Tại sao họ có nhà nhưng khó về?
Vào tháng 7 năm nay, tờ Bành Phái Tân Văn (ThePaper.cn) đã đăng bài “Hiện trạng của 3 triệu tân công nhân Trung Quốc: Thành thị ở không được, nông thôn không thể về”.
Bài báo đưa ra nhiều số liệu: số người làm công của toàn quốc năm 2014
là 274 triệu người, trong đó 84 triệu người ở doanh nghiệp sản xuất, 60
triệu thuộc doanh nghiệp kiến trúc xây dựng, 20 triệu người làm nội trợ
giúp việc nhà. Số trẻ ở nông thôn trên toàn quốc là 61.025.500, trẻ sống
không cố định là 36 triệu.
Vào thời điểm xuất bản bài báo, Trung
Quốc đang trong tình trạng thất nghiệp cao độ, tại thị trấn Tất Tiết,
tỉnh Quý Châu vừa xảy ra vụ một gia đình 4 người uống nông dược tự sát,
Thủ tướng Lý Khắc Cường khích lệ nông dân về quê lập nghiệp, đoàn tụ
gia đình và hưởng quan hệ họ hàng ruột thịt. Tại Hội nghị toàn thể lần 5
vừa qua đã đề cập vấn đề phổ cập giáo dục Trung học phổ thông, mục đích
để thanh niên nông thôn có thể kéo dài thêm thời gian được hưởng giáo
dục từ nhà trường, trì hoãn việc tham gia vào xã hội.
Vấn đề là: những nông dân di cư vào
thành thị sau khi bị thất nghiệp, dù khó khăn để tồn tại được ở thành
thị và muốn trở về quê, nhưng rồi họ cũng nhận thấy mình dường như có
nhà nhưng khó về. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bài báo chỉ nhắc đến lác
đác vài ý, tuy nhiên với người am hiểu xã hội nông thôn Trung Quốc đều
nhận thấy những câu này đã phác họa được khái quát thực trạng.
Sự sụp đổ của hệ sinh thái nông nghiệp
Bài báo nhắc đến “Sự tan rã của hệ sinh thái nông nghiệp”, “tan rã” là cách nói cho dễ nghe thay vì nói “sụp đổ”.
Hệ sinh thái nông nghiệp gồm có nước, đất, khí hậu (không khí, nước
mưa..) cấu thành, nhưng ba yếu tố cơ bản này của nông nghiệp Trung Quốc
đều bị hủy hoại nghiêm trọng. Tháng 4/2014, chính quyền Trung Quốc đã
công bố “Báo cáo điều tra tình trạng ô nhiễm đất đai trên toàn quốc”,
phạm vi điều tra chỉ ra có 6,3 triệu cây số vuông (2/3 diện tích lãnh
thổ quốc gia) thì có khoảng 50 triệu mẫu đất canh tác bị ô nhiễm kim
loại nặng như crom, niken, asen… không còn trồng trọt được. Những vùng
đất này tập trung ở khu phát triển kinh tế vùng tam giác sông Trường
Giang và Châu Giang.
Tài nguyên nước ở Trung Quốc được khái quát thành “hai nỗi khổ lớn”, đó là: thiếu và ô nhiễm. “Báo cáo thực trạng môi trường Trung Quốc năm 2014”
đã chỉ ra hiện tình nhức nhối: gần 2/3 lượng nước ngầm và 1/3 lượng
nước ở mặt đất trong tình trạng không nên tiếp xúc trực tiếp. Việc ô
nhiễm nguồn nước gây tổn thất về kinh tế trên các phương diện công nông
nghiệp, sức khỏe… mỗi năm đến 240 tỷ nhân dân tệ. Ô nhiễm không khí có
thấy rõ qua hiện tượng sương mù, hiện tượng mưa đen, mưa hồng xảy ra
khắp nơi.
Nguồn ô nhiễm đi qua nước lại vào nông
sản, thêm việc sử dụng quá độ thuốc trừ sâu, làm cho nông phẩm Trung
Quốc không có chút sức cạnh tranh nào trên thị trường quốc tế. Do ô
nhiễm khiến chi phí sản xuất tăng vì nhiều nguyên nhân, chất lượng lương
thực thấp nhưng giá thành lại cao hơn 20 – 30% so với thị trường quốc
tế. Nếu không có trợ cấp chính phủ và hạn chế nhập khẩu nông sản, nền
nông nghiệp Trung Quốc đã sớm bị suy sụp. Tại sao phải hạn chế nhập khẩu
nông phẩm nước ngoài? Ông Trần Tích Văn, Chủ nhiệm phụ trách về nông
phẩm Trung Quốc nói rõ, ngoài việc bảo đảm cạnh tranh trên thị trường
quốc tế “còn phải nghĩ đến sinh tồn của hơn 600 triệu nông dân ở nông thôn”.
Quan trọng hơn là trong hơn một thập
niên qua, thu nhập tiền lương trở thành bộ phận chủ yếu trong tổng thu
nhập của nông dân. Chỉ dựa vào làm nông thì cần phải có chính phủ hỗ trợ
đảm bảo thu mua vào với giá cao so với thị trường quốc tế, do ruộng đất
bình quân theo đầu người quá ít nên thu nhập từ làm ruộng không đáng
kể, không thể bằng đi làm thuê, rất khó khăn để duy trì cuộc sống cho
những gia đình nông dân. Nghĩa là lao động nhập cư nông dân muốn về quê
hương thì họ cũng không biết phải tồn tại thế nào.
Xã hội nông thôn bị lưu manh hóa
Cùng với thực trạng nghiêm trọng về sự
tan rã của hệ sinh thái nông nghiệp là tình trạng lưu manh hóa trong xã
hội nông thôn, tổ chức cơ sở ở nông thôn về cơ bản là do bọn du côn lưu
manh thao túng.
Trước đây, trong cuốn sách «Cạm bẫy của hiện đại hóa»
đã chỉ ra thực trạng này, tình hình về sau càng ngày càng nghiêm trọng.
Vào năm 2003 sau khi bắt đầu thu thuế cải cách (thuế bãi bỏ nông
nghiệp), cùng với việc chính phủ vứt bỏ thu mua tài nguyên từ nông thôn,
họ cũng không thèm quan tâm đến trật tự xã hội ở nông thôn, thế là tổ
chức cơ sở ở nông thôn dần dần rơi vào tay bọn lưu manh. Cơ quan truyền
thông trong nước có nhiều báo cáo điều tra, xin lấy bài “Quần thể đặc biệt lãnh đạo nông thôn” trên tuần báo Liễu Vọng vào kỳ 30 năm 2009 làm ví dụ.
Theo báo Liễu Vọng, từ khi cải cách về thuế đến nay, quan hệ giữa tổ chức cơ sở ở nông thôn và nông dân chuyển từ “loại hình chặt” thành “loại hình lỏng”,
tại tổ chức cơ sở thường có một số “ghế trống”, thế là bọn lưu manh
nông thôn nhân cơ hội thao túng chính quyền cơ sở. Thế lực này có 3 loại
chính: một là thế lực dòng họ ở nông thôn. Loại thế lực này có thể giúp
Đảng và Chính quyền hóa giải tranh chấp mâu thuẫn, nhưng dễ trở thành
“khối u” của chính quyền cơ sở.
Nguyên nhân chính là dòng họ lớn sẽ thao
túng việc bầu cử ở cơ sở, họ chỉ chú ý đến lợi ích của gia tộc mình, dễ
xung đột lợi ích với gia tộc yếu; hai là thế lực tôn giáo ở nông thôn.
Có những tôn giáo có vai trò tích cực nhất định về phương diện dẫn dắt
con người hướng thiện, nhưng nhiều tà giáo nguy hại vô cùng. Ba là những
bọn lưu manh nông thôn, chúng hoạt động sôi nổi kiểm soát tuyển cử ở cơ
sở và liên kết với cán bộ thôn rồi tham gia chính quyền.
Đáng quan tâm nhất là phần kết của bài
báo. Bài báo viết, những thế lực hung ác này không thể tiêu diệt được,
vì thế kiến nghị chính phủ cần lợi dụng chỉ bảo chúng để chúng quản lý
tốt việc ở nông thôn. Tác giả bài báo này đã học theo kinh nghiệm của
một thầy giáo tiểu học Trung Quốc dùng những học trò ngỗ ngược làm ủy
viên lao động, ủy viên thể dục, nhưng họ không suy nghĩ là: xã hội nông
thôn Trung Quốc không phải thế giới của thanh thiếu niên. Sự chế ước duy
nhất với thế lực lưu manh này là quyền lực chính phủ.
Trước quyền lực chính phủ thì đương
nhiên bọn này phải phục tùng, vì chúng biết chúng không thể đấu lại cỗ
máy quốc gia to lớn, nhưng chúng có thể dùng lợi ích vật chất để tạo
quan hệ với quan chức để đổi lấy việc quan chức sẽ thừa nhận quyền cai
trị của chúng ở nông thôn. Nhưng đối diện dân chúng, bọn lưu manh nông
thôn này làm gì biết nghĩ đến lợi ích người khác và lợi ích công cộng ở
nông thôn?
Trong tình hình hiện nay, mối quan hệ
giữa chính quyền Trung ương và nông thôn lỏng lẻo có phần giống thời kỳ
Dân quốc. Điểm không giống là: thời kỳ Dân quốc là sự tiếp nối truyền
thống tự trị của thân hào nông thôn từ ngàn năm trước, tuy có cường hào,
nhưng về tổng thể thì thân hào nông thôn vẫn giữ được đạo lý truyền
thống, họ biết trách nhiệm của họ là phải đảm bảo lợi ích công, vì thế
mà nông thôn tự trị dưới sự cai quản của thân hào nông thôn là tốt.
Cộng sản Trung Quốc đã thủ tiêu tầng lớp
này, dùng bọn lưu manh làm thế lực trong cải cách ruộng đất, thế rồi
sau đó bọn lưu manh này lại trở thành cán bộ cơ sở nông thôn trong các
thời kỳ công xã nhân dân, hợp tác xã. Nông thôn tự trị truyền thống đã
bị văn hóa lưu manh dày xéo tan nát, vì thế khi chính phủ Trung Quốc nới
lỏng kiểm soát nông thôn, thế là cái khoảng trống quyền lực để lại dĩ
nhiên bị bọn lưu manh ác bá bổ khuyết vào.
Ngoài bài viết trên Tuần báo Liễu Vọng,
còn có thể tìm hiểu vấn đề này qua nhiều bài viết trên mạng lưới truyền
thông Trung Quốc, ví dụ như “Quê hương tôi đang bị chiếm đóng”, hoặc “Quê hương mỗi người đều đang rơi vào tay giặc”…
Những bài viết này đều nói về một hiện tượng tương tự: sự lưu manh hóa
trong xã hội nông thôn, nỗi tuyệt vọng bao phủ vùng trời nông thôn (có
bài báo còn gọi là “mùi tử thi”).
Một xã hội rơi vào tình trạng lưu manh
hóa như vậy thì làm gì còn cái gọi là lợi ích cộng đồng. Các xí nghiệp
sản xuất tại các hương trấn gây ô nhiễm môi trường làm người dân xung
quanh bị thiệt hại, còn gia tộc làm doanh nghiệp thì hưởng lợi. Những
người sống ở nông thôn đa số đều chỉ thấy những lợi ích nhỏ trước mắt,
vì thế nhiều sự nghiệp công cộng, cho dù là doanh nghiệp tạo việc làm
cho thôn dân, cũng bị phá hoại vì tính cách này của họ.
Ở chuyên mục “Mọi người nói về Trung Quốc” trên BBC từng đăng bài viết của một cư dân mạng ở Hà Nam có tựa “Thảm cảnh của lao động nhập cư nông dân có nguồn gốc từ quê hương”. Bài báo kể lại một chuyện khá ấn tượng: “Lấy
thôn trang mà người viết bài này đang sống làm ví dụ, vào năm ngoái
từng có một thương nhân ở vùng khác đến thôn xây dựng một xưởng may, sau
khi xây xong nhà xưởng, các quan viên thỉnh thoảng lại ‘hạ cố’ tìm các
lý do vòi vĩnh. Sau khi công xưởng khởi công, do công nhân đều là thôn
dân bản địa, họ luôn nghĩ mọi cách ‘chấm mút’ của công xưởng, đến lông
để làm quần áo lông cũng ném qua tường rào ra ngoài. Cứ thế, công xưởng
hoạt động chưa được nửa năm thì đóng cửa.” Hiện tượng này khá phổ biến ở Trung Quốc.
Vì thế, nông thôn Trung Quốc không phải
nơi người xa quê có thể quay về điền viên, hai chữ quê hương chỉ tồn tại
trong ký ức của họ. Rất nhiều tân công nhân sau khi thất nghiệp thà
lang thang ở đô thị chứ không muốn về lại quê nhà.
Theo Hà Thanh Niên, Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung
Tinh Vệ biên dịch
Tinh Vệ biên dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét