Trung Hoa luôn nức danh với thế
giới là mảnh đất của những kì tài trong tất cả mọi lĩnh vực. Nhưng ít ai
biết rằng có ba người Việt Nam đã từng làm mảnh đất địa linh nhân kiệt
ấy phải ngả mũ kính phục.
Tại sao Tần Thủy Hoàng phải đúc tượng của Lý Ông Trọng?
Sau khi thống nhất đất Trung Hoa, uy
danh lừng lẫy, Tần Thủy Hoàng vẫn phải canh cánh một mối nguy đến từ
phương Bắc. Bất chấp sự kiên cố của Vạn Lý Trường Thành, quân Hung Nô
vẫn hung hăng quấy nhiễu vùng biên giới. Thời bấy giờ, ở nước Tần, có
một vị sứ giả có tướng mạo phi phàm, cao hơn hai thước (một “thước” theo
hệ thống đo lường Trung Hoa tương ứng với 3,3m). Nhìn thấy tướng mạo
khác thường cùng bản lĩnh của một tướng quân nơi vị sứ giả ấy, vua Tần
đã ngỏ ý mời ông đi trừ giặc Hung Nô. Ông được phong làm Vạn Tín Hầu cử
đến trấn ở vùng đất Lâm Thao (Tỉnh Cam Túc ngày nay). Giặc Hung Nô khi
tới nơi tận mắt chứng kiến Uy danh của ông đã không đánh mà tan, nháo
nhào bỏ chạy.
Pho tượng đồng khổng lồ hình Lý Ông Trọng – Tranh vẽ của Bui Van Bao (Ảnh: hungsuviet.us)
Vị sứ giả bí ẩn ấy lại chính là một
người dân Việt, ông tên thật là Lý Thân, thường gọi là Lý Ông Trọng,
người làng Chèm (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội). Theo truyền thuyết
trong dân gian, ông vốn tính tình cương trực, lại có lòng thương dân,
phò tá vua Hùng thứ 18 trấn áp biên thùy nên rất được trọng dụng dưới
triều vua An Dương Vương và trở thành sứ giả nước Tần.
Sau một thời gian sống tại nước Tần,
vinh hoa phú quý không làm nguôi nỗi nhớ quê nhà của người con Viêt chân
chất ấy. Lý Ông Trọng xin được về thăm quê. Trong thời gian đó, giặc
Hung Nô lại quay lại quấy phá phía Bắc, vua Tần cử người sang vời ông về
lại vùng biên giới. Lý Ông Trọng không muốn một lần nữa phải rời bỏ quê
hương, nên vua xứ Nam đã phải dối rằng ông đã qua đời. Không còn cách
nào khác, vua Tần bèn cho đúc một bức tượng của Lý Ông Trọng, tương
truyền, trong bụng của tượng có thể chứa đến hàng chục người.
Người ta còn làm các khớp tay, chân cho
tượng nên bức tượng có thể di chuyển, cử động như người thật. Giặc Hung
Nô trông thấy bức tượng từ xa, ngỡ tưởng Lý Ông Trọng quay trở lại nên
sợ hãi tháo chạy về nước và không dám quay lại thêm lần nào nữa. Nhưng
không chỉ có vua Tần Thủy Hoàng cho làm tượng của Lý Ông Trọng. Trong sử
sách còn ghi lại hai vị tướng nhà Đường là Cao Biền và Triệu Xương vì
cảm phục thanh danh của vị tướng cương trực người Việt ấy, đã cho làm
tượng gỗ, sơn son thiếp vàng để thờ cúng.
Vị tướng đất Nam trở thành ông tổ súng thần công Trung Quốc
Súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng (Ảnh minh họa: Internet)
Trung Quốc vốn là quốc gia đầu tiên chế
tạo thành công thuốc súng, đưa phát minh này ứng dụng vào quân sự nhằm
nâng cao sức tân cống của các loại vũ khí chiến đấu. Nhưng đến thời kì
nhà Minh, Trung Hoa cũng như các nước phương Tây vẫn đang loay hoay với
các thiết kế về súng đạn. Trong khi đó, ở Việt Nam, một kĩ sư quân sự
dưới thời nhà Hồ đã chế tạo thành công một loại súng, sau đó sẽ trở
thành điều bất ngờ vô cùng lớn với quân đội nhà Minh: “Thần cơ sang
pháo”.
Sách sử của nhà Minh có ghi chép lại sự
bất ngờ đến khâm phục của quân đội nhà Minh khi vấp phải sức công phá
của loại vũ khí này: Trong cuộc bình Giao Chỉ, nhà Minh đã bắt được súng
thần, pháo thần của Giao Chỉ được coi là vũ khí nhất thiên hạ… Súng
“thần công” có được gần đây dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa
ngoài 100 bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã
đến. Không chỉ có vậy nhà Minh đã không ngần ngại vận chuyển súng Thần
cơ này về nước họ.
Súng thần cơ được trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quân đội, Hà Nội (Ảnh đăng lại từ Cục văn thư và lưu trữ nhà nước -archives.gov.vn)
Vậy vị tướng ấy là ai? Và loại vũ khí mà
ông tạo tại sao lại có uy lực đến như vậy? Vị tướng tài giỏi được lịch
sử nhà Minh ghi nhận phát minh ấy chính là Hồ Nguyên Trừng, con trai cả
của vua Hồ Quý Ly. Không màng ngôi báu, ông chỉ nguyện được cống hiến
cho quốc gia và trở thành một vị tướng trọng yếu của triều đình. Năm
1407, nước Đại Ngu mới hình thành đã đứng trước nguy cơ xâm lược rõ ràng
của nhà Minh, Hồ Nguyên Trừng đã gấp rút cho thành lập các tổ đúc súng
đạn, chế ra các loại súng trang bị cho quân đội, trong trường hợp cần
ngênh chiến với quân Minh.
Dựa trên những hiểu biết về thuốc súng
và các phương pháp đúc súng cổ truyền, Hồ Nguyên Trừng đã phát huy trí
sáng tạo của một kĩ sư quân sự để tạo ra một loại vũ khí mới có sức công
phá cao chưa từng thấy thời bấy giờ, lấy tên là súng Thần cơ sang pháo.
Về kết cấu, loại vũ khí này được cho là tiền thân của các loại súng
thần công hiện nay, hay cũng chính là khẩu đại bác đầu tiên được chế
tạo.
Ảnh trái: Ngự Lâm Quân của nhà Minh với những khẩu súng hỏa mai từ khoảng thế kỷ 14; Ảnh phải: Một loại súng của nhà Minh vào thế kỷ 14, trước thời Hồ Nguyên Trừng. Khi đó, súng bắn là hỗn hợp lửa và than củi cháy dở (Ảnh: Wikipedia)
Tài năng của Hồ Nguyên Trừng đã phát huy
ngay từ khi ông là tướng trong triều của vua Hồ Quý Ly. Không chỉ đúc
súng, ông còn là tác giả của chiến thuyền cổ lâu, của thế trận độc đáo
chống giặc Minh và của nhiều các công trình trị thủy khác. Tài năng của
ông lại một lần nữa được khẳng định khi nó đã cứu ông thoát khỏi cái
chết. Nhà Minh sau khi đưa ba cha con Hồ Quý Ly về nước, đã tha tội cho
Hồ Nguyên Trừng và giao cho ông một chức quan trong triều đình. Điều mà
nhà Minh mong muốn chính là dùng tính mạng của cha và em trai ông để có
được tài nghệ đúc súng thần cơ của ông. Khi ấy, để làm trọn đạo nghĩa
với cha và em trai, Hồ Nguyên Trừng đã chấp nhận làm quan dưới Triều
Minh và ông được sử sách nhà Minh lưu lại dưới cái tên Lê Trừng.
Người Việt làm khiến cả thế giới thán phục khi xây dựng Tử Cấm Thành
Khi nhắc đến Kiến trúc cổ Trung Hoa, Tử
Cấm Thành có lẽ là một trong những công trình sẽ được nhắc đến đầu tiên
và nhiều nhất. Cung điện được cho xây dựng bởi vua Minh Thành Tổ – Hoàng
đế thứ ba của Triều Minh. Tử Cấm Thành luôn khiến người ta phải choáng
ngợp trước sự đồ sộ, nguy nga, tráng lệ của hệ thống 800 các công trình
bao gồm cung điện, lầu thành, ngự hoa viên… trải rộng trên một diện tích
lên đến 720.000m2.
Kiến trúc đặc trưng của Cung điên cổ này
là sự bố trí, sắp xếp, trang trí các công trình dựa trên những nguyên
lý rất đặc trưng của minh triết phương Đông: Kính Trời, trọng Đạo, Thiên
Nhân hợp nhất, Âm dương hòa hợp. Tử Cấm Thành đối với thế giới giống
như một bảo tàng lịch sử – văn hóa-nghệ thuật có giá trị nghiên cứu vô
cùng lớn. Không ai có thể tưởng tượng rằng vị kiến trúc sư tài năng kiệt
xuất đã thiết kế nên Cố Cung – Tử Cấm Thành lại không phải là người
Trung Hoa mà lại là một người Việt Nam khiêm nhường, luôn tận tâm, tận
sức vì công việc.
Tử Cấm Thành là công trình được Nguyễn An thiết kế và chỉ đạo thi công.
Người Việt ấy là Nguyễn An (1381-1453),
sinh ra ở Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Tài năng của Nguyễn An
đã phát tiết khi ông còn rất trẻ. Năm 16 tuổi, Nguyễn An bắt đầu tham
gia vào hiệp thợ xây dựng cung điện nhà Trần để phát huy tài năng tính
toán và biệt tài kiến trúc hiếm có của mình. Nguyễn An đã bị nhà Minh
bắt làm tù binh cùng với rất nhiều những nhân tài khác của nước Việt.
Trớ trêu hơn nữa, ông bị hoạn và trở thành thái giám phục vụ trong Cung.
Vua Minh lúc bấy giờ đang ấp ủ kế hoạch xây dựng lại cung điện của
triều đình tại kinh đô mới ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Minh Thành Tổ
đã nhìn thấy tài năng kiến trúc của Nguyễn An, lại thêm phần mến phục
đức độ liêm khiết, chính trực của ông, đã trao cho ông trọng trách làm
“Tổng đốc công” chỉ huy công trường xây dựng Tử Cấm Thành.
Tử Cấm Thành – Cung điện đồ sộ nhất dưới thời các triều đại phong kiến Trung Hoa. Ảnh dẫn qua: tourbkk.com
Ở cương vị ấy Nguyễn An đã phát huy hết
được những sở trường của ông, trong cả lĩnh vực thiết kế và lĩnh vực
quản lý, quy hoạch. Ông tham gia tính toán, sắp đặt trong tất cả các
khâu từ tuyển chọn, chuẩn bị vật liệu cho tới đào tạo thợ, thiết kế,
chỉ huy công trình xây dựng. Hãy cùng đọc một nhận xét của Dương Sĩ Kì
trong “Kinh Thành Ký Thắng” về của Nguyễn An: “Nguyễn An tự tay
vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất
cả đều đúng với quy chế. Bộ công và các thợ thuyền đành chịu khoanh
tay, bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất
chúng”. Trong rất nhiều các sách sử khác của Trung Hoa, nhất là của Triều Minh, Nguyễn An vẫn được nhắc đến như một bậc kì nhân.
Tiếng thơm lưu muôn thuở
Không ai có thể phủ nhận rằng chính
những tài năng thiên bẩm của ba nhân vật ấy đã giúp tên tuổi của họ được
lưu truyền đến ngày hôm nay. Nhưng nếu nhìn nhận một cách toàn diện
hơn, nhân cách của ba người con đất Việt ấy cũng chính là điều khiến
người đời sau cảm phục.
Nguyễn An cùng Hồ Nguyên Trừng đều làm
quan cho Triều Minh, hưởng bổng lộc, sống trong giàu sang nhung lụa nơi
đất khách nhưng tấm lòng của hai ông không bao giờ rời khỏi mảnh đất
Việt thân thương, dù chỉ có một người có thể trở về. Người còn lại chỉ
có thể mượn bút để viết nên nỗi lòng của mình với quê cha đất tổ. Về
cuối đời, Hồ Nguyên Trừng đã lấy bút danh “Nam Ông” (Ông già đất Việt)
để viết nên hồi ký “Nam Ông mộng lục”. Rất nhiều người đã tin tưởng vào
tấm lòng với đất nước của ông sau khi đọc cuốn hồi kí ấy.
Không chỉ có vậy, họ đều hoàn thành trọn
vẹn nhiệm vụ của mình nơi xứ người, không để những tủi nhục của hoàn
cảnh nhấn chìm ý chí vươn lên. Nguyễn An, người đã vượt qua nỗi nhục của
thân phận hoạn quan, Hồ Nguyên Trừng không để nỗi đau mất nước hủy
hoại, họ vẫn cố gắng sống, giữ trọn đức độ và tài năng của mình. Họ chọn
cống hiến để để lại những di sản mà ngày nay đã trở thành niềm tự hào
của người dân đất Việt. Mặc dù sử sách Việt thời bấy giờ không ghi nhận
công trạng của họ, có thể còn có những nhận xét trái chiều về lựa chọn
của họ, nhưng chắc hẳn những người Việt của hiện tại sẽ đánh giá công
tâm những gì mà những “vị quan Trung Hoa bất đắc dĩ” ấy đã tận tâm kiến
tạo.
Hoa Quỳnh.
(daikynguyen.com)