Lãng Nhân Phùng Tất Đắc (1907-2008) đã từng nói: “Nghề chơi cũng lắm công phu… huống hồ chơi… chữ”!
Trong
cuốn “Chơi Chữ” do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1970, nhà văn còn phân
tích một cách cặn kẽ: “Hai cách chơi chữ trong tiếng Việt được thấy
nhiều nhất là
-Nói lái
-và dùng chữ “đồng âm khác nghĩa”.
Tiếng
Việt là ngôn ngữ độc âm, nhờ thế rất dễ dàng trong lối Nói lái mà tiếng
Anh gọi là “Spoonerism”. Hẳn ai cũng đều từng nghe câu này:
“Vấn đề khó khăn nhất bây giờ là chuyện đầu tiên“. Hoá ra, “đầu tiên” có nghĩa là… tiền đâu?
Quý
ông được khen là NGƯỜI SÁNG CHÓI thì không nên vội mừng vì có thể họ
bảo mình là “NGƯỜI SÓI TRÁN Còn với phái nữ (phải xin lỗi trước những
quý bà có tên Hương) nếu được ai khen đẹp tựa hình ảnh HƯƠNG QUA ĐÈO thì
phải cẩn thận, họ đang bảo mình là… HEO QUA ĐƯỜNG.
Chơi
chữ có thể là “Đồng âm, Khác nghĩa”. Ngày xưa, đã có lần báo Trung Bắc
ra một câu đối: “Vợ cả vợ hai, hai vợ cùng là vợ cả”. Thâm thúy nằm
trong chữ “cả”, có nghĩa là “lớn” nhưng lại cũng có nghĩa là “cùng”. Hóa
ra, vợ lớn hay vợ nhỏ gì đều cũng là vợ… Quan trọng không kém gì nhau!
Năm 1945, toàn quốc thi đua kháng chiến chống Pháp… nhưng lại có một nhà thơ nào đó than thở:
“Chú phỉnh” tôi rồi “chính phủ” ơi.
“Chiến khu” đong lúa “chú khiêng” rồi.
“Thi đua” chi lắm “thua đi” mãi.
“Kháng chiến” lâu dài “khiến chán” thôi!
Thêm một bài thơ sử dụng thủ pháp nói lái giữa "răng" và "lợi", cũng của tác giả vô danh:
“Bà già đi chợ Cầu Đông
Xem bói một quẻ, lấy chồng lợi không?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng
Lợi thì có lợi... nhưng răng không còn!”
Quảng Bình vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp rất nghèo. Để diễn tả điều này, có người đã nói lái cho vui:
"Đến Đèo Ngang là đến xứ… đang nghèo".
Cũng
vì thế, có một truyện tiếu lâm: Một ngôi làng nọ ở Đèo Ngang, nghèo khổ
quá nên cầu xin ông Trời giúp cho bớt khổ. Ông Trời bảo:
-"Các ngươi đặt tên Đèo Ngang, có nghĩa là “đang nghèo”.
Vậy đổi sang tên “Đèo Nghếch” mới được". Quả thật, sau đó dân làng… “đếch nghèo”.
Dân
làng ăn nên làm ra, nhà cao cửa rộng, con đàn cháu đống. Nhưng chẳng
bao lâu sau dân làng lại nghèo xác, nghèo xơ. Dân báo cáo với Trời, ông
Trời đáp tỉnh bơ:
-"Ôi, các
ngươi ĐÔNG CON thế, nuôi sao nổi. Muốn thoát nghèo, các ngươi phải đổi
tên lần nữa. Này nhé, đổi sang “Đèo Đứng” đi…”. Đọc tới đây chắc các bạn
hiểu được lối nói lái của Trời là… “Đừng đ…”!
Từ
Quảng Bình chúng ta xuống đến Quảng Nam. Dân Quảng Nam lại có tật phát
âm sai nhưng chính đặc điểm này lại là mảnh đất màu mỡ cho nói lái phát
triển.
Trong
các nhóm chữ nói lái, hầu hết đều nhắc đến bộ phận kín đáo trên cơ thể
hoặc những điều bị xem là "cấm kỵ" trong ngôn ngữ, chỉ có người bình dân
mới dám mạnh dạn nói dưới hình thức nói lái, dù chỉ để đùa.
Dưa
leo thì phải là loại “leo đá” và phải được “thái dọc” ăn mới ngon. Mực
thì món đặc biệt vẫn là mực xào với ngò, là “món mực ngò”. Ăn mít phải
chọn loại “mít đặt” và có người đút cho thì ăn mới thấy ngon.
Thời
cận đại có thi sĩ Bùi Giáng (1926-1998), còn được gọi là nhà thơ Bán
Dùi, vì ông ưa nói lái. Kiểu nói lái của Bùi Giáng thật khác người… mà
cũng không cần người đọc có hiểu hay không.
Ông
thường dùng những từ ngữ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn
lý tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp… Trong bài thơ “Mưa
nguồn” ông viết những câu thật bí hiểm:
“Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra…”
Trong
văn xuôi hình như ít thấy nói lái. Một trong những tác giả sở trường
môn này phải kể đến Vương Hồng Sển (1902- 1996). Rải rác trong tác phẩm
"Hơn nửa đời hư" ông chen vô mấy chữ "ủ tờ", "mống chuồng"…
Cũng
chính tác giả của "Saigon năm xưa", "Saigon Tạp pín lù", Vương Hồng Sển
đã đặt tên cho xe thổ mộ là xe “u mê”. Ông giải thích "vì sàn xe bằng
gỗ cứng, khách ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ
đều phải ê mu… nói lái cho bớt tục"!
Sang
đến thời điêu linh tức là thời “khoái ăn sang” vì sáng nào cũng ăn
khoai lang sau khi được “phỏng giái”… Thầy giáo thì “tháo giầy”, giáo
chức phải “dứt cháo” nên mới có thơ:
“Chiều ba mươi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang”.
Cũng
có người sợ nói lái nên tránh đặt tên con những chữ có thể nói lái
thành thô tục. Chẳng hạn như tên Thái, dễ bị ghép thành “Thái dọt”,
“Thái dúi”… "Hải dưới"
Con gái thì tránh đặt tên Lài vì sợ bị dễ ghép với chữ có âm “ồn” để thành “Lài dồn”, “Lài cồn”, “Lài mồn”…
Giữa
tình yêu trai gái và màu sắc tưởng chừng như chẳng có gì liên quan… Ấy
thế mà người ta liệt kê “bốn sắc màu của tình yêu” bằng cách nói lái,
theo từng giai đoạn của đời người.
Thuở
mới yêu nhau, sắc màu đẹp nhất chính là “màu nho” vì họ thường… “mò
nhau”. Khi đã lấy nhau rồi, về ở chung với cha với mẹ, phòng ốc chưa
được riêng tư, cứ vội vội vàng vàng những khi vợ chồng âu yếm nhau để
tình yêu trở thành “màu lam” tức là… “làm mau”.
Đến
khi làm ăn khấm khá, có nhà có cửa, lúc này là lúc sung sướng nhất,
cuộc đời có “màu pha lê” với hàm ý… “cứ phê… là la”. Nhưng rồi tuổi đời
chồng chất, sức khỏe giảm dần, đến lúc chỉ còn lại với đời một “màu đọt
chuối” vì… “cứ chọt là đuối”!
Nói
lái ngày nay trở thành quen thuộc đến độ người ta sử dụng nó một cách
tự nhiên như “làm sương cho sáo” (làm sao cho sướng), hiện đại hại điện,
lộng kiếng (liệng cống), “chà đồ nhôm – chôm đồ nhà”, “cầu gia đạo –
cạo da đầu”, “ban lãnh đạo - bao lãnh đạn”, “đơn giản” như “đang giỡn”,
“bí mật” bị “bật mí”…
Đôi
khi nói lái cũng rất nhiêu khê. Món “mộc tồn” được “chiết tự” từ “cây
còn”… có nghĩa là con cầy. Món ưa thích của một số người khoái ăn thịt
chó.
Bạn
có bao giờ nghe giai thoại giải thích “đại phong” là “lọ tương”? Đại là
lớn, phong là gió. Đại phong là gió lớn, gió lớn thì đổ chùa, chùa đổ
thì tượng lo. Cuối cùng thì “đại phong” trở thành… lọ tương!
Để
kết thúc chuyện nói lái, xin kể ra đây một chuyện tiếu lâm giữa hai vợ
chồng “hay chữ”. Họ làm thịt một con gà và giao ước mỗi khi gắp một
miếng thịt gà phải… nói lái mới được ăn. Anh chồng chọn miếng đùi gà và
nói “ui cái đằng” để nhấm nháp một cách ngon lành.
Chị
vợ còn đang suy nghĩ tìm chữ thì anh chồng lại nói “ươn cái lằn” rồi
gắp miếng lườn gà về bát của mình. Lại nghe anh chồng tấn công tiếp “âu
cái đằng” và gắp miếng đầu gà.
Chị vợ tức quá vì chưa được miếng nào, bèn đứng dậy nói dỗi:
“Ông chọn toàn miếng ngon không à… còn cái này đây, ông có “ôn cái lằn” thì mời ông xơi cho đủ bộ?”.
Người ta rút ra một điều: nói lái phải tục mới vui, mới cười được. Chứ nói lái bình thường thì “hiền” quá, chả có gì là hấp dẫn!
ST
H.phi chuyển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét