. Lưu An nói “Ly
tao” gồm cả những phẩm cách mê sắc mà không dâm, oán trách mà không loạn. Tư Mã
Thiên đã viện dẫn câu này. Lý Bạch thì đã từng nói “Thơ văn Khuất Bình sánh ngang mặt trời mặt trăng” (Khuất Bình từ phú
huyền nhật nguyệt).
Trong bài Ngư Phủ Từ (Lời Người Đánh Cá) mà đời sau cho là cũng do Khuất
Nguyên viết ra, Khuất Nguyên đã chứng tỏ khí tiết trung can, trong sạch của
mình giữa cuộc đời ô trọc nhưng đã bị một ông lão trên bờ sông Mịch La phản bác
kịch liệt khi ông này cho rằng:
“Thánh
nhân không câu nệ việc gì mà phải biết tùy thời thay đổi. Người đời đều đục thì
sao không khuấy thêm bùn, đập thêm sóng cho đục một thể?Thiên hạ đều say thì
sao không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể ? Việc gì mà phải nghĩ sâu, làm
khác người để bị đuổi bỏ?”
Khuất
Nguyên đáp:
-Tôi
nghe nói, mới gội đầu tất chải mũ, mới tắm xong tất thay áo; có đâu đem cái
thân trong sạch mà chịu vật nhơ nhớp được? Thà nhảy xuống sông Tương, vùi thân
trong bụng cá, chứ sao đang trắng lôm lốp mà chịu vấy bụi cát của thế tục?”
(Nguyễn
Hiến Lê, Sách đã dẫn, trang 109).
Theo định nghĩa của Nguyễn Hiến Lê thì Ly Tao là xa vua mà buồn, như vậy chữ tao
cũng hàm nhiều ý nghĩa liên hệ với bậc thiên tử, đấng quân vương cho nên
khi vua Lê Thánh Tông (1460-1497) thành lập và mệnh danh cho hội thơ xướng họa
của ông với các quần thần là “Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú”, phải chăng chữ tao đàn ngoài ý nghĩa văn chương, cũng
còn mang ý nghĩa chốn thi đàn xướng vịnh ca ngâm của bậc vương giả, quyền quý ?
2.-
Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú của Lê Thánh Tông (1442-1497)
Hai
danh xưng Tao Đàn và Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú vốn là cái tên rất
quen thuộc được dùng để chỉ hội thơ của vua Lê Thánh Tông (1442-1497) mà ông là
Nguyên soái hay Hội chủ.
Hai
chữ Tao Đàn thật sự không thấy xuất hiện
trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư vốn được
coi là một nguồn sử liệu chính thống của nước ta khi sách này viết về vua Lê Thánh Tông. Sử phẩm này chép: “Ất Mão,
[Hồng Đức] năm thứ 26 [1495]… làm sách Ngự
chế Quỳnh uyển cửu ca. Vua thấy hai
năm Quý Sửu, Giáp Dần, thóc lúa được mùa, đặt các bài ca vịnh để ghi điềm lành.
Nội dung những bài về đạo làm vua, khí tiết bề tôi, vua giỏi tôi hiền, nhớ bậc
anh tài kỳ tuấn và đùa viết vội thành văn… nhân gọi là Quỳnh uyển cửu ca thi tập.
Sai
bọn Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận; Đông các hiệu thư Ngô Luân,
Ngô Hoán; Hàn lâm viện thị độc chưởng viện sự Nguyễn Xung Xác; Hàn lâm viện thị
độc tham chưởng viện sự Lưu Hưng Hiếu; Hàn lâm viện thị thư Nguyễn Quang Bật,
Nguyễn Đức Huấn, Vũ Dương, Ngô Thầm; Hàn lâm viện đãi chế Ngô Văn Cảnh, Phạm
Trí Khiêm, Lưu Thư Ngạn; Hàn lâm viện hiệu lý Nguyễn Nhân Bị, Ngô Tôn Miệt, Ngô
Quyền, Nguyễn Bảo Khuê, Bùi Phổ, Dương Trực Nguyên, Chu Hoãn; Hàn lâm viện kiểm
thảo Phạm Cẩn Trực, Nguyễn Ích Tốn, Đỗ Thuần Thứ, Phạm Nhu Huệ, Lưu Dịch, Đàm
Thận Huy, Phạm Đạo Phú cùng hoạ lại vần.” (Viện Khoa Học
Xã Hội Việt Nam, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,
dịch theo bản Chính Hòa Thứ 18 (1697),
Tập
II, Nhà xb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998, trang 512).
Quỳnh
uyển cửu ca có nghĩa là chín khúc ca trong vườn Quỳnh. Đầu đề của 9 bài thơ
đó là : 1- Phong niên (năm được mùa), 2- Quân đạo (đạo làm vua), 3- Thần tiết
(tiết tháo người làm tôi), 4- Minh lương (vua sáng tôi hiền, tức theo chữ “minh
quân, lương tể”, 5- Anh hiền (người tài giỏi), 6- Kỳ khí (người tài lạ), 7 –
Thư thảo (viết thảo), 8- Văn nhân, 9- Mai hoa.
Dưới thời nhà Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục gọi
tắt là Cương Mục viết về hội Tao Đàn
thời vua Lê Thánh Tông mới đề cập tới danh xưng này với nhiều chi tiết rõ ràng
hơn như sau :
Tháng
11, mùa đông. Sáng tác chín bài hát quỳnh uyển. Nhà vua lấy cớ là : thời tiết thuận, năm được mùa, nên nhân lúc mọi
việc được thư nhàn, bèn sáng tác thành chín bài thơ, là:
phong niên, quân đạo, thần tiết,
minh lương, anh hiển, kỳ khí, thư thảo, văn nhân, mai hoa. Chín bài thơ này được
ghép vào khúc hát, gọi tên là “quỳnh uyển cửu ca”. Nhà vua thân hành soạn bài tựa,
tự xưng là Tao đàn nguyên soái. Hạ lệnh cho đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung
và Đỗ Nhuận làm phó nguyên soái; đông các hiệu thư Ngô Luân và Ngô Hoán, hàn
lâm viện thị độc Nguyễn Trùng Xác và Lưu Hưng Hiếu, thị thư Nguyễn Quang Bật,
Nguyễn Đức Huấn, Võ Dương và Ngô Thầm; thị chế Ngô Văn Cảnh, Phạm Trí Kiêm, Lưu
Thư Mậu, hiệu lý Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Tôn Miệt, Ngô Quyền, Nguyễn Bảo Khuê,
Bùi Phổ, Dương Trực Nguyên và Chu Hân, kiểm thảo Phạm Cẩn Trực, Nguyễn Ích Tốn,
Đỗ Thuần Thứ, Phạm Nhu Huệ, Lưu Dịch, Đàm Thận Huy, Phạm Đạo Phú và Chu Huân gồm
28 người theo vần trong chín bài ca ấy để họa lại, gọi là tao đàn nhị thập bát
tú (28 ngôi sao của Tao đàn).
Phương danh của 28 vị trong Tao đàn chỉ
có một chỗ khác biệt là Nguyễn Xung Xác (Toàn Thư) và Nguyễn Trùng Xác (Cương Mục).
Chú thích về chín bài hát quỳnh uyển giữa hai bản dịch Toàn Thư và Cương Mục
không có gì khác nhau. Bản dịch Cương Mục
ở phần chú thích cho biết: “Chữ quỳnh
nghĩa đen là viên ngọc quý, người ta thường dùng chữ này để tượng trưng cho thứ
gì tinh anh trong sáng. Chữ uyển có một nghĩa là tụ họp. Tống Thái Tổ thường
ban yến cho các tiến sĩ ở quỳnh lâm uyển, vua tôi xướng họa thơ phú với nhau.
Có lẽ Lê Thánh Tông cùng phỏng theo vận sự đời Tống, nên đặt tên chín khúc hát
là “quỳnh uyển cửu ca”. Cương Mục, Sách đã dẫn , trang 1184)
Bản dịch ở trang 1184 cũng ghi chú thêm:
“Tao đàn cũng như văn đàn, thi đàn. Chữ
“tao” có nghĩa là văn chương thanh tao đến tuyệt diệu. Chữ “đàn” có nghĩa là một
nơi quảng trường. Bốn chữ này có ý nói một viên tướng đứng đầu trong quảng trường
của Thi Nhân, mặc khách.”
Nên nhớ rằng đây là định nghĩa của các
nhà biên khảo sử học ngày nay cũng có thể khác với quan điểm của vua Lê Thánh
Tông và đám quần thần thế kỷ XV. Vua Lê Thánh Tông ngoài những bài thơ về chữ
Hán còn có nhiều bài thơ chữ Nôm luôn luôn ẩn tàng khẩu khí hay hình ảnh của một
vị quân vương, thí dụ bài thơ Thằng mõ, Cái chỗi, Thằng bù nhìn, Con cóc, Con
chó đá v.v…với những câu như:
Mõ
này cả tiếng lại dài hơi,
Mẫn
cán ra tay chẳng phải chơi.
Hay
:
Lời
chúa vâng truyền xuống ngọc giai,
Cho
làm lệnh tướng quét trần ai.
Hoặc
là :
Quyền
trọng ra oai trấn cõi bờ,
Một
lòng vì nước há vì dưa…
Bởi vậy, định nghĩa của học giả Nguyễn
Hiến Lê về hai chữ Ly Tao (xa vua mà buồn) như đã có đề cập ở trên và với chữ
“Tao” theo ý nghĩa là “vương giả” biết đâu lại chẳng phản ánh đúng với nỗi lòng
và chủ đích của vị nguyên soái Tao đàn họ Lê hơn?
Chủ đề của các bài thi lấy từ kinh nghiệm
cuộc sống, đạo vua tôi, kén chọn nhân tài, người hiền vì nhân tài là nguyên khí
của trời đất; núi sông, cảnh vật, hoa lá cỏ cây cũng là những hình ảnh thân
quen trong xã hội, đất nước Việt Nam.
Ngày nay khi tìm hiểu về hội thơ Tao Đàn
của vua Lê Thánh Tông, có lẽ ít ai để ý đến lời phê (ngự phê) khá hằn hộc của
vua Tự Đức được ghi lại trong Cương Mục
như sau:
“Luôn
luôn có hạn hán, nước to, đói dữ (1) mà đã nói như thế như thế (2)…; lại còn
xưng hô với nhau một cách khoe khoang (3), thật đáng khinh bỉ. Ông vua này
không phải chỉ những đạo đức chưa được thuần thục, độ lượng chưa được rộng mà
thôi đâu!” (Cương Mục, Sách đã dẫn,
trang 1185).
Nhóm phiên dịch Cương Mục có ghi chú như sau: “ (1)
Lời phê này nhắc lại việc tai biến đã xảy ra đời Lê Thánh Tông: 11 lần hạn hán,
6 lần thủy tai và 4 lần dân bị đói kém.(2) Chỉ vào đầu đề chín khúc hát như
phong niên, minh lương, kỳ khí. (3) Chỉ vào việc đặt tên khúc hát là “quỳnh uyển
cửu ca” và vua tôi xưng hô là Tao đàn nguyên soái, phó nguyên soái và nhị thập
bát tú.” (trang 1185).
Ngòi bút “ngự phê” của vua Tự Đức có phần
nào xem ra nghiệt ngã, bất công. Vua Tự Đức đã không biết, hoặc không cần biết
rằng trước đó cũng trong Cương Mục đã
có ghi rất nhiều lời nói và việc làm của vua Lê Thánh Tông chăm lo cho cuộc sống
của người dân, thí dụ tháng 7, mùa thu năm
Hồng Đức thứ sáu (1475) đặt chức quan hà đê và quan khuyến nông, vào tháng 8
năm 1491, mùa thu, mưa to suốt ngày đêm không ngớt, nước dẫy lên dữ dội, điện
Kính Thiên nước sâu hai thước hai tấc, ruộng bằng phẳng ở các huyện Thanh Oai
và Thanh Đàm nước sâu đến 4 thước, vua Lê Thánh Tôn hạ lệnh cho chỉ huy, hiệu
úy hai vệ Cẩm Y và Kim Ngô chia nhau đi khơi tháo những chỗ nước mưa làm hại
thóc lúa. Nhà vua ra dụ bảo bầy tôi rằng: “Chính
sự thiếu sót lầm lỗi, nên trời gia tai vạ. Đấy là do đức trạch của trẩm không
thấm khắp đến dân, lòng thành chưa cảm động đến trời, cho nên đến nỗi tai họa
như thế, chứ trăm họ có tội gì đâu. Không biết lúc ngày thường các khanh có thật
bụng lo việc nước, giữ phép công, để sửa chữa những điều mà trẫm không nghĩ đến
không? Hay các khanh chỉ chơi bời cho thỏa thích, theo bụng riêng mưu điều lợi
để giữ vững quyền vị đấy thôi?” (Cương
Mục, Sách đã dẫn, trang 1180).
Nhà vua đã luôn tự xét mình, tự kiểm thảo
công khai trước mặt quần thần và cũng răn đe đám bầy tôi với dụng ý luôn thúc dục
họ lo làm việc cho dân cho nước. Nội dung, thể tài của các thi tập trong Quỳnh
uyển cửu ca và các bài thơ Nôm của vua Lê Thánh Tông có cốt cách xây dựng một
xã hội tốt đẹp lý tưởng thật đáng quý trọng lắm thay! Hỏi có vị vua nào làm được
như vậy?
Dẫu sao Tao Đàn nhị thập bát tú vẫn được
ghi nhận là hội văn học đầu tiên ở nước ta và vua Lê Thánh Tông vẫn được lịch sử
thừa nhận là một bậc anh quân, cho nên sự xuất hiện của thi đàn này vào một thời
điểm được coi là “phong điều vũ thuận” ( là phong niên tức năm được mùa) cũng
đã làm cho nền văn học Việt Nam thêm rạng rỡ, phong phú. Sử gia Trần Trọng Kim
đã viết: “Những sự văn-trị và sự võ-công ở
nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn đời Hồng-đức. Nhờ có vua Thái-tổ thì
giang sơn nước Nam mới còn, và nhờ có vua Thánh-tông thì văn-hóa nước ta mới thịnh,
vậy nên người An-nam ta không bao giờ quên công đức hai ông vua ấy.”
(Trần
Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Tân Việt
xuất bản, bản in lần thứ bảy, 1964 , trang 250)
3.-
Tao Đàn Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ
(1710-1780)
Phải
nói rằng Tao Đàn Chiêu Anh Các của Mạc
Thiên Tứ, con trưởng của Mạc Cửu là tiếng thơ xuất phát từ ước vọng sống một cuộc
đời tự do, bất khuất theo lý tưởng ôm ấp của tiền nhân. Bước chân phiêu bạt của
một thuyền nhân (boat people) như Mạc Cửu vì không chấp nhận chế độ chính trị
hà khắc của nhà Mãn Thanh, đã bỏ Trung Quốc dùng thuyền vượt biển xuôi Nam tìm
đất sống, đã được Đại Nam Liệt Truyện Tiền
Biên, quyển VI, của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn ghi lại như sau:
“Người
Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. Khi nhà Minh mất, người Thanh bắt dân róc tóc. Cửu cứ
để tóc dài, đi sang Nam. Đến nước Chân Lạp, Cửu làm Ốc-nha (quan chức nước Chân
Lạp). Thấy phủ Sài Mạt có người Kinh, người Trung Quốc, người Chân Lạp và người
Chà Vàbuôn bán đông đúc , Cửu bèn dời đến ở Phương Thành, mở sòng bạc gọi là
“Hoa chi” để lấy hồ. Lại đào được hố bạc, do đó vọt lên giàu có. Cửu chiêu tập
những dân xiêu tán ở Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá (Gia Khê), Lũng Cả, Hương Úc
và Cà Mau (Cà Mao) lập làm 7 xã thôn. Lại vì đất ở đó có người tiên ẩn hiện
trên sông, nên gọi là Hà Tiên. Chỗ ấy gần núi, ven biển, có thể tụ họp buôn bán
để sinh lợi. Gặp lúc người Xiêm sang đánh lấn Chân Lạp, người Chân Lạp vốn ươn
nhát, nghe giặc đến là chạy. Tướng Xiêm gặp Cửu nhân dụ đem về nước. Cửu bất đắc
dĩ đi theo. Sang đến Xiêm, vua Xiêm thấy trạng mạo Cửu, cho là lạ, vui mừng giữ
lại, cho ở núi Vạn Tuế. Sau đó, nhân nước Xiêm có nội biến, Cửu bèn lén về Lũng
Cả. Những dân xiêu tán quy phục với Cửu ngày một đông. Cửu thấy Lũng Cả đất hẹp
không thể ở đông người được lại dời về Phương Thành. Thương nhân và lũ khác bốn
phương theo đến đông nhiều.”
Chỉ một đoạn văn ngắn mà đã hai lần nói
đến việc Mạc Cửu chiêu tập dân xiêu tán, rồi dân xiêu tán tìm về với Cửu trong
đó có rất đông thương nhân, chứng tỏ Cửu là người độ lượng, có tâm huyết và nhất
là ôm ấp mộng lớn.
Thật
ra, tiểu sử của Mạc Cửu có nhiều tình tiết hấp dẫn hơn. Ông đã một thời theo Trịnh
Thành Công, một vị tướng nhà Minh cũ gốc Triều Châu khởi nghĩa chống nhà Thanh
nhưng thất bại. Tàn quân của Trịnh Thành Công phải chạy ra đảo Đài Loan lập chiến
khu. Năm 1671, bất lực trước công cuộc chống quân Thanh, Mạc Cửu đem toàn bộ
gia đình, quân lính cùng một số sĩ phu khoảng 400 người bằng đường biển rời khỏi Phúc Kiến. Sau nhiều
ngày lênh đênh trên biển nhóm Mạc Cửu đã vào đảo Koh Tral, tức đảo Phú Quốc rồi
đổ bộ lên một vùng đất lạ là Panthaimas trong Vịnh Thái Lan được vua Khmer cho
khai thác vùng đất này.
Là một tay có đầu óc tổ chức và bản tính
giang hồ, Mạc Cửu thu nhận hầu hết các người Hoa vốn là binh sĩ cũ của triều
Minh đang làm nghề hải tặc vào dưới trướng của ông. Ông tổ chức sòng bạc để làm
cơ sở kinh tài, lập ra 7 xã: Máng Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột
(Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài Mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá)
và Phú Quốc (Koh Tral). Ông cho mộ thêm lưu dân người Hoa từ khắp nơi về lập
nghiệp và đặt tên vùng đất mới là Căn Khẩu Quốc. Những lưu dân lúc đầu đến với
Mạc Cửu đa số người Triều Châu, Quảng Đông và Phúc Kiến, vốn là những người giỏi
về văn học, thạo nghề đi biển, giỏi buôn bán, có kẻ biết canh tác lúa nước, nói
chung họ là những thành phần ưu tú của vương triều vừa thất sủng. (Nguyễn Văn
Huy, Người Hoa ở Việt Nam, Paris
1993, trang 35)
Tiền
Biên viết tiếp: “Có mưu sĩ là Tô Quân
bảo Cửu: “Người Chân Lạp tính giảo quyệt gian trá, ít trung hậu, không thể
nương tựa lâu được. Nghe nói chúa Nam triều có tiếng nhân nghĩa, uy đức vốn đủ
tin, chi bằng đến gõ cửa xưng thần để gây thế bám rễ vững chắc. Muôn một có biến
cố gì, thì nhờ chúa giúp đỡ”. Cửu cho lời bàn ấy là phải.
Hiển
tông hoàng đế, năm thứ 17 Mậu Tý (1708), mùa thu, Cửu cùng thuộc hạ là bọn
Trương Cầu, Lý Xá mang ngọc lụa đến cửa khuyết dâng biểu xưng thần, xin làm Hà
Tiên trưởng. Chúa thấy Cửu tướng mạo khôi ngô kỳ liệt tiến lui cung kính, cẩn
thận, khen là trung thành, bèn ban sắc cho làm thuộc quốc đặt tên trấn ấy là trấn
Hà Tiên, trao Cửu làm chức tổng binh quan, cho ấn và thao. Lại sai nội thần tiễn
Cửu ra ngoài cửa thành. Ai cũng cho là vinh dự.
Cửu
về trấn, dựng thành quách, lập doanh ngũ, đặt liêu tá, làm nhiều nhà khách để
đón tiếp hiền tài. Dân đến ở ngày càng đông, Hà Tiên trở thành một đô hội nhỏ.”
Năm
1711, Mạc Cửu được Chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu mời ra Huế yết kiến và năm
1714 ông được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu.
Mạc Cửu mất năm Ất Mão (1735), thọ hơn
80 tuổi, sống một đời trung thành với chúa Nguyễn, thỏa mãn được ước vọng sống
cuộc đời tự do với truyền thống văn hóa của mình. Con trưởng của Cửu là Thiên Tứ.
Trong
Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên có phần
chép về Mạc Thiên Tứ như sau: “Thiên Tứ từ
bé đã thông minh, nhanh nhẹn, học rộng kinh điển, hiểu thông võ lược. Túc Tông
hoàng đế năm thứ 11 Bính Thìn (1736), mùa xuân, chúa cho Thiên Tứ làm Hà Tiên
trấn đô đốc, ban cho 3 thuyền “long bài”được miễn thuế. Lại sai mở lò đúc tiền
để việc mua bán được thông đồng. Thiên Tứ bèn chia đặt nha thuộc, tuyển quân
lính, đắp thành quách mở rộng phố, chợ. Thương nhân và lữ khách các nước sum họp
đông đảo. Lại chiêu tập những người văn học bốn phương, mở “Chiêu anh các” ngày
cùng nhau bàn giảng sách, xướng hoạ thơ. Có 10 bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên, phong
lưu tài vận, được một phương quý trọng. Từ đấy Hà Tiên mới biết đến văn học.” (Quốc
sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Liệt Truyện
Tiền Biên, quyển 6, Tập I, Nhà xb. Thuận Hóa, Huế, 1997, trang 186).
Mạc Thiên Tứ là con trưởng của Mạc Cửu,
tự là Sĩ Lân, mẹ là bà Bùi Thị Lẫm, quê Đồng Môn, thuộc Biên Hòa, là người Việt.
Chính dòng máu Việt này đã cho ông khả năng thông thạo tiếng Việt qua thi tài của
ông về thơ Nôm và thơ chữ Hán. Cuộc đời hoạt động của Mạc Thiên Tứ và con cháu
của ông về sau gắn liền với sự nghiệp phục quốc của Nguyễn Ánh, đã được sử sách
của triều Nguyễn ghi lại.
Sách Hà
Tiên trấn, Hiệp trấn Mạc thị gia phả do Vũ Thế Dinh biên soạn năm 1818 có
viết về Mạc Thiên Tứ như sau: “Ông (Mạc
Thiên Tứ) phú tánh trung lương, nhân từ nghĩa dõng, toàn vẹn tài đức, lại tinh
thông sách vở và văn thơ của Bách gia chư tử… Ông có dựng Chiêu Anh Các để thờ
Tiên Thánh, và dùng lễ vật hậu hĩ để đón mời người tài giỏi. Từ bên nhà Thanh,
cả các bậc tuấn tú các nước khác nghe tiếng ông đều tụ hội đến ngày một đông.”
Theo
lời kể của Mạc Thiên Tứ, trong số danh sĩ”nghe tiếng mà đến”, “có thầy Trần Hoài Thủy từ Việt Đông vượt biển
đến đây. Ta đãi làm thượng tân. Mỗi khi hoa sớm trăng đêm, ngâm vịnh chẳng
thôi. Nhân, đem “Hà Tiên thập cảnh” trình cho tri kỷ, thầy Trần dựng cơ Tao
đàn, mở hội phong nhã…” (Theo bài đề tựa sách Hà Tiên thập vịnh, Thi sĩ Đông Hồ dịch. Và cũng theo bài tực này
thì “Sau đó thầy Trần trở thuyền về Châu Giang (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng
Đông) đưa ra làng thơ, nhờ được chư công chẳng bỏ. Khi đề vịnh xong, góp thành
tập gửi cho ta, bèn cho khắc bản. Thượng tuần quý hạ năm Đinh Tỵ (1737). Thi sĩ
Đông Hồ dịch. Văn học Hà Tiên, tr.
70. Bản khắc mà ông Tứ nói đến, là Hà Tiên thập vịnh. Tao đàn Chiêu Anh Các –
Wikipedia tiếng Việt).
Ông Trần Hoài Thủy vốn là khách quý của
Mạc Thiên Tứ nói ở trên có tên Trần Trí Khải là một danh sĩ Trung Quốc.
Theo nhà thơ Đông Hồ, Chiêu Anh Các có số
người đông đảo, có sách chép 32, có sách nói 36. Số 36 vị này gọi là tam thập lục kiệt, tức 36 vị kiệt sĩ mà
trong số đó có thập bát anh là 18 vị
anh hoa xuất chúng.
Trong Kiến văn Tiểu lục viết năm 1777, học giả Lê Quý Đôn trước đó đã được
chúa Trịnh Sâm cử vào Đàng Trong làm Hiệp trấn Tham tán Quân cơ tại Thuận Hóa,
cho biết Chiêu Anh Các có 32 vị, ngoài Mạc Thiên Tứ chủ xướng nên Hà Tiên
thập vịnh, còn có 25 nhà thơ người
Trung Hoa là Chu Phác, Ngô Chi Hãn, Lý Nhân Trường, Đơn Bỉnh Ngự, Vương Sưởng,
Phương Minh, Lộ Phùng Cát, Từ Hiệp Phỉ, Lâm Duy Tắc, Từ Huyễn, Lâm Kỳ Nhiên, Trần
Duy Đức, Từ Đăng Cơ, Thang Ngọc Sùng, Trần Tự Phát, Hoàng Kỳ Trân, Chu Cảnh
Dương, Trần Thụy Phượng, Trần Tự Lan, Trần Dược Uyên, Trần Minh Hạ, Trần Diễn Tứ,
Tôn Thiên Trân, Tôn Thiên Thụy, Tôn Quý
Mậu; và 6 người Việt Nam là: Trịnh Liên Sơn, Phan Thiên Quảng, Nguyễn Nghi, Trần
Trinh, Đặng Minh Bản và Mạc Triều Đán.
Các tác phẩm của Chiêu Anh Các gồm có:
· Hà Tiên thập vịnh: Là
tập thơ đầu tiên được Tao đàn này cho khắc bản in tại Hà Tiên năm 1737, do
chính Mạc Thiên Tứ xướng thơ và đề tựa, Trần Trí Khải và Dư Tích Thuần viết lời
bạt. Tác phẩm có cả 320 bài thơ chữ Hán của 32 tác giả, vịnh 10 cảnh đẹp của Hà
Tiên. Năm 1755, Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) vào Nam giao thiệp với họ Mạc, đã họa
thêm 10 bài nữa, nhưng vì làm sau nên không có trong tập. Lúc bấy giờ Nguyễn Cư
Trinh giữ chức Gia Định Khẩn súy Tham mưu Nghi biểu hầu.
· Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh: gồm
10 bài đoạn thơ chữ Nôm vịnh mười cảnh đẹp của Hà Tiên do Mạc Thiên Tứ sáng
tác. Tập thơ dài 422 câu liên ngâm vừa lục bát gián thất vừa Đường luật bát cú,
liên hành. Chính tác phẩm này đã gợi ý cho Nguyễn Cư Trinh sáng tác “Quảng Ngãi
thập nhị cảnh”.
· Thụ Đức Hiên tứ cảnh (hay
Tứ cảnh hồi văn Thụ Đức Hiên) theo Lê Quý Đôn thì có 88 bài thơ của 32 tác giả,
họ 4 bài thơ hồi văn vịnh phong cảnh bốn mùa của Hà Tiên do Mạc Thiên Tứ sáng
tác. Sách đã được khắc in, trong khoảng thời gian với Hà Tiên thập vịnh, hiện đã thất lạc chỉ còn 9 bài in trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.
· Minh bột di ngư gồm bài phú “Lư Khê nhàn điếu”hơn trăm câu và
32 bài thơ luật Đường bằng chữ Hán. Tập thơ được Trịnh Hoài Đức phát hiện, rồi
cho khắc in. Đây là tập thi họa rất quý, chẳng những về phương diện sử liệu,
văn học, còn quý về mỹ thuật, về bút tích của các danh bút trong nhóm Chiêu Anh
Các. (Theo Tao đàn Chiêu Anh Các, Wikipedia tiếng Việt).
Ngoài ra, theo Trịnh Hoài Đức, trong bài
Tân tự viết năm Minh mạng thứ hai, in
trong tập Minh bột di ngư, thì Chiêu
Anh Các còn có các bộ sách: Hà Tiên vịnh
vật thi tuyển, Châu Thị Trinh liệt tặng ngôn, Thi truyện tặng Lưu tiết phụ và
Thi thảo cách ngôn vị tập.
Do nghiên cứu các phế tích ngày nay tại
chùa Phù Dung, người ta cho rằng Chiêu Anh Các đã tọa lạc ở chính vị trí nơi
này.
Cái tên Hà Tiên (trước kia cũng có tên
Phương Thành tức thành phố của hương thơm) do Mạc Thiên Tứ đặt để tưởng nhớ tới
vị Phật Bà đã xuất hiện khi ông ra đời. Năm 1784 chúa Nguyễn Ánh đã đặt tên
vĩnh viễn là Hà Tiên.
Hà Tiên dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ
là vùng đất mới khai khẩn, được hưởng một chính sách tự trị dành cho người
Trung Hoa mới di cư tới mà sử gọi họ là “Thanh nhân”. Điều đáng lưu ý là theo với
thời gian lối sinh sống của họ cũng như những đám dân thiểu số khác dần dần Việt
hóa đi. Lịch sử Đại Việt có họ thêm dồi dào, phức tạp, thêm yếu tố thúc đẩy
năng lực tiến thủ cần thiết cho bất cứ một tập thể nào muốn sinh tồn và lớn mạnh.”
(Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở
Việt Nam, từ 1771 đến 1802, Nhà xb. Văn Sử Học, 1973, trang 243).
Tóm lại, Mạc Thiên Tứ (cũng còn gọi là Mạc
Thiên Tích) là một vị tướng giỏi, ông đã nhiều lần mang quân tấn công Xiêm La
và bảo hộ vùng phía nam đất Chân Lạp. Mạc Thiên Tứ có công mở rộng thị trấn Hà
Tiên và năm 1739 lập thêm bốn huyện : Long Xuyên (miền Cà Mau), Kiên Giang (Rạch
Giá), Trấn Giang (miền Cần Thơ) và Trấn Di (miền bắc Bạc Liêu). Mạc Thiên Tứ là
một nhà học thức lỗi lạc, kiến thức uyên bác, giỏi ngoại giao và có tài văn
thơ, ông để lại nhiều tác phẩm giá trị. (Nguyễn Văn Huy, Sách đã dẫn, trang 37)
Về sau nhân bị nghi oan khi còn đang ở
Xiêm, Mạc Thiên Tứ tự tử tại đó lúc 70 tuổi, một số người tùy tùng bị giết.
Thi văn của Chiêu Anh Các được biết là
có rất nhiều nhưng nay còn truyền tụng với Hà
Tiên thập vịnh tập được dịch ra nôm như sau:
1-Kim Dự lan đào (Đảo Vàng chắn sóng);
2-Bình Sơn điệp thúy (Núi Bình Sơn xanh biếc);
3-Tiêu Tự thần chung (Tiếng chuông chùa
Tiêu Tự);
4-Giang Thành dạ cổ (Tiếng trống đêm ở
Giang Thành);
5-Thạch Động thốn vân (Mây luồn Thạch Động);
6-Châu Nham lạc lộ (Châu Nham cò đậu);
7-Đông Hồ ấn nguyệt (Đông Hồ trăng soi);
8-Nam phố trừng ba (Sóng trong Nam Phố);
9-Lộc Trĩ thôn cư (Xóm dân ở Lộc Trĩ);
10-Lư Khê ngư bạc (Cảnh chài cá ở Lư
Khê).
Phê bình về Tao đàn Chiêu Anh Các, GS.
Nguyễn Huệ Chi đã viết như sau: “Thơ văn
Chiêu Anh Các hầu hết là thơ đề vịnh
thiên nhiên. Tính chất ước lệ, phong cách khoa trương, sự thi vị hóa cảnh vật
và thông qua cảnh vật mà phơi bày tâm trạng thỏa mãn với hiện thực, của những
người may mắn cai quản một vùng đất nước… Tuy vẫn còn những sáng tác mang tính
chất sách vở, khuôn sáo, nhưng chúng vẫn thể hiện được những tình cảm lạc quan
yêu đời của những tâm hồn gắn bó với cuộc sống, niềm tự hào về đời sống hòa
bình, no đủ và tinh thần trách nhiệm cùng ý chí muốn gìn giữ nơi biên cương sao
cho yên ổn, giàu mạnh. Sắc thái tích cực đó đã làm cho nhiều bài thơ mang được
vẻ đẹp chân thực, giản dị, đạt đến cái nhã đạm của văn chương cổ điển.”
Trong một bài viết, GS Lê Đình Kỵ đã nêu
lên các ý kiến như sau:
“Những
bài thơ có mặt (trong những tác phẩm của nhóm Chiêu Anh Các) không có giọng thở
than, u hoài hay tiêu diêu thoát tục, thây kệ sự đời như thường thấy trong thơ
văn của xã hội phong kiến xuống dốc.
“Hà
Tiên là miền đất khai phá cuối cùng thể hiện ý chí đấu tranh khắc phục thiên
nhiên, bảo vệ giang sơn bờ cõi. Đất nước và con người ở trong thế đi lên, tràn
đầy sức sống, nên thơ văn ít bị hạn chế bởi hệ tư tưởng thống trị… mà thấm đượm
tình quê hương đất nước, ý chí độc lập tự cường của những người lãnh đạo đầy
chí tiến thủ và nhân dân Hà Tiên cần cù khoát đạt.”
(Thay lời tựa, Văn học Hà Tiên, tr.11
và 15. Tao đàn Chiêu Anh Các – Wikipedia tiếng Việt).
Một học giả Miền Nam, Nguyễn Hiến Lê đã
nêu ra nỗi ngạc nhiên:
“Trong
xứ (Hà Tiên) có miếu thờ Khổng Tử mà từ vương (tức Mạc Thiên Tứ) đến dân ai
cũng thờ. Có một nhà nghĩa học dạy các thanh niên ưu tú, nghèo không thể tự túc
theo học được. Những người Trung hoa sang đây mà có khả năng văn học thì mới được
mời đến đó dạy học… Trong khi đó đừng nói chi Gia Định, ngay cả ở Thuận Hóa
cũng chẳng có một thi đàn nào cả. Sự kiện ấy quả thực chưa hề xảy ra trong lịch
sử văn học (Việt). Ta thử tưởng tượng một nhóm người di cư qua một nước tuy là
đồng văn nhưng vẫn là lạ, dựng nghiệp ở một nơi hẻo lánh nhất, mà chỉ nửa thế kỷ
sau, làm cho nơi đó thành một đất văn vật nhất trong cõi, góp công vào văn học
xứ đó bằng chữ của mình và bằng cả thổ ngữ, thì có lạ không chứ !”
Ngày
nay đọc lại mười bài thơ trong Hà Tiên Thập Vịnh hầu hết đều lấy những cảnh trí
thiên nhiên, đẹp đẽ, lúc hoành tráng mà cũng có khi u nhàn làm đề tài và cũng
nhân đó phô diễn tấm lòng của mình trước thế cuộc mà Mạc Thiên Tứ và các thành
viên trong Tao Đàn Chiêu Anh Các từng xướng họa ngâm nga, chúng ta chia xẻ với
họ niềm hân hoan của những con người cảm khái và bằng lòng với quan niệm “ở đâu
tốt đẹp thì ở đó chính là quê hương” (ubi bene, ibi patria). Mạc Thiên Tứ cũng
có thời được xưng tụng là “Bồ Tát tái sinh” (Từ thế giới giác ngộ, vị nầy thể
nhập vào cuộc đời, đồng cam cộng khổ với mọi người và tận lực cứu độ chúng
sanh. Thích Nguyên Tâm, Từ Điển Phật Học
Tinh Tuyển, Nhà xb. Phương Đông, 2013, trang 134) và nhân đó có câu chuyện
Hà Tiên (bà tiên xuất hiện trên sông).
Bình tâm mà nói văn hóa chỉ có thể sinh
hoa kết trái trong bầu không khí của tự do, khai phóng và nhân bản. Cũng vậy, Tao Đàn Chiêu Anh Các có lẽ đã có
nguồn gốc khai sinh từ thời Mạc Cửu trong các nỗ lực chiêu hiền đãi sĩ của ông
và sáng kiến đó đã tiếp tục được thăng hoa trong thời Mạc Thiên Tứ để rồi xuất
hiện cụ thể với hội thơ Tao Đàn này nhờ vào tài năng và phong cách xử thế của vị
chủ súy, vả lại cũng nhờ ở “tính năng động
và mềm dẻo của các chúa Nguyễn trong thời kỳ này thật thích hợp với việc phát
triển xã hội Đàng Trong, khi họ cởi mở hơn trước các cơ hội từ bên ngoài và có
tính hướng ngoại hơn địch thủ của họ là họ Trịnh ở phía bắc.” (Li Tana, Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt
Nam Thế kỷ 17 và 18, Nhà xb. Trẻ, 1999, tr. 216).
Sự có mặt của Mạc Cửu rồi Mạc Thiên Tứ
và con cháu của ông ở Hà Tiên, được coi là những “cơ hội” đã làm cho lịch sử
Đàng Trong mang thêm nhiều ý nghĩa trong đó về phương diện văn hóa, tưởng cũng
cần phải nhắc đến Tao Đàn Chiêu Anh Các mặc dù ngày nay tư liệu văn chương còn
lại về số lượng không còn đáng là bao.j
Nguyễn Đức Cung - k1 Viện Hán Học Huế
Philadelphia,
ngày 15 tháng 3 năm 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét