Vài hàng về tác
giả
Bùi Vĩnh
Phúc sinh năm 1953 tại Hà Nội. Dạy Việt văn và Pháp văn ở Sàigòn cho đến 1977.
Sống ở Mỹ từ 1978. Dạy học và làm việc trong ngành Tâm lý-Xã hội trong vòng 25
năm trở lại đây. Hiện dạy Anh văn cũng như Ngôn ngữ và Văn hóa Việt
Làm thơ
từ 1968. Viết lý luận phê bình văn học từ 1982. Trong ban chủ biên cũng như đã
cộng tác với nhiều tạp chí văn học và nghiên cứu tại Mỹ và trên thế giới.
Những
tác phẩm đã xuất bản tại Mỹ có thể kể:
• Trịnh Công Sơn / Ngôn ngữ & những ám ảnh nghệ thuật (2005).
• Lý Luận và Phê Bình / hai mươi năm văn học Việt ngoài nước (1975-1995) (1995)
• Ngôn Ngữ và Văn Hóa Việt
• Ở Một Nơi Nào (giáo trình đại học/tuyển, biên tập, giới thiệu) (1995)
• Quê Hương, Cầm-Tấu-Khúc Kỷ Niệm (tâm bút) (1982)
• Những Cơn Mưa Trở Về (tùy bút) (1981, 1987)
Cũng
cùng viết chung trong một số công trình nghiên cứu văn học Việt
20 Năm Văn Học Việt
Tuyển
Tập Truyện Ngắn
Hai Mươi
Năm Văn Học Việt
Tản mạn văn học
với nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc
Nguyễn Mạnh Trinh
Lời Giới Thiệu: Dưới
đây là bài "tản mạn văn học" dựa trên cuộc phỏng vấn/nói chuyện—được
thực hiện vào ngày 14.1.2011 của nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh và phóng viên Nhã
Lan của Hồn Việt
Direct TV và Little Saigon Radio, tiểu bang
1.
Theo anh, ta nên giới hạn
khoảng thời gian như thế nào để anh có thể dễ dàng hơn trong công việc
nhận định những nét đặc thù và những hiện tượng của dòng văn học Việt Nam ở
hải ngoại?
Thật ra, tùy vào mục đích
mình nhắm tới mà ta có thể làm một cuộc duyệt xét văn học hải ngoại trong
khoảng thời gian nào. Trong buổi nói chuyện ngày hôm nay, tôi nghĩ chúng ta có
thể tính trong khoảng năm, mười năm trở lại đây. Dù sao, ở một số khía cạnh,
chúng ta có thể mở rộng biên độ thời gian hơn.
2.
Trong nhận xét của anh, có
những hiện tượng văn học nào đáng nói trong thời gian đó?
Có nhiều biến động, từ tâm
thế đến kỹ thuật viết, kỹ thuật trần thuật, tổ chức văn bản, v.v… Nhưng đặc
biệt là sự tiến bộ về kỹ thuật trong việc thông tin và phổ biến bài vở cũng như
các tác phẩm văn học trên các trang mạng toàn cầu. Điều này làm thay đổi phần
lớn cách tiếp cận văn học, văn chương của rất nhiều người, nhất là những người
có khả năng sử dụng máy computer… Sự thông tin và đưa ý kiến phản hồi nhanh
chóng về các bài vở được phổ biến trên mạng khiến phương tiện này, trên một số
phương diện, trở nên cuốn hút và sinh động hơn nhiều so với cách in ấn và phổ
biến truyền thống.
3.
Văn học Việt ngoài nước,
hay văn học Việt
Trước, cho tới thời điểm
lịch sử 1989, thì văn học Việt
Bây giờ, người ta có khuynh
hướng đi vào, nhập vào thế giới rộng lớn chung quanh và chia sẻ những quan tâm
về nó. Địa dư văn học của người Việt hải ngoại, vì thế, được mở rộng ra cùng
với sự lớn lên và gia nhập vào dòng văn chương hải ngoại của những người trẻ
(thế hệ một rưỡi và hai). Theo tôi, văn học Việt
4.
Những tác phẩm của tác
giả gốc Việt viết bằng Anh hoặc Pháp ngữ có được gọi là trong dòng văn
học Việt
Tôi nghĩ, nhìn một cách ẩn
dụ, mình có thể coi những tác giả gốc Việt viết bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp,
v.v., là những con vật lưỡng thê. Đời sống tinh thần của họ bắc cầu giữa hai
môi trường sống. (Hay như cách Linda Lê tự ví mình, "như người cưỡi ngựa đi giữa hai thế
giới, (…) không phải là thịt, cũng chẳng phải là cá…"). Thường là họ lớn lên trong môi trường
sống của những xã hội mới như Anh, Mỹ, Úc hoặc Pháp. Họ quen thuộc với ngôn ngữ
của những xã hội đó, và họ chọn (và, trong nhiều trường hợp, là bị đẩy vào thế
để chọn) phát biểu trong những ngôn ngữ đó. Như thế, họ có một số lượng độc giả
lớn hơn là nếu họ viết bằng tiếng Việt. Nhưng cuộc sống tinh thần của họ, cái
tâm thế viết của họ là một tâm thế Việt. Hay, đúng hơn, đó là một tâm thế pha
trộn. Giữa Việt
Dù sao, khi viết bằng ngôn ngữ
của dòng chính như thế, họ đã xuất hiện về mặt xã hội cũng như về mặt văn học
như một tác giả của dòng chính. Họ có thể, ở một mức độ nào đó, đến gần với độc
giả Việt hơn, nếu tác phẩm của họ được dịch sang tiếng Việt. Nhưng, tôi nghĩ,
tác phẩm của họ vẫn nằm trong dòng chính, không thuộc về văn học Việt ngoài
nước.
5.
Tôi thấy rất nhiều tác phẩm
của những tác giả này chứa đựng những câu chuyện phát xuất từ tình cảm, tâm lý
của một người Việt
Theo tôi, xuất phát điểm tâm
lý hay tình cảm của một tác phẩm như thế không nhất thiết tạo thành tiêu chí
duy nhất để xếp loại tác phẩm ấy vào dòng văn học Việt ngoài nước. Có lẽ ta còn
phải xét đến cái cách mà nó được thực hiện, cũng như ảnh hưởng của nó về mặt
văn học, xã hội, thương mại, văn hóa, v.v., mà nó tạo ra cùng với sự xuất hiện
của nó. Có thể xuất phát từ một tâm thế gắn bó với Việt
Có những nhà văn gốc Việt
khác, như Nam Lê, Andrew Lâm, Andrew Phạm chẳng hạn, cũng nhận được những vinh
dự cao quý trên mặt văn học do các quốc gia mà những tác giả này chọn định cư
trao tặng. Tôi cũng muốn trình bày rõ thêm một điều: chúng ta nên phân biệt khi
nói về tác phẩm và tác giả. Những tác giả này vẫn là người Việt, gốc Việt, và
ta, những người Việt trong và ngoài nước, vẫn có thể hãnh diện về những con
người Việt ấy qua những thành công của họ; nhưng khi đặt vấn đề tác phẩm của họ
có thuộc về dòng văn học Việt ngoài nước không, thì đó lại là một vấn đề khác.
Vấn đề trở nên tế nhị hơn, và có thể được nhìn ngắm, xem xét từ nhiều góc độ
khác nhau. Từ một số hoàn cảnh và lý do như những gì tôi đã thử trình bầy,
trong cái nhìn riêng của tôi, tôi nghĩ tác phẩm của họ vẫn thuộc về dòng chính
của những quốc gia mà họ định cư (hoặc thuộc về tất cả), hơn là thuộc về văn
học Việt ngoài nước. Cho dù, khi đọc họ, độc giả có thể thấy được một tâm thế
Việt
6.
Nếu nói là văn học Việt
Tôi nghĩ rằng, trong khoảng
trên dưới 15 năm đầu, kể từ thời điểm 1975, văn học Việt
Nhưng rồi, như tôi đã thử
phân tích lúc nãy, sau giai đoạn đó là một sự chuyển động. Trong tâm thế, trong
cách viết, trong cách tổ chức trần thuật, trong cấu trúc truyện, cấu trúc thơ,
v.v… Từ đó trở đi, văn học Việt
7.
Anh nghĩ gì về vị trí và
ảnh hưởng của các nhà văn của thời hai mươi năm văn học miền
Những người này, vì một số
lý do, đặc biệt vì vấn đề tuổi tác, đang dần dần viết ít đi, hoặc là đã ngừng
viết hẳn. Có những người trong số họ cũng không quen sử dụng hoặc không thoải
mái khi sử dụng máy computer; vì thế, việc
tiếp cận của họ với dòng văn chương mới cũng bị giới hạn nhiều.
Dù sao, tôi nghĩ, chắc chắn,
họ vẫn còn cho thấy một ảnh hưởng nào đó, đối với một tầng lớp người viết nào
đó. Nhất là đối với lớp người viết đã từng có cơ hội lớn lên và tiếp cận với
dòng văn học của miền
8.
Còn vị trí của các nhà
văn khởi viết từ sau 1975?
Nhiều người trong lớp này
vẫn còn sáng tác một cách sung mãn. Có thể nói, hiện tại, họ vẫn là lực lượng
chủ yếu xây dựng nên tòa nhà văn học Việt hải ngoại. Tuổi của họ có thể từ
khoảng xấp xỉ 50 đến 60 hay 65, và trong một vài trường hợp, cao hơn nữa. Họ
thường có một vốn liếng văn học bao gồm cả những hiểu biết về những tác phẩm
của những nhà văn miền
9.
Thế còn vị trí của các
nhà văn trẻ thuộc thế hệ 1 rưỡi và hai?
Lớp nhà văn thuộc thế hệ
này, tôi hy vọng, rồi sẽ thay thế lớp trước họ. Đó là những lớp sóng mới trên
biển văn học hải ngoại. Tôi mong và tin rằng, với kỹ thuật ngày càng tiến bộ
của internet, sự đóng góp của những nhà văn thuộc thế hệ này sẽ càng ngày càng
nhiều, và tác phẩm của họ sẽ cho thấy những sắc thái mới, những suy tư và những
cái nhìn không giống với những cảm xúc và suy nghĩ của các tác giả thuộc những
thế hệ trước. Cuộc đời là những vòng luân chuyển và cũng là những sự thay đổi,
tôi nghĩ vậy.
10.
Anh có thể cho một vài nhận
xét về văn học hải ngoại trên mạng Tiền Vệ và Da Màu? Sự phát triển và ảnh hưởng của những trang mạng
này?
Vì sự phát triển của công
nghệ thông tin đã biến đổi khá nhiều phong cách cập nhật thông tin cũng như sự
thưởng ngoạn văn chương, sự tiếp cận văn học của khá nhiều người trong những
năm gần đây, chưa kể đến lý do suy thoái về kinh tế, văn chương phổ biến theo
dạng truyền thống (tức theo lối in ấn bình thường) không còn là một phương tiện
phổ cập (duy) nhất so với nhiều năm trước đây nữa. Xét riêng về mặt văn chương
Việt, bây giờ nó nở rộ trên những trang mạng internet. Nó vừa là một
hiện tượng xã hội, đồng thời cũng là một hiện tượng văn học.
Ở ngoài nước, hiện tại,
chúng ta có khá nhiều trang mạng văn học với số lượng bài vở, tài liệu đáng
quý. Có thể nhắc đến Tiền Vệ, Da Màu, Hợp Lưu, Gió O, Diễn
Đàn (Forum), Ăn Mày Văn Chương, Diễn Đàn Thế Kỷ, Thơ Tân Hình Thức/Tạp chí Thơ,
và trước đây tạp chí mạng talawas rất nổi tiếng. Dù sao, như câu hỏi của
anh, tôi nghĩ, hiện nay, hai trang mạng Tiền Vệ và Da Màu đang được đông đảo bạn đọc theo dõi,
và chắc chắn chúng có những ảnh hưởng nhất định.
Tiền Vệ do nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc và nhà
nghiên cứu/biên khảo Hoàng Ngọc-Tuấn chủ trương; Da
Màu do hai nhà văn
Phùng Nguyễn và Đặng Thơ Thơ cùng một số nhà văn nhà thơ khác—và chủ biên hiện
tại là nhà văn/dịch giả Đinh Từ Bích Thúy—trách nhiệm. Căn bản là hai trang
mạng văn học nghệ thuật, Tiền Vệcó khuynh hướng thử
nghiệm nhiều hơn. Mục đích chủ yếu của diễn đàn này là "nhằm góp phần xây
dựng một khối Thịnh Vượng Chung của văn học nghệ thuật Việt Nam, nơi, bất chấp
những dị biệt về địa lý và chính trị, mọi người có thể gặp gỡ nhau trong nỗ lực
tìm tòi và thử nghiệm để trả công việc sáng tác trở về đúng nguyên nghĩa của
nó: làm ra cái mới." Cả hai trang mạng này đều có những bài mới mỗi ngày
và thu hút một số lượng độc giả Việt khá lớn trên toàn thế giới, căn cứ theo
những thống kê, như của Alexa, về số lượng người đọc truy cập vào các trang
Web. Cả Da Màu lẫn Tiền Vệ đều có cách trình bày nhã và đẹp, đăng
nhiều bài viết mang tính văn học của nhiều tầng lớp người viết khác nhau, cả ở
trong cũng như ở ngoài nước. Chủ trương của Da Màu là "xuyên quốc gia",
"xuyên biên giới", "thúc đẩy văn chương Việt Nam đương đại vượt
những rào cản để đạt mức phổ quát trong bối cảnh toàn cầu hóa." Và chủ
trương này vẫn được Ban Chủ Biên gìn giữ qua những bài vở chọn lọc thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là văn học. Cả hai trang mạng này đều có những nỗ
lực giới thiệu văn chương thế giới đến với người đọc Việt, và, ở một mức độ
giới hạn hơn, giới thiệu một số tác phẩm Việt Nam ra tiếng Anh.
Trong vai trò của những diễn
đàn mạng đang tiếp tục phát triển, với bài vở được cập nhật hàng ngày cùng với
những phản hồi nhanh chóng của độc giả ở khắp nơi trên thế giới, những diễn đàn
này thể hiện rất rõ tính "mạng" của chúng. Có thể ngay cả với tất cả
những nét ưu và khuyết, cũng như cường và nhược, của mình. Của bất cứ một sự
sống nào vẫn còn đang tìm cách vươn lên. Cho dù những nét mạnh vẫn nhiều và nổi
hơn những nét yếu, và phẩm chất diễn đàn càng ngày càng được nâng cao. Nhưng
tất cả những điều đó cũng khiến chúng trở nên đa sắc và đa thanh. Chúng kết hợp
được nhiều tiếng nói, nhiều phong cách, nhiều khuynh hướng. Chúng thể hiện được
những dạng sống và những kiểu tư duy khác biệt, có thể là trái chiều nhau, bất
chấp mọi thứ biên giới. Không chỉ "hợp lưu", chúng còn chứa trong
mình những dòng đối lưu nữa. Và, như thế, chúng phát sáng và phản ánh tính
"mạng" trong sự nối kết, trong thông tin nhanh nhậy, và có thể mang
trong mình những phức tạp và mâu thuẫn của cuộc đời đầy sinh động mà chúng ta
đang sống.
Tôi nghĩ, trong thời đại của
truyền thông và internet cũng như trong thời đại của toàn cầu
hóa này, những nỗ lực của Da Màu và Tiền Vệ, bao gồm cả những
nỗ lực của những người chủ trương cũng như sự đóng góp của những cây bút ở khắp
nơi cho những diễn đàn này, cũng như nỗ lực của tất cả các trang mạng văn học
Việt khác mà chúng ta chưa có cơ hội tìm hiểu kỹ hơn ở đây, là những điều đáng
được trân trọng. Và chắc chắn chúng có một ảnh hưởng trong sự phát triển của
văn học Việt
11.
Trong nhận xét của anh, có
sự khác biệt nào giữa các nhà văn đi từ miền Bắc và các nhà văn đi từ
miền
Trong nhận xét của tôi, điều
rõ ràng nhất là tâm thế viết. Ra đi từ những môi trường sống khác nhau, sống và
lớn lên trong những không gian văn hóa khác nhau, và chịu ảnh hưởng (trực tiếp
hay gián tiếp) của những bầu khí quyển văn học khác nhau, những người viết ra
đi từ hai miền đất nước như thế chắc chắn có những vấn đề, những suy nghĩ khác
biệt. Đều là những con người mang tâm thế xa quê, nhưng tâm thế của hai dòng
người, dòng văn ấy, ở những mức độ nhất định, tôi nghĩ, có thể mang những đặc
chất khác nhau. Sự khác biệt ấy cũng có thể hiện lên mặt chữ qua cách dùng ngôn
từ khác biệt, ở một mức độ nào đó. Nhưng sự phổ biến của những trang mạng cả ở
trong lẫn ngoài nước trong một số năm qua có thể đã kéo họ lại gần nhau hơn. Cả
về vấn đề ngôn ngữ lẫn những vấn đề nóng bỏng và cấp thiết của quê hương. Những
điều đó giúp họ chia sẻ nhiều sự quan tâm chung. Những vấn đề của đất nước và
con người Việt. Giờ đây, với sự về thăm quê hương tương đối dễ dàng, với sự
phát triển của truyền thông cho phép nối kết mọi người Việt trên thế giới vào
những trang mạng trên internet, người Việt khắp
nơi có thể theo dõi và biết được nhiều điều xảy ra trên quê hương. Những người
viết Việt, bây giờ, dù đã rời xa quê hương từ bất cứ miền nào trên đất nước,
cái gốc rễ địa lý ấy, theo tôi, không còn phân biệt họ một cách quá rõ rệt như
khoảng một, hai thập niên trước nữa.
Trong cái nhìn của tôi, về
mặt văn học, càng ngày họ càng nhích lại gần nhau hơn. Còn về mặt chính trị, xã
hội, những di căn từ một cuộc chiến trên 30 năm trước, và những dấu ấn trong
giáo dục và văn hóa khác biệt nói chung, từ hai miền Nam và Bắc, cũng vẫn có
thể còn để lại những dấu tích trong suy nghĩ và trong thế sống của họ. Về mặt
này, nếu có sự khác biệt, tôi hy vọng thời gian sẽ làm tốt công việc của nó:
xóa nhòa đi những dị biệt "tiêu cực" và không nên có nơi họ. Còn
những nét dị biệt "tích cực" thì, tôi nghĩ, chúng chỉ làm phong phú
thêm cái nhìn văn học của chúng ta. Chúng cũng sẽ có tác dụng như những nét
khác biệt trước đây giữa các nhà văn từ những vùng miền đất nước khác nhau, đặc
biệt, nói một cách tổng quát, từ ba miền Nam Trung Bắc của Việt Nam (và sự khác
biệt đó vẫn còn tồn tại, ở một mức độ nào đó, nơi họ bây giờ). Những sự khác
biệt đó chỉ làm cho văn học, văn chương thêm phong phú. Cũng như sự khác biệt
nhau nơi những con người sáng tạo. Nó không những tích cực mà còn được xem là
một sự cần thiết để tạo nên tính đa dạng, đa sắc và đa thanh trong văn học.
12.
Xin anh cho một vài nhận xét
về văn chương chống Cộng và không chống cộng ở hải ngoại?
Trong sự nhận xét của tôi,
trong khoảng 10, 15 năm đầu, vì những vết thương còn mới, những ấn tượng về
chiến tranh, tù đầy còn quá sâu đậm, nên một số ngòi bút đã cho ra đời những
tác phẩm chống cộng nổi bật có tính nghệ thuật khá cao. Ta có thể kể đến Đại
Học Máu của Hà Thúc
Sinh, Thằng Người Có Đuôi của Thế Giang, Cùm
Đỏ của Phạm Quốc Bảo,
hoặc tập truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Ngọc Ngạn. V.v…. Trong khoảng một, hai
thập niên gần đây, tâm thế sống và viết có phần thay đổi, cộng với sự tham dự
sâu xa hơn vào cuộc sống hiện tại với những quan tâm và suy nghĩ được mở rộng
hơn trên nhiều chiều kích, những tác giả của chúng ta đã mở rộng những đề tài
viết của mình, đi sâu hơn vào những vấn đề của cuộc sống mới. Văn chương chống
cộng, nói chung, có vẻ như đã làm xong phần việc của nó. Nếu có chống, tôi
nghĩ, vấn đề bây giờ có lẽ nằm chủ yếu trong tâm thế viết chứ không còn là trong đề
tài viết nữa, cho dù
đâu đó vẫn còn những tác phẩm thiên về đề tài này.
13.
Xin anh cho một vài nhận xét
về văn xuôi: đặc tính và liệt kê các tác giả, tác phẩm?
Về tính chất của văn xuôi
trong dòng văn học ngoài nước: Như đã nói, trong thời gian gần đây, đề tài được
mở rộng hơn. Nó nghiêng về sự hoà nhập, hòa lưu và khám phá cuộc sống hiện tại.
Mà "cuộc sống hiện tại" thì bao giờ cũng mang đủ mọi loại vẻ, đủ các
cung bậc, gam mầu. Và một trong những gam mầu đậm nét nhất là gam mầu về tình
yêu. Cái gam mầu muôn thuở ấy. Ngoài ra, vẫn có những tác phẩm mang tâm thế
hoài niệm. Những kỷ niệm đẹp và thiết tha trong cuộc sống cũ vẫn gợi nhắc trong
lòng người ta. Những sợi dây nối với quá khứ, với kỷ niệm vẫn luôn là những sợi
dây bền chắc neo buộc con người vào một nơi chốn quê hương. Dù sao, trong cái
viết của những người viết trẻ hơn, khuynh hướng tìm vào, mô tả và nghiền ngẫm
cuộc sống hiện tại, nơi những vùng đất mới, vẫn là một dòng chủ lưu. Ngoài điều
đó, những kỹ thuật mới trong việc tổ chức truyện cũng là vấn đề mà tôi quan
tâm. Cách kể chuyện của một số người viết trẻ bây giờ có những nét khác với
cách viết của thế hệ đàn anh họ. Thế giới văn học có nhiều thay đổi, và cách
viết là một trong những thay đổi ấy. Những người viết trẻ của ta đã học tập
phong cách của thế giới và đưa ra những cái nhìn, những cách tổ chức truyện
khác trước.
Không thể nhớ và kể hết các
tác phẩm. Vả lại, sự bừng nở của văn xuôi Việt
Ngoài ra, ta cũng nên kể đến
một số người làm việc trong lĩnh vực dịch thuật như Nguyễn Khánh Long, Nguyễn
Thị Hải Hà, Trịnh Y Thư, Hoàng Ngọc-Tuấn, Nguyễn Đăng Thường, Đinh Từ Bích
Thúy, Hoàng Ngọc Biên, Lê Đình Nhất Lang, Nguyễn Ước, v.v… Trong buổi nói
chuyện này, chúng ta sẽ không thể làm một cuộc tổng kết đầy đủ trên mọi lĩnh
vực văn học, nên việc thiếu sót trong việc liệt kê tất cả những nỗ lực và thành
tựu của những người cần được kể đến là một điều không thể tránh khỏi. Nhưng ta
biết là có những nỗ lực vẫn luôn được gìn giữ để nuôi dưỡng và phát triển cái
mạch sống của dòng văn học hải ngoại.
14.
Anh nghĩ gì về những tác
phẩm viết về cuộc chiến đã qua?
Như đã có dịp trả lời cho
một câu hỏi gần như tương tự, hoặc có những nét gắn bó với nhau, ở trên, tôi
nghĩ, trong một hai thập niên trở lại đây, những tác phẩm nói về điều này cũng
có, nhưng không nhiều. Dù sao, ta vẫn có thể tìm thấy những cây viết nổi bật.
Chẳng hạn, Thảo Trường, Lâm Chương, Phạm Tín An Ninh, và Cao Xuân Huy, v.v…
Những trang viết của họ có văn. Và có phong cách. Với tác phẩm của những nhà
văn này, người ta không chỉ đọc để biết về những câu chuyện, mà người ta còn
đọc nó để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương. Và ảnh hưởng của nó. Nó
cho thấy, dù anh viết về bất cứ vấn đề gì, nghệ thuật chính là cái làm cho anh
trụ lại với cuộc đời. Làm cho người đọc nhớ đến anh, và nhớ đến những gì mà anh
đã chia sẻ.
15.
Còn về hồi ký của các
nhân vật chính trị? Của tù nhân?
Trong thời gian qua, có một
số hồi ký đáng được chú ý của một số nhân vật chính trị mà ta nên nhắc tới. Đó
là những cuốn của các ông Nguyễn Tiến Hưng ("Khi Đồng Minh Tháo
Chạy", "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập"), Hà Thúc Ký ("Sống Còn Với
Dân Tộc"), Vũ Quốc Thúc ("Thời Đại Của Tôi"), Võ Long Triều
("Hồi Ký Võ Long Triều"). Trước đó, có cuốn của đại sứ Bùi Diễm
("Trong Gọng Kìm Lịch Sử"). Những nhân vật này, vì những vị trí và sự
tham gia đặc biệt của họ trong chính trường miền Nam Việt Nam, đã cho người đọc
nhìn thấy được những uẩn khúc bên trong của những sự kiện và biến cố quan trọng
đã xảy ra dưới các thời Cộng Hòa, cũng như những bí mật trong những quan hệ
giữa các bên tham chiến tại VN. Đọc, thấy đau xót và tức tưởi, nhưng cũng thấy
được những mặt trái của những cuộc cờ và những lá bài chính trị.
Còn sách của những tù nhân,
có thể kể những cuốn của Hà Thúc Sinh, Phạm Quốc Bảo, Trần Huỳnh Châu, v.v… Gần
đây hơn là những cuốn hồi ký của những người tù, những người vợ tù… Đọc những
cuốn này, ta thấy thương cảm cho thân phận con dân của một nước nghèo và khổ vì
chiến tranh. Nhưng trong thế sống và thái độ sống của mỗi người, người đọc cũng
thấy được sự can trường và quả cảm của con người Việt. Trong tối đen của cuộc
sống tù ngục, người ta vẫn thấy ánh lên những nét sáng và đẹp đầy tính nhân
bản. Tất cả đã là những tài liệu quý giá về một thời và một giai đoạn đớn đau của
dân tộc. Người ta có thể học được nhiều bài học từ tất cả những cuốn sách đó.
16.
Anh có suy nghĩ hoặc nhận
xét gì về những tác phẩm mang khuynh hướng hội nhập?
Trong nhiều tác phẩm xuất
hiện trong vòng một, hai thập niên qua, người đọc có thể nhìn thấy những khía
cạnh của sự hội nhập trong chữ viết của nhiều tác giả. Hội nhập trên nhiều mặt:
chính trị, văn hóa, xã hội, tâm lý, ngôn ngữ, v.v… Và đấy chính là cái cốt lõi
để văn chương và văn học lưu vong đang tiếp tục biến mình thành văn chương và văn
học di dân. Đó cũng là cái ngòi lửa để văn chương Việt bùng nở. Hay nở hoa,
nhìn theo một dạng ẩn dụ khác.
Những chi tiết mang nét hội
nhập có thể xét trên bình diện cốt truyện, tâm thế nhân vật, cách sử dụng ngôn
ngữ của tác giả, cách tổ chức cấu trúc văn bản, v.v… Nếu, ở một vị trí nào đó,
ở một giác độ nào đó, người ta có thể coi, hoặc muốn coi, những tác phẩm viết
bằng những ngôn ngữ không phải Việt Nam của những tác giả gốc Việt trên khắp
thế giới vẫn là những tác phẩm phản ánh kinh nghiệm di dân, thì những cuốn sách
của Linda Lê, Nam Lê, Monique Truong, Andrew Lâm, Andrew Phạm, lê thị diễm
thúy, Lan Cao, Angie Châu, Dinh Linh, v.v… là những tác phẩm mang nét hội nhập
rõ rệt. Ở đây, tâm thế của người viết là một tâm thế pha trộn. Việt
17.
Anh nghĩ gì về thơ? Số
lượng, phẩm chất, khuynh hướng?
Trong nhiều năm trở lại đây,
thơ là một sản phẩm rất khó tiêu thụ. Thế nên, nhìn một cách chung, sự xuất bản
các tập thơ có vẻ èo uột. Dù sao, thơ ca Việt
Thơ bây giờ cũng có nhiều
nét khác trước. Có những tác giả vẫn còn đào xới (và nhiều người tiếp tục đào
xới thành công) vào những thể loại cũ, theo kiểu của dòng thơ mới trước đây.
Nhưng nhiều tác giả khác đã tiến bước khai phá vào những thể loại trước đây ít
được sử dụng: thơ tự do, thơ xuôi, theo những thể thức và phong cách khác nhau.
Ngoài ra, một số tác giả đang thử khai phá thể thơ tân hình thức theo lối Việt
18.
Anh có thể nói thêm chút ít
nữa về Thơ tân hình thức?
Tiếng Anh là New
Formalism. Một cái nhìn vắn gọn: đây là một loại thơ, về mặt hình
thức, có tính vắt dòng và sử dụng kỹ thuật lặp lại; về mặt cấu tứ, có tính kể
chuyện. Nó thuộc loại thơ không vần và mang nhịp điệu cũng như giọng điệu khác
lạ hơn những loại thơ mà người Việt ta thường biết trước đây. Nó đem thơ lại
gần hơn với cuộc sống đời thường, với những chất liệu ngôn ngữ trên đại thể là
không hoa mỹ, không tu từ ẩn dụ hoán dụ gì cả. Nó cặp sát vào đời sống, và,
nhiều khi, nhìn vào mặt đời sống với một cái nhìn khá phàm tục, biết rằng cuộc
đời này không còn thơ ngây nữa. (Nói theo kiểu của Umberto Eco, vì không thể
nói "I love you madly" được trong một thời đại đã không còn thơ ngây,
nên người ta sẽ nói là "As Barbara Cartland would put it, I love you
madly.”) Trong cái nhìn của tôi, đối với một số nhà thơ Việt Nam, nó là sự thay
đổi, để thoát khỏi những lối mòn cũ kỹ mà thơ Việt Nam đã đi qua và vẫn còn sử
dụng. Có thể nó chưa có một tác dụng rõ nét trong thẩm thức và trong tiếp nhận
của người đọc Việt, nói chung. Nhưng chúng ta cần phải chờ thêm một thời gian
nữa để thấy được rõ hơn tác động của nó, nếu có.
19.
Nói về Tân Hình Thức thì có
lẽ ta phải nhắc đến Tạp
chí Thơ, một tạp chí
chuyên luận văn chương khá đặc biệt ở hải ngoại. Anh có ý kiến gì về tạp
chí này không?
Vâng, đây là một tạp chí
chuyên về thơ, do nhà thơ Khế Iêm và một số bạn hữu thành lập nên. Đúng như tên
gọi, cái đặc biệt của nó là chuyên đăng thơ và những bài nghiên cứu về thơ (cả
sáng tác lẫn dịch thuật). Đây cũng là nơi đã phát động phong trào làm và phổ
biến thơ tân hình thức Việt Nam. Nó cũng đã làm dấy động lên một vài cuộc tranh
luận về thơ, đặc biệt thơ tân hình thức, khiến những người quan tâm về mặt văn
học có sự chú ý. Nói tóm lại, tôi nghĩ rằng tạp chí Thơ, với những nỗ lực của
nhóm chủ trương và những người cộng tác, trong một mắt nhìn và một góc cạnh nào
đó, đã làm phong phú hóa sinh hoạt văn học của người Việt ngoài nước trong thời
gian qua.
20.
Xin hỏi anh một câu hỏi
cuối: Anh có thể cho một phóng chiếu về tương lai của dòng văn học Việt Nam
hải ngoại, hoặc, gọi như anh, trong một tiểu luận nhiều năm trước đây, dòng văn
học Việt Nam ngoài nước.
Tôi không quá lạc quan về
một sự lớn mạnh và phát triển rực rỡ của dòng văn học Việt ngoài nước. Và tôi
cũng không bi quan khi nghe nhắc đến sự lão hóa của những người cầm bút chủ yếu
của dòng văn chương này. Văn chương là đời sống. Và đời sống, tự nó, có những
quy luật nội tại để tiếp tục tồn sinh. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin qua internet và sự phát triển của dòng văn học
ngoài nước trên những trang mạng toàn cầu là những yếu tố mà trước đây, 15 hay
20 năm trước, ta khó tiên đoán được. Nhưng tình hình bây giờ, so với một hai
thập niên đầu khi người Việt đặt những bước chân đầu tiên của mình ra ngoài đất
nước tiếp theo sau cơn đại động 1975, đã rất khác. Với một số điều mà chúng ta
đã thử khảo sát qua cuộc nói chuyện này, tôi nghĩ người ta còn có thể nhìn thấy
nhiều sự kỳ diệu nữa sẽ xảy ra cho dòng văn học và văn chương Việt ngoài nước.
Chúng ta có những dấu chỉ để có thể hy vọng như thế. Nhưng, có lẽ còn quá sớm
để chúng ta nói về những điều khả hữu kỳ diệu ấy ngay bây giờ.
21.
Xin cám ơn nhà phê bình Bùi
Vĩnh Phúc về cuộc "tản mạn văn học" rất bổ ích và đáng yêu này.
Xin cám ơn nhà thơ Nguyễn
Mạnh Trinh và chị Nhã Lan của Hồn Việt Direct TV và Little Saigon Radio. Và
cũng xin cám ơn quý vị khán thính giả, cùng các bạn đọc, đã bỏ thì giờ theo dõi
cuộc nói chuyện của chúng tôi.
(2/2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét