Những bài thơ tình gửi đáp Hồ Xuân Hương & Nguyễn Du từ Tiên Điền đến Nghi Tàm (1794-1796).
Nguồn: Theo TS Phạm Trọng Chánh.
Nguyễn Du về đến Tiên Điền, Hồng Lĩnh không nhà, anh em lưu lạc. Thật sự thì anh em Nguyễn Du chẳng bao giờ ở tại Tiên Điền cả. Những năm cuối cùng nhà Lê -Trịnh, Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại, chức vụ ngang với Thủ Tướng ngày nay, lại kiêm trấn thủ Hưng Yên, Thái Nguyên và Sơn Tây. Tại Sơn Tây Nguyễn Khản giao quyền cho Nguyễn Điều làm Đốc Trấn, có Nguyễn Nể phụ tá, Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ nắm giữ binh quyền tại Hưng Yên. Và tại Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh giữ chức Trấn Tả Đội, Nguyễn Du làm Chánh thủ Hiệu quân Hùng hậu hiệu, đội quân mạnh nhất Thái Nguyên; Cai Gia tức Nguyễn Đại Lang làm Quân Sư. Cai Gia nhân vật này có tên trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vốn là người phản Thanh phục Minh, là tay 'giặc già' , được Nguyễn Khản thu nạp làm môn hạ, để dạy võ cho các em. Thái Nguyên là nơi nhiều dân Tàu giang hồ sang khai mỏ, trộm cướp, trốn thuế. Cai Gia là người trị nổi đám người này; Nguyễn Du kết nghĩa sống chết với Cai Gia (Sinh Tử giao tình tại. Bài Tiễn biệt Nguyễn Đại Lang) nên gọi là anh Cả. Khi nhà Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du, Nguyễn Đại Lang và Nguyễn Sĩ Hữu (tức Nguyễn Quýnh) chạy sang Vân Nam.
Tôi, (TS Phạm Trọng Chánh), bác bỏ việc Nguyễn Du nhận tập ấm cha nuôi họ Hà, giữ một chức quan võ nhỏ như gia phả ghi. Thật sự Nguyễn Du là đại diện binh quyền cho anh Nguyễn Khản tại Thái Nguyên).
Hai anh lớn Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất năm 1786, Nguyễn Nể làm quan ở Phú Xuân, Nguyễn Quýnh bị Tây Sơn giết năm 1790 tại Hà Tỉnh,.. Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ đại diện binh quyền cho Nguyễn Khản từ Hưng Yên về ở Chu Kiều, Bắc Ninh làm nghề thuốc. Nguyễn Nghi viết truyện thơ Quân Trung Đối dài 1116 câu, và có con là Nguyễn Toản đỗ Tiến Sĩ đời Minh Mạng làm quan đến chức Viên Ngoại Lang. Nguyễn Trứ làm nghề thuốc, đậu Tam Trường năm 1779 đời Gia Long có ra làm quan, Tri phủ Nam Sách, có con là Nguyễn Thích tri phủ Nghĩa Hưng, Nam Định; Nguyễn Trù, tri phủ Vĩnh Tường, và Nguyễn Thị Uyên làm thuốc giỏi được mời vào cung chữa bệnh cho các cung nữ đời Gia Long. Trong anh em Nguyễn Du có lẽ chỉ có Nguyễn Nhưng là ở Hà Tỉnh.
Theo Gs Hoàng Xuân Hãn, trong danh sách những người ra cộng tác với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở Sùng Chính Viện đời Tây Sơn, có Nguyễn Công con Nguyễn Khản, và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều.
Nguyễn Hành con thứ hai Nguyễn Điều, nhà thơ tài hoa, một trong năm nhà thơ lớn nhất nước bấy giờ, lúc đó cũng đang ở Hồng Lĩnh, nên có nhiều kỷ niệm về các cuộc đi săn của Hồng Sơn Liệp Hộ, Nguyễn Du.
Về Tiên Điền, hai anh em Nguyễn Du, ở trong một căn nhà nhỏ trên bến Quế Giang, đầu sông Long Vĩ, cạnh Giang Đình, để tiện việc coi sóc việc chuyên chở những vật liệu xây dựng bằng đường sông như gạch, ngói, gỗ, đá về xây cất. Nguyễn Du có lẽ nằm nhà trông coi việc trả lương thợ và tiếp nhận vật liệu. Công việc xây dựng lại làng Tiên Điền khá quy mô. Có đến năm đền thờ họ Nguyễn Tiên Điền:
Đền thờ [1]Ông Nguyễn Lĩnh Nam tức cụ Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du.
Đền thờ [2] Ông Nguyễn Tiên Lĩnh Hầu tức Nguyễn Huệ (1705-1733) chú Nguyễn Du.
Đền thờ [3] Xuân Quận Công tức Nguyễn Nghiễm(1708-1776) cha Nguyễn Du.
Đền thờ [4] Nguyễn Lam Khê tức Nguyễn Khản (1734-1786).
Đền thờ [5] Điền Nhạc Hầu tức Nguyễn Điều (1745-1786).ngoài ra còn có chùa Trường Ninh và Cầu Tiên.
Mọi chi phí đều do Nguyễn Nể cung ứng. Cuối năm 1794, Nguyễn Du có vào Phú Xuân nhận món tiền thứ hai.
Về Tiên Điền, Nguyễn Du chỉ còn người bạn, hiệu là Thực Đình (ăn ở đình làng) tặng cho chiếc áo vải, người bạn dạy học lây lất không đủ sống. Nguyễn Du có tặng Thực Đình bài thơ:
*
Tặng thực Đình
Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm,
La Thành nhất biệt thập niên thâm.
Đồng niên đối diện cách thiên nhưỡng,
Vãng sự hồi đầu thành cổ câm (kim).
Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí,
Đề bào trân trọng cố nhân tâm.
Mạc sầu tịch địa vô giai khách,
Lam thủy Hồng sơn, túc vịnh ngâm.
Thơ chữ Hán, Nguyễn Du, Trần Văn Nhĩ dịch thơ, bài số 58, trang 138, nxb Văn Nghệ, 2/2007.
*
Bản chữ Hán nguyên tác Ngân Triều soạn
贈 實 亭
天鶴潭魚何處尋
羅城一别十年深
同年對面隔兲壌
往事回頭成古今
白髪消磨貧士氣
綈袍珍重故人心
莫愁僻地無佳客
藍水鸿山足詠吟
*
Ngân Triều dịch nghĩa
Hạc trên trời, cá dưới đầm, biết đâu mà tìm?
Lần chia tay ở La Thành [15] chốc đã hơn mười năm.
Bạn đồng niên diện kiến mà cứ tưởng không bao giờ tái ngộ.
Chuyện cũ nhìn lại như chuyện xa xưa.
Tóc bạc làm tiêu tan ý chí kẻ sĩ nghèo hèn.
Chiếc áo vải thô, xin trân trọng tấm lòng người bạn cũ.
Chớ sầu đất hẻo lánh không có người khách tốt,
Sông Lam, núi Hồng đủ để cho chúng ta vịnh ngâm.
*
Ngân Triều cảm đề bài Tặng Thực Đình.
Hạc trời cá nước biết tìm đâu,
Nhớ buổi chia tay Thành Nghệ lâu.
Chợt gặp tưởng chừng trong giấc mộng,[16]
Chuyện xưa, rêu cổ tích dầu dầu.
Trắng mây tóc bó tang bồng chí, [17]
Áo vải lòng thành trọng nghĩa sâu.
Chớ tủi quê nghèo không bạn tốt,
Lam Hồng thi hứng gió trăng thâu. [18]
*
Sách vở họ Nguyễn Tiên Điền, không kém gì Phúc Giang thư viện họ Nguyễn Trường Lưu với hàng vạn quyển sách, được triều đình sắc phong, bị cháy mười phần còn một hai, chất quanh vách nhà. Ngoài cửa một khóm cúc vàng, bếp vắng lặng vì thiếu người đàn bà bếp núc. Về đây sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du phải Khóc cười thời loạn theo trần thế, bệnh yếu lặng câm mà giữ thân.
Về Tiên Điền bệnh cũ mười năm trước ở Vân Nam tái phát, Nguyễn Du: Nằm bệnh mười tuần bến Quế Giang. Ngày xưa tuần là tuần trăng, nửa tháng, từ trăng tròn đến trăng khuyết. và từ không trăng đến tròn trăng.
(Một cách hiểu khác là tuần trăng có mười ngày. Bệnh 10 tuần trăng tức 100 ngày hay ba tháng 10 ngày. Trong bài Mạn hứng kỳ nhất, Nguyễn Du có than thở:
Tam xuân tích bệnh bần vô dược,
Tạp tải phù sinh hoạn hữu thân.
*
三春積病貧無葯
卅載浮生患有身
*
Xuân đau ba tháng nghèo không thuốc,
Cõi tạm ba mươi, bệnh xẻ đời
Trích Hồn quê, quyển [3], trang 200 của Ngân Triều).
*
Nhân có một người quen về Hồng Lĩnh, Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài Nhân tặng, bài này chép trong Lưu Hương ký:
Chàng đã về quê quán, nơi từ đường của danh gia vọng tộc, cách xa bao non núi.
Xuân Hương chẳng có dịp may nào để xông pha về thăm chàng.
Mấy hàng chữ viết thăm chàng, nước mắt rơi lai láng,
Một bài thơ, một mảnh giấy lòng em đợi tin chàng.
Muốn thả lá đề thơ nhưng e ngại ngọn nước triều không đưa đến,
Muốn gửi quà nhiều hơn nhưng e ngại mỏi cánh chim hồng.
Ước gì có người tiên hiện xuống nơi trần thế giúp tình ta,
Cậy có vầng trăng soi tỏ tấm lòng.
*
Nhất Uyên phiên âm bài Nhân tặng:
Nghiêm thẳm hầu môn biết mấy trùng,
May chăng khôn lẽ dám pha xông.
Mấy hàng chữ mực châu lai láng,
Một mảnh tờ mây ý mộng mong.
Buông thả luống e khơi ngọn nước.
Gửi trao còn ngại mỏi vai hồng.
Người tiên ví chẳng soi trần thế,
Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng.
Hồ Xuân Hương
*
Theo TS. Phạm Trọng Chánh, bài thơ này được Hồ Xuân Hương viết khoảng năm 1795 lúc Nguyễn Du đã về Hồng Lĩnh, và Nguyễn Du đã đáp lại bài thơ này bằng bài "Ký hữu" trong "Thanh Hiên thi tập"
Nguồn:
1. Đi tìm Cổ Nguyệt đường và mối tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du, TS. Phạm Trọng Chánh, 2012
2. Bản sao từ bản chép tay của Nguyễn Văn Hoàn, do TS. Nguyễn Xuân Diện cung cấp
Bản chữ Nôm, Bài Nhân Tặng, Ngân Triều soạn:
因
嚴審候門别買重
𠲕坤㦑波𨃸
洚𡨸墨珠吏浪
殳𤗖詞𩄎意夢懞
捹抯𢤱𠲖𢵱𦰟渃
掎𢭂群碍悔𦠽紅
𠊚仙𠸠拯擂塵世
𣎏暈𩇛𤍄𢙱
*
Ngân Triều cảm đề bài Nhân tặng
Từ đường vọng tộc, bao non núi!
Có dịp may nào để ruổi dong?
Tha thiết mấy hàng rơi nước mắt,
Ngại ngùng mảnh giấy, gởi hoài mong.
Mênh mông thả lá triều đâu đến,
Quà cáp còn e mỏi cánh hồng.
Những ước người tiên, bay xuống giúp,
Trăng thề soi sáng, sáng soi lòng.
*
Ghi chú:
[15] La Thành: là thành Nghệ An.
[16] hy hữu, như ngàn năm một thuở.
Dầu dầu: cỏ hơi héo, lòng buồn buồn
Sè sè nấm đất bên đường,
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 57-58
[17] Tóc bạc bó rọ ý chí kẻ nghèo hèn. Thân già yếu, bất cập, hoài bảo lớn tiêu tan.
[18] Gió trăng thâu: gió trăng suốt cả, đầy dẫy, vô tận.
Mênh mông thả lá triều đâu đến,
Quà cáp còn e mỏi cánh hồng.
Ngân Triều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét