Tác giả: Amelia Pollard vàSaleha Mohsin, Bloomberg, 23 tháng 6, 2022
Người dịch: Lê Nguyễn
Gắng sức kiềm chế giá cả tăng vọt, các ngân hàng trung ương trên thế giới đang ra sức giúp thúc đẩy tạo lợi thế cho sức mua nội địa và không quan tâm mấy đến những bất lợi của các nhà xuất khẩu.
***
Bà Isabel Schnabel, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã hành động. Hồi tháng Hai, bà trưng ra một biểu đồ cho thấy đồng Euro đã suy yếu ra sao so với đồng đô la Mỹ. Hai tháng sau, Tiff Macklem, Ngân hàng Trung ương Canada đã cảnh báo về sự sụt giảm của đồng đô la Canada. Chủ tịch Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ Thomas Jordan cũng gợi ý rằng ông muốn thấy có một đồng Franc mạnh hơn.
Đồng đô la Mỹ đã tăng vọt – hiện đã tăng 7% trong năm – khi Cục Dự trữ Liên bang đang bắt đầu chuẩn bị mạnh mẽ để chống lại lạm phát [1]. Và cứ như thế, từng nơi một, các ngân hàng trung ương ở các nước khác, cũng đang gắng sức tranh đấu mạnh mẽ để chế ngự cuộc tiến bước không ngừng của lạm phát ngay tại sân sau nhà của họ, họ bắt đầu gửi những tín hiệu không mấy tế nhị rằng họ sẽ phải tiến tới việc chào đón một đồng tiền mạnh hơn để giúp giảm chi phí nhập khẩu bằng cách thúc đẩy sức mua ở nước ngoài. Đây là một hình thức can thiệp hiếm có để thuyết phục và làm chuyển động thị trường. Vào ngày 16 tháng 6, hai trong số họ đã tăng tỷ giá lãi suất: Thụy Sĩ đã gây ngạc nhiên cho các nhà giao dịch [2] với đây là lần tăng tỷ giá đầu tiên kể từ năm 2007, đưa đồng Franc tăng vọt lên mức cao nhất trong bảy năm. Vài giờ sau, Ngân hàng Trung ương Anh thông báo tăng tỷ giá của riêng mình và đồng thời báo hiệu những đợt tăng lớn hơn sắp đến.
Giá trị của tiền tệ đã nổi lên như một phần ngày càng lớn của phương trình lạm phát. Nhà kinh tế học Michael Cahill của Goldman Sachs Group Inc. cho biết ông không thể nhớ lại thời điểm mà các ngân hàng trung ương của các quốc gia phát triển đã từng nhắm mục tiêu vào các loại tiền tệ mạnh hơn một cách quyết liệt như vậy. Thế giới ngoại hối gọi đó là “cuộc chiến tiền tệ ngược” —vì trong hơn một thập kỷ, các quốc gia chỉ tìm kiếm điều ngược lại. Đồng tiền yếu hơn có nghĩa là các công ty trong nước có thể bán hàng hóa ra nước ngoài với giá cạnh tranh hơn, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Nhưng với chi phí của mọi thứ từ nhiên liệu, thực phẩm đến các thiết bị gia dụng tăng cao, việc tăng cường sức mua đột nhiên trở nên quan trọng hơn.
Đó là một trò chơi nguy hiểm. Nếu không được kiểm soát, sự cạnh tranh quốc tế này có nguy cơ gây ra sự biến động lớn về giá trị của các loại tiền tệ chi phối nhất, các nhà sản xuất phụ thuộc vào xuất khẩu, chi tiêu tài chính của các công ty đa quốc gia và chuyển gánh nặng lạm phát trên toàn thế giới.
Giá trị của một đô la Mỹ bằng
Nguồn: Bloomberg
Chiến tranh ngoại hối nổi tiếng là một trò chơi có tổng bằng không. Sẽ có kẻ thắng người thua. Alan Ruskin, giám đốc chiến lược quốc tế tại Deutsche Bank AG, cho biết: “Mọi quốc gia đều muốn điều giống nhau, nhưng“ bạn không thể có điều đó trong thế giới tiền tệ. ”
Một trong những can thiệp quy mô lớn đáng chú ý nhất của chính phủ [3] vào thị trường tiền tệ là vào năm 1985. Giá trị của đồng đô la Mỹ đã tăng vọt trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Ronald Reagan do lãi suất dài hạn tăng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay so với đồng bảng Anh.
Ban đầu, chính quyền coi đây là sự tôn vinh sức mạnh của nền kinh tế Mỹ, nhưng những hạn chế đã nhanh chóng trở nên rõ ràng. Reagan đã bị áp lực từ các nhà sản xuất Hoa Kỳ, những người ngày càng thấy khó tiếp thị hàng hóa của họ ra nước ngoài. Lee Morgan, cựu giám đốc điều hành của tập đoàn máy móc khổng lồ Caterpillar Inc., ước tính rằng hàng trăm công ty Mỹ đang mất hàng tỷ đô la đơn đặt hàng quốc tế hàng năm cho các đối thủ cạnh tranh từ Nhật Bản do đồng đô la mạnh hơn.
Vào tháng 9 năm 1985, Thống Đốc ngân hàng trung ương Hoa Kỳ đã gặp các đối tác Pháp, Đức, Nhật Bản và Anh tại khách sạn Plaza ở thành phố New York. Trong cái được gọi là Hiệp định Plaza, họ đã đưa ra một kế hoạch sẽ khiến đồng tiền của Mỹ giảm 40% trong hai năm tiếp theo cho đến khi các bộ trưởng tài chính ký Hiệp định Louvre ở Paris để chấm dứt nỗ lực này.
Kể từ đó, các chính phủ hiếm khi can thiệp một cách rõ ràng để ảnh hưởng đến giá trị của tiền tệ. Những nỗ lực nhỏ hơn thì phổ biến hơn. Vào năm 2010, Bộ trưởng Tài chính Brazil, Guido Mantega đã nêu tên “cuộc chiến tiền tệ” khi ông cáo buộc các quốc gia bao gồm Thụy Sĩ và Nhật Bản cố tình làm suy yếu đồng tiền của họ để tăng khả năng cạnh tranh ở nước ngoài. Căng thẳng đã làm sâu sắc thêm rạn nứt giữa các nền kinh tế thị trường mới nổi và các nền kinh tế phát triển hơn họ.
Trong nhiều năm qua, Trung Quốc đã làm dấy lên những lời chỉ trích gay gắt khi từ chối cho phép đồng nhân dân tệ mạnh lên để cố tạo giá xuất khẩu rẻ nhằm thúc đẩy sự bùng nổ kinh tế. Donald Trump đã nhắm mục tiêu tỷ giá hối đoái của đất nước vào chiến dịch tranh cử. Khi Mỹ và Trung Quốc đánh nhau bằng đòn thuế quan ăn miếng trả miếng trong nhiệm kỳ tổng thống của ông, Trung Quốc đã cho phép đồng nhân dân tệ suy yếu xuống dưới mức tượng trưng là 7 so với đồng đô la – một ranh giới mà nó đã không vượt qua trong hơn một thập kỷ – làm dấy lên cảnh báo rằng tiền tệ có thể được “vũ khí hóa” và khiến Bộ Tài chính Hoa Kỳ coi Trung Quốc là kẻ thao túng tiền tệ.
Có lẽ, không có một quốc gia nào ngày nay nổi tiếng như vậy về nỗ lực giữ kín giá trị đồng tiền của mình bằng Nhật Bản, nơi mà sự sụt giảm của đồng yên đã làm đầy túi cho các công ty như Toyota Motor Corp. và Nintendo Co.Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản Haruhiko Kuroda vẫn tiếp tục cho thấy một lập trường ôn hòa – đồng thời thừa nhận rằng sự lao dốc của đồng yên là không tốt cho nền kinh tế. Đồng tiền này đã giảm [4] hơn 18% trong năm nay. Các nhà giao dịch ngoại hối đang ngày càng đặt cược vào ngày mà các ngân hàng trung ương sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc đảo ngược lập trường của họ.
Trong cuộc chiến tiền tệ ngày nay, đồng đô la Mỹ mạnh được cho là có nhiều thứ để mất nhất. Nhưng mức tăng của nó vào năm 2022 đã tạo ra một điều may mắn cho Cục Dự trữ Liên bang đang cố gắng chống lại mức tăng giá nhanh nhất trong bốn thập kỷ. Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen đã nhấn mạnh cam kết của chính quyền Biden đối với tỷ giá hối đoái là “do thị trường quyết định”, nhưng điều đó đã không ngăn được các chính trị gia ăn mừng cho sự tăng giá của đồng đô la. Thượng nghị sĩ Pat Toomey thuộc Đảng Cộng hòa của bang Pennsylvania cho biết trên kênh truyền hình Bloomberg vào tháng 5: “Fed phải làm công việc của mình — nó phải đi đúng hướng” trong việc chống lại lạm phát. Sức mạnh của đồng đô la “giúp ích rất nhiều,” ông nói.
Mỹ có thể không được hưởng lợi thế này lâu. Việc tăng tỷ giá của Thụy Sĩ và Anh đã đè nặng lên đồng đô la, mà trước đó vào tháng 6 đã ghi nhận mức giảm hai ngày lớn nhất kể từ tháng 3 năm 2020.
Một số ngành sẽ hoan nghênh cho sự suy yếu của đồng đô la Mỹ [5]. Salesforce Inc. cho biết họ dự đoán đồng đô la tăng giá sẽ làm họ tốn mất khoảng 600 triệu đô la doanh thu trong năm tài chính này. “Đồng đô la thậm chí có thể đã có một quý mạnh hơn chúng tôi,” Giám đốc điều hành Marc Benioff cho biết trong một cuộc họp về thu nhập vào tháng Năm.
Giáo sư kinh tế học Jeffrey Frankel của Đại học Harvard cho biết, các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước xuất khẩu như Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ, là những nước dễ bị tổn thương nhất. Ông nói: “Đó là điều tồi tệ nhất trên hết tất cả cho các nền kinh tế mới nổi – khi đồng tiền của bạn giảm giá so với đồng đô la, trong khi đó bạn lại phải gánh nợ bằng đồng đô la”.
Chính xác như thế nào, khi một đồng tiền mạnh hơn sẽ làm giảm được lạm phát ra sao thì vẫn chưa ai thấy rõ ràng. Nhà kinh tế trưởng toàn cầu Nathan Sheets của Citigroup Inc., người trước đây làm việc cho Bộ Tài chính và Cục Dự trữ Liên bang, cho biết: Nhưng trong thời đại lạm phát tràn lan, nó có thể làm được nhiều điều tốt hơn. Sheets cho biết mức tăng 10% của đồng đô la trước đây sẽ chỉ làm giảm lạm phát khoảng nửa điểm phần trăm. Ngày nay, ông ấy nói, nó có thể là “ tròn một phần trăm ”.
Các chuyên gia cảnh báo rằng bất kỳ sự can thiệp nào của chính phủ đều có nguy cơ thất bại cao. Mark Sobel, một cựu quan chức hàng đầu của Bộ Tài chính Mỹ, hiện là Chủ tịch Diễn đàn các Định chế Tài chính và Tiền tệ Chính thức, một think tank, cho biết: “Nhắm vào mục tiêu tỷ giá hối đoái có thể là một sự tập luyện thường bị thay đổi và khó đạt kết quả mỹ mãn”. Ông nói: “Dự đoán và hiểu cách các thị trường hối đoái có thể phản ứng ra sao cho sự lựa chọn một chính sách nhất định nào đó, thường có thể là một việc lặt vặt của một kẻ không mấy sáng dạ”.
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét