Chuyện Của Người - Không Đề
Viết cho người
nào đó có thể là người trong chuyện
Chuyện Một
Năm nó lên ba, một ngày ba đi đâu đó về có chị theo, chị mười tuổi, mẹ mừng
lắm, nhà có thêm người, giờ nó có chị giống như mấy đứa nhỏ nhà hàng xóm trong
chợ. Chị hiền lắm, cái gì cũng cười, cái gì cũng biết làm, quét nhà nấu cơm phụ
mẹ sáng trưa chiều tối, chị lo cho nó đủ thứ, dắt nó đi chơi, chỉ con bướm con
chim, nói này nói nọ nhưng nó chẳng biết gì nhiều. Từ ngày đó, nó ngủ với chị,
với bài ca nhè nhẹ mà chị hát ru em, không còn đòi mẹ nữa. Chị vô học lớp nhất
trường làng, nó biết buồn biết nhớ mỗi khi chị đi học, vắng nhà, trường cách
nhà con đường đất mòn, dày đặc hàng bông Dăm Bục, không bao xa, cứ nghe trống
trường, tiếng học trò lao xao, ồn ào ra về bên đó, nó chạy ra trước cổng rào
nhà chờ, chị hối hả về, hai chị em ôm nhau cười khúc khích.
Chị lên tỉnh, học trung học, Đệ Thất rồi Đệ Lục thì nó vô lớp năm trường
làng, chị xa nhà, thứ bảy chủ nhật mới về, nó nhớ chị nhiều hơn lúc trước, nó
buồn, ba mẹ cũng buồn theo, có chị quen rồi, nó không còn chờ nghe tiếng trống
trường và tiếng học trò lao xao mà chờ tiếng xe đò nhỏ giữa trưa từ trên tỉnh về
ngừng cho khách xuống ngoài đường lộ. Cứ vậy, chị về, nhà vui, ai cũng vui, nó
không màng theo mấy thằng bạn đá banh, đánh đáo, tạt lon, chị cũng phụ mẹ nhiều
hơn trước, xách nước, giặt giũ, nó theo chị chạy chơi ngoài khu đồng cỏ, nhiều
hoa dại cuối chợ, phía bìa làng. Nó thích nhất là chị lấy cái vợt mà ba làm
cho, chạy đuổi bắt mấy con bướm đủ màu, thật đẹp, đem về nhà, chị lấy kim
chích, chích mấy con bướm thuốc gì đó, không biết chị kiếm ở đâu, bỏ vào cái hộp
mủ trắng trong suốt, thêm mấy nhánh cây khô nhỏ tí teo, bướm chết nhưng vẫn còn
nguyên màu sắc, đậu một chỗ trên nhánh cây, nhìn như còn sống, nó khoái chí, hảnh
diện nói về chị khi đám bạn trầm trồ, ngây ngô há miệng ngẫn ngơ.
Theo bước chị, nó lên trung học, năm Đệ Thất thì, lần nữa nó xa chị, xa
hơn và chờ đợi lâu hơn, giờ thì cứ nhớ chị, nó khóc, chị xuống Sài Gòn vào đại
học Sư Phạm, mấy năm sau, tốt nghiệp chị về dạy ở một trường trung học dưới miệt
miền Tây. Về nghỉ hè đầu năm lên Đệ Nhị nó chuẩn bị thi Tú Tài Một, hai chị em
đã thôi không còn bắt bướm lâu rồi nhưng mấy con bướm trong cái hộp của những
năm xưa, để trên đầu tủ giữa nhà vẫn sặc sỡ muôn màu như cũ dù có chút nhạt
phai, trở xuống trường lại, chị hứa sẽ về mừng nó thi đậu. Cuối hè năm sau, gởi
thư báo tin vui, chị nhắn người quen hứa sẽ về đúng ngày.
Cả nhà đi ra đi vào chờ, thường khi chị lúc nào cũng về trước trời giữa
trưa, ngày mừng nó thi đậu, nó sốt ruột, đứng ngóng ra đường lộ, nắng càng lúc
càng rộ lên khỏi mái ngói đầu chợ, chỉ có hai ba chiếc xe đò từ tỉnh xuống
ngang qua nhưng vẫn chưa có chiếc nào từ miệt dưới ngược lên, ba mẹ nó cũng
không khác gì hơn, lo lắng ra mặt, họ chờ và chờ mãi cho tới gần chiều, chị vẫn
chưa về.
Hôm đó, chị đón chuyến xe sớm nhất như mọi khi, trời cũng mù mờ sương
như những lần trước, ngồi trên xe nhìn ra đường, tay cầm gói quà nhỏ, gói giấy
màu cẩn thận, đựng cái đồng hồ hiệu Seiko, món quà mừng em mà chị đã nhờ một chị
bạn cùng dạy chung trường mua khi chị này về Sài Gòn, cười một mình. Không may,
bị trúng mìn, do quân du kích gài lại trong mấy cái mô đất mà họ đấp, chặn đám
lính quận mở đường sáng, đêm hôm qua, xe bể nát, văng xa vô tới bìa rừng trong,
cách đường bờ ruộng lấp xấp nước, chục người bị thương, năm sáu người chết,
trong đó có chị.
Nó cứ ngồi đó khóc, khóc sụt sùi
khóc như mưa, nấm mộ mới đấp còn hăng hắc mùi khô, trời đã đứng bóng và đứng
gió, mây đen một màu xám xịch, người phụ chôn cất, người tiễn đưa đã tản dần,
thưa dần, nghĩa địa làng không còn ai, ba mẹ nó đứng dưới một gốc cây Sao già
không xa nhìn lại, lắc đầu thở dài, tấm mộ bia đá xanh nhạt nhòa tên chị.
Cái hộp trắng có mấy con bướm mà nó cất giữ để nhớ chị, mỗi khi chị đi vắng,
bao nhiêu năm qua từ ngày chị mới về nhà đã chôn theo dưới mộ, để chị ở dưới đó
còn có nó bên cạnh mà đừng buồn, nó cố giang tay thật rộng, đưa qua đưa lại cái
đồng hồ Seiko, mong chị thấy nhưng không làm sao ôm trọn được nấm mồ, nước mắt
ràng rụa chảy dài xuống thấm đất khô, nó bật thành tiếng nấc nghẹn “chị ơi chị ơi”, bất chợt trời đổ mưa.
Chuyện Hai
Đầu năm lên Đệ Nhất, anh dọn về chỗ ở trọ khác, hy vọng năm cuối trung học
này, không phải lang thang xóm ngoài phố trong nữa. Chỗ trọ mới, xế ngã ba đường
tới trường không xa, một căn nhà gạch nhỏ khuất mình đàng sau dãy hàng rào cây
sa – bô – chê già, không rậm rạp lắm, che bóng mát cho hai ba cụm bông Sứ trắng
pha chút vàng nhạt, lưa thưa trên sân, người chủ khá giả bỏ trống, để vậy, thường
ở dưới Cần Thơ, ít khi về, từ cửa sổ phòng trước có thể nhìn thấy người xe đi về
ngoài đường lộ và nhất là thấy rõ mồn một căn nhà lầu, kín cổng cao tường, đối
diện phía dãy phố bên kia đường.
Chiều xuống thấp, đêm chập choạng lên đèn, ngay từ ngày đầu dọn về, chờ
mai vào học, ngồi nhìn ra sân, văng vẳng bên đó sang, tiếng đàn dương cầm từ
trên lầu trên căn nhà lầu, réo rắt, du dương thanh thoát mấy bài tình ca quen
thuộc “lá đổ muôn chiều, mộng dưới hoa,
thu vàng, ngậm ngùi...” làm anh ngớ ngẫn, thả hồn theo mà khen thầm. Không
biết tiếng đàn này có từ bao giờ nhưng từ đó, chiều nào cũng như chiều nào, đúng
giờ, tiếng đàn vang lên, ngay cả trong những ngày mưa, bận gì, lo gì, anh cũng
phải ngồi ở cửa sổ, sách vở bút mực, xếp lại, chờ nghe cho tới bài cuối cùng, để
rồi tiếc nuối khi tiếng đàn ngưng bặt, đêm nằm ngủ vẫn còn ray rứt nhớ, vậy mà
thành thói quen, hễ cứ chiều xuống là đi ra đi vào chờ, hơn là con nít chờ mẹ
đi chợ về.
Người con gái căn nhà lầu, rồi thì ra, cùng học chung trường, sáng nào
cũng vậy, anh phải đứng nép khựng lại, chưa bước ra cửa, bên đó cổng mở, người
con gái đi ra, tay cặp tay nón, nói qua lại gì đó với một cô nàng khác, cũng áo
trắng đôi tà, đứng chờ từ nãy giờ rồi bên nhau khúc khích cười tới trường, giữa
đám học trò ồn ào trên đường, sau đó mới đi. Tan trường, đứng khuất ở một góc
hiên của cái quán nước ngay đầu cổng trường, chờ hai cô trên đường về, qua
ngang, chầm chậm đi sau, từ xa, cánh cổng căn nhà lầu mở rồi khép kín lại, lạnh
lùng như mọi ngày, cô bạn thong thả bỏ đi dần mờ xa đầu dốc.
Anh quen cô bạn của người con gái căn nhà lầu, thường đứng chờ đi học
chung trước cổng một cách tình cờ, khi gặp nhau tại tiệm sách của gia đình thằng
bạn quen chung lớp ngoài phố chợ, không dè, cô lại là bạn gái của hắn ta, thế
là vui cả làng, cô cho biết cả hai người học cùng năm Đệ Nhất, người con gái đó
là người đàn dương cầm mà anh nghe mỗi chiều và là con một trong nhà, cha mẹ
làm chủ nhiều cửa hàng ở Sài gòn. Về nhà trọ, cũng buổi chiều, anh bất chợt thấy
yêu tiếng đàn và yêu cả người đàn, rồi từ hôm đó, anh thức khuya hơn trước,
không thức vì mớ sách ngổn ngang mùa thi mà vì khung cửa sổ nhà bên đó vì, anh đã
biết yêu rồi.
Qua cô bạn đi chung, anh quen người con gái nhà lầu, sau đêm lửa trại
liên trường tỉnh, rồi có dịp cùng đường tan trường về, không hẳn là sánh bước,
lần nào cũng vậy, tới nhà, người con gái chỉ mĩm cười chào, rồi nhanh bước vào,
cánh cổng cứ lạnh lùng khép kín lại. Trước Tết, sau nhiều ngày nhiều đêm trằn
trọc mơ thầm, anh viết cái thư tỏ tình thật dài, cất đó, chờ qua Tết xong, sẽ tìm
dịp nhờ ai đó đưa giùm.
Buổi chiều, sau Tết vào học lại, từ quê nhà lên, như thường lệ anh ngồi
háo hức, nhìn qua căn nhà lầu chờ nghe tiếng đàn của người con gái mà anh đã biết
tên, cánh cổng nhà vẫn vậy, khép kín và khép kín. Nắng ngoài sân tắt mất từ lâu
rồi, anh cũng chờ lâu rồi, đêm xuống đen, ngoài đường đã lên đèn, anh lặng người
đi, bên đó vắng im, không có tiếng đàn, anh đứng dậy, đẩy cửa sổ rộng ra, nhìn
qua lần nữa, căn phòng trên lầu mù mờ, cửa sổ không thấy mở. Vào học,
không thấy người con gái căn nhà lầu đi học, cô bạn giờ đi một mình, không còn
chờ trước cổng.
Cũng một buổi chiều, chút lửa nhỏ trên bếp vừa đủ để anh bùi ngùi đốt lá
thư dài chưa kịp gởi sau khi biết tin, người con gái căn nhà lầu đã theo gia
đình rời tỉnh về Sài Gòn. Căn nhà đã có chủ mới, sắp dọn tới nay mai và cũng từ
hôm đó, anh bắt đầu sợ tiếng đàn dương cầm.
Chuyện Ba
Sau mấy năm dài cặm cụi chăm lo, nâng niu từng
cọng cỏ ngọn cây, từng bờ mương con đường, mà ba mẹ anh đã dày công sức bỏ ra,
cái đồn điền cao su chừng trên dưới hai mươi mấy mẩu đất, đã bắt đầu khai thác
sau khi cái nhà máy chứa mủ, xấy khô, đóng bành đã xây dựng xong, ở khu ven ngoại
ô của tỉnh, xa xa phố chợ khỏi xóm nhà lẻ loi lưa thưa, đèn đường khi mờ khi tỏ.
Từ ngày đó, anh háo hức, tuần nào cũng về trên nhà, mới đó mà nhớ, nhớ
hàng cao su cao cao xanh lá thẳng hàng, chạy song song hai bên những con đường
đất ươm ướm màu bụi đỏ nhạt, đan kín nhau, che bóng nắng, mát rượi, nhớ thương
cho ba mẹ, chạy lên chạy xuống, nhà dưới xã nhà trên tỉnh, mướn người mướn xe, ôi
đủ thứ chuyện, xuống Sài Gòn học mà cứ thấp tha thấp thỏm.
Lần này về, nhà đã có người làm việc, xuống xe lôi máy, từ ngoài đường
vô nhà máy đã thấy có người ngồi người đứng ngoài hàng ba, toàn là đàn bà con
gái, chỗ để nghỉ ngơi, tụm nhau hình như sửa soạn ăn trưa, mười mấy cái xe đạp cột
thùng thiếc đựng mủ dựng hàng dài, dọc theo bờ rào kẽm gai, trồng đệm thêm mấy
cây ớt, cao chưa khỏi gối xum xuê lá.
Thấy anh, họ ngừng nói chuyện trố mắt nhìn ra, anh cũng chưa kịp chào
thì, chú hai phụ ba lo việc coi sóc nhà máy từ phía sau mấy cái hồ chứa mủ, đi
ra, chú cũng trố mắt “ủa mới về hả con”,
anh “dạ” một tiếng nhỏ, rồi chú quay
vô trong “anh tư ơi, thằng út về nè”,
anh gật đầu cười chào họ, lách qua mấy cái hồ đi, khuất chưa xa, nghe tiếng chú
tư “con ông chủ ”, chắc là nói với mấy
người làm.
Trời quá trưa, mấy người đi cạo mủ cũng chắc vừa ăn trưa xong, ba anh dặn
dò chú hai gì đó, anh đứng bên ông, gật đầu cười chào họ, hai cha con thả bộ ra
đường lộ, chờ đón xe lôi máy ra ngoài phố chợ, nhìn lại sau, chú hai nói qua
nói lại với họ, họ nhìn theo ra đường, có tiếng cười.
Sau hai ba lần về nhà, lạ rồi
quen, tính anh vốn đã hiền như tên ba mẹ đặt, lại có tài ăn nói, nên không nói
gì tời chú hai, giờ cả mấy chị con gái cạo mủ đều thích đều thương, duy chỉ có
cô nhỏ nhất trong nhóm, chắc nhỏ hơn anh ba bốn tuổi, tóc dài, dễ thương, có
duyên, là còn mắc cở, ngó trời ngó đất. Lần nào cũng vậy, từ dưới Sài Gòn vô nhà máy, luôn đúng giờ họ từ sở cao su về nghỉ,
anh thôi không còn theo ba anh ra chợ, mà tụm lại ăn cơm chung, mới đầu thì cơm
do chú hai lo, sau đó bớt ngại, có gì ăn nấy, nên mấy chị cũng để phần cho, cá
khô, dưa luộc, mắm muối gì không sao, ngồi ăn quanh nhau, cười nói vang rân, ba
anh ngồi trong nhà máy nhìn ra, lắc đầu cười “cái thằng”.
Cô con gái nhỏ, gia đình nghèo, không có ba, chỉ còn mẹ với bà ngoại,
nhà miệt trên, ngày đi làm, lúc nào cũng có mặt đúng giờ tại nhà máy, chuyện tới
chuyện lui, mới biết thêm, cô còn đang học lớp đệ tam trường tỉnh, thấy thương
tình, ba cho cô làm ngày cuối tuần, cô siêng năng, lanh lẹ, ăn nói dịu dàng, dạ
thưa, cho nên ai cũng thương cũng mến, chú hai không ngớt miệng tiếng một tiếng
hai “con gái nuôi ”, phần anh, lúc
nào cũng gợi chuyện, kể chuyện phương xa, chuyện học hành, lời khuyên lời bảo,
anh anh em em, do vậy mà ngày thêm gần gũi hơn.
Từ lúc biết nhau mến nhau hơn, tuần nào về anh cũng mang theo chút quà
Sài Gòn, kẹo ngọt, bánh tây, đồ hộp... những thứ người ta bán đầy ở chợ trời
Hàm Nghi, thêm mớ sách mớ truyện cho cô gái nhỏ, gọi là “mấy chị ăn lấy thảo” như thay cho lời cám ơn đã giúp gia đình mình.
Và từ đó, mấy chị lớn thường nghe cô gái nhỏ hỏi họ nhiều hơn về anh, và
khi nói đến anh là cô thường nhìn xa xăm, tưởng chừng như đang mơ mộng, nhứt là
những lúc nghỉ ăn trưa thứ bảy, cô gái nhỏ xem ra thẩn thờ hơn, sầu tư biếng lự,
cứ ngóng ngóng trông trông ra đường lộ, mấy chị đủ lớn để hiểu chuyện gì, không
biết sao, nếu thật thì “thương cho em quá”,
chú hai cũng đã thấy vậy, cười mà thở dài lặng thinh “tội nghiệp”, với cô con gái nhỏ, giờ thì sách vở lớp học sân trường
có thêm cái gì đó, trong từng trang, từng hàng chữ, một cái gì khó tả khó quên,
nhớ ray nhớ rứt, bảy ngày trong tuần cô cứ mong cho tới ngày thứ bảy.
Sau nghỉ Tết, đi làm trở lại, thứ bảy, anh về cùng với cô bạn gái học
chung trường, người Sài Gòn, cũng lúc giờ mấy chị làm nghỉ ăn trưa, anh và cô bạn
gái nhanh nhẩu vui cười chào từng người, rồi quày quả đi vào trong nhà máy, bữa
cơm hôm nay không có anh, không có tiếng cười, cô con gái nhỏ ngồi chết lặng, mấy
chị lớn nhìn nhau, không ai nói tiếng nào, mọi thứ cũng chết lặng.
Một lát sau, ba anh và cô bạn gái đi ra trước, anh theo sau, tới nhóm
người làm, đang dọn dẹp sửa soạn trở lại rừng cao su, anh chào từ biệt, hẹn tuần
sau gặp lại, anh ra tới ngoài đường, họ lần lượt đẩy xe đạp đi, chiếc xe lôi
máy khuất dần cuối đường, trời nắng và gió lùa chút bụi đỏ, cô con gái nhỏ cúi
mặt, không ngó theo, đi cuối cùng, nghẹn ngào khóc một mình.
Từ hôm đó, rồi những thứ bảy sau, cô con gái nhỏ đã thôi không còn đến
làm nữa, anh cũng không còn gặp lại, cuốn sách “Tuổi Hoa” màu tím làm quà không có người nhận và trên chuyến xe chiều
về Sài Gòn, nhìn ra đường, anh bất chợt thở dài, buồn buồn mà thương “biết rồi tại sao”.
Thuyên
Huy
Chuyện tự dựng
mà tưởng chừng như có thật – Sắp Hạ 2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét