29 thg 8, 2021

Năm tháng chiến tranh – Truyện ngắn Nguyễn Thanh Việt (Viet Thanh Nguyen)

 Vawnvn- Với tiểu thuyết đầu tay Cảm tình viên được trao giải thưởng uy tín Pulitzer của Mỹ, giải Văn học vì hoà bình Dayton, giải Edgar dành cho Tiểu thuyết đầu tay hay nhất của Hội Nhà văn thể loại trinh thám Mỹ, Huy chương Andrew Carnegie dành cho Tiểu thuyết xuất sắc của Hiệp hội Thư viện Mỹ, Huy chương Vàng dành cho tiểu thuyết đầu tay của Giải thưởng sách California, cùng rất nhiều giải thưởng cao quý khác, Nguyễn Thanh Việt (Viet Thanh Nguyen) hiện là người Mỹ gốc Á đầu tiên được bầu vào Hội đồng chấm giải thưởng Pulitzer của Mỹ.

Ngay khi tiểu thuyết thứ hai của ông, Kẻ dấn thân, vừa ra mắt vào tháng 3 năm 2021, Nguyễn Thanh Việt được mệnh danh là “lương tâm của nền văn học Mỹ”. Ngòi bút của ông được ví như một thứ “nọc độc” vẫn không ngừng chảy và thanh tẩy những hoen ố trong tâm hồn và giấc mơ của người Mỹ. Không chỉ là một nhà văn được trao giải thưởng thiên tài McArthur, Nguyễn Thanh Việt còn là một học giả và nhà tư tưởng có tầm nhìn vượt thời đại. Trong một bài viết của ông gần đây trên tờ New York Times, Nguyễn Thanh Việt đã khiến cả văn đàn nước Mỹ dậy sóng với câu hỏi giễu cợt đầy nhức nhối: “Nhà văn sẽ làm gì sau làn sóng phẫn nộ từ cuộc bầu cử vừa qua? Phải chăng họ sẽ lại viết về trăng và hoa?”

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt (Viet Thanh Nguyen)

Với một nền tảng vững chắc về triết học, Nguyễn Thanh Việt tin tưởng mạnh mẽ vào sự kết hợp không thể tách rời giữa mỹ học và chính trị. Trong sự nghiệp của mình, ông dấn thân không mệt mỏi và can thiệp bất thoả hiệp vào nền chính trị của Hoa Kỳ với mong muốn mang lại sự bình đẳng trên toàn xã hội.

Ông hiện là giáo sư trưởng khoa của Khoa Văn học, Hoa Kỳ học, Dân tộc học và Văn học so sánh thuộc trường Đại học Nam California, Mỹ.

Những tác phẩm khác của Nguyễn Thanh Việt bao gồm: Không có gì mất đi bao giờ: Việt Nam và ký ức chiến tranh, Chủng tộc và Sự phản kháng: Văn học và Chính trị của người Mỹ gốc Á, Kẻ ly hương. Cùng với con trai sáu tuổi Ellison của mình, ông cũng đã xuất bản tác phẩm dành cho thiếu nhi có tựa đề Chú gà của biển.

Truyện ngắn Năm tháng chiến tranh là sự tái hiện phần lớn những ký ức và trải nghiệm thời niên thiếu của tác giả tại Mỹ. Qua truyện này, độc giả sẽ hiểu hơn về cuộc sống người Việt ở Mỹ. Càng hiểu hơn vì sao có những người như bà Hoa luôn hô hào chống cộng “Chuyển lửa về quê nhà” để kêu gọi người dân gốc Việt đóng góp tiền, thậm chí không đóng tiền thì bị ép như thế nào cho tổ chức chống cộng cực đoan của họ.

Đặc sắc nhất ở truyện này là khả năng xây dựng nhân vật. Chỉ có 4 nhân vật, những tính cách mỗi người một khác, đối chọi nhau như nước với lửa, qua đó bật lên vấn đề có tầm khái quát độc đáo.

Văn Nghệ

Tranh của họa sĩ Thụy Vy

Trước khi bà Hoa xuất hiện làm xáo trộn cuộc sống của chúng tôi vào mùa hè năm 1983 thì chẳng có gì má tôi làm khiến tôi phải ngạc nhiên cả. Những thói quen thường lệ của má vẫn luôn đều đặn như vòng xoay quả đất, bắt đầu sẽ là tiếng đập liên hồi vào cánh cửa phòng tôi mỗi buổi sáng vào lúc sáu giờ, sáu giờ mười lăm, rồi sáu giờ rưỡi, cho đến khi nào tôi tỉnh dậy mới thôi. Khi tôi bước ra khỏi giường thì má đã ăn mặc chỉn chu, thường thì với một chiếc áo kiểu ngắn tay và chiếc váy tiệp màu nền nã. Má có cả bảy bộ như thế, và mỗi khi má khoác lên người màu hồng phấn thì tôi biết ngay hôm đó là thứ Hai. Trước khi ra khỏi nhà. Má sẽ tắt hết đèn, kiểm tra lại bếp điện, len chặt lại mấy tấm lưới sắt chắn cửa sổ, lúc nào cũng theo trình tự như vậy. Và khi cả nhà lên xe, má dặn tôi phải khoá chặt cửa lại.

Khi ba chở cả nhà trên chiếc Oldsmobile, tôi ngồi ghế sau đọc truyện tranh, còn má thì trang điểm. Mười phút sau khi chúng tôi vừa đến đường St. Patrick thì má đã trang điểm xong, màu phấn hồng trên hai gò má hoà quyện với màu phấn nền trên gương mặt má. Động tác cuối cùng của má là xịt nước hoa vào hai bên cổ. Mùi hương gay gắt của nước hoa theo tôi vào lớp học mùa hè của cô Korman. Ở đó, mỗi ngày tôi nói bằng tiếng Anh bảy giờ liền. Tôi rất thích đi học, cả lớp học hè nữa, vì cũng hệt như một kỳ nghỉ xa nhà, và mỗi khi đến ba giờ chiều là tôi lại cảm thấy hơi thất vọng vì phải đi bộ qua những bốn khu phố để đến cửa hàng tạp hoá của ba má tôi có tên là Chợ Sài Gòn Mới. Ở đó chẳng mấy ai nói tiếng Anh, chỉ toàn rộn ràng tiếng Việt.

Ba má rôi rất hiếm khi rời cửa hàng và quầy tính tiền nằm chếch ngay lối ra vào của tiệm Sài Gòn Mới. Khách hàng lúc nào cũng đông nườm nượp, vì đây là một trong vài cửa hàng ở San Jose mà người Việt có thể tìm thấy những đặc sản và hương vị quê nhà, từ gạo thơm hoa nhài, hoa hồi, nước mắm, và cả ớt chỉ thiên. Người mua mặc cả liên hồi với má về tất cả mọi món, từ đường phèn, thứ mà tôi thường dùng để giả một chất hoá học màu vàng nhằm tiêu diệt sức mạnh của siêu nhân, cho đến hằng hà sa số các loại thịt trong tủ cấp đông, từ sườn heo, cá basa mắt vẫn còn hơi trong, rồi thì lòng các kiểu, và cả chiếc túi nhỏ đựng những quả tim gà be bé và mềm mại như loại nấm hình hột nút.

“Nhà mình bán thêm TV dinners[1] đi được không má?” Có lần tôi hỏi má. Phát âm là TV dinners dễ hiểu hơn vì trong tiếng Việt từ television gọi tắt là cái ti-vi, nhưng lại không có từ tiếng Việt nào khác để chỉ các thứ mà tôi muốn nói đến. “Và cả bologna[2] nữa?” “Cái gì cơ?” Má tôi cau mày hỏi. “Nếu má còn không phát âm nổi từ đó thì làm sao khách hàng muốn mua hàng của má nữa? Thôi, con đi dán tem giá vào đồ hộp tiếp đi”

“Nhưng họ vẫn luôn kỳ kèo để được giảm giá mà”. Tôi lúc đó mười ba tuổi, đã đủ can đảm để nói lên những điều tôi luôn hoài nghi trong lòng, rằng má không phải lúc nào cũng đúng.

“Sao họ cứ phải mặc cả mọi thứ vậy má? Tại sao họ không trả ngay với giá đã niêm yết thế?”

“Vậy con sẽ là người luôn sẵn sàng trả bất kỳ giá nào người khác đòi hỏi sao?” má tôi căn vặn. “Hay con sẽ đấu tranh đến cùng để tìm ra giá trị thật của mọi thứ?”

Tôi cũng không biết nữa. Chỉ biết là tất cả những gì tôi phải làm ở Sài Gòn Mới vào mỗi buổi chiều là dán giá tiền vào các loại hàng hoá và đồ hộp. Khi tôi đang quỳ xuống để lục tìm trong bảng giá phía sau lưng má tôi thì bà Hoa đến và tự giới thiệu. Bà ta cũng trạc tuổi má tôi, tầm khoảng gần năm mươi, ăn mặc rất đơn điệu, áo khoác trắng, quần trắng, và giày trắng; cặp kính mát khiến gương mặt bà càng thêm bí hiểm.

Khi má tôi đang loay hoay gói hàng, bà Hoa lên tiếng, “Tôi đang quyên tiền để chống cộng, bạn yêu quý à”. Tôi thuộc lòng lịch sử của cộng đồng mình như huyền thoại Adam và Eve: những người cộng sản tiến vào giải phóng miền Nam năm 1975, rồi chúng tôi vượt Thái Bình Dương để đến California. Tôi thì chẳng có ký ức gì về chiến tranh, nhưng bà Hoa nói những người khác đều chưa thể quên. Một đội quân du kích của những cựu chiến binh miền Nam Việt Nam đang tập kết ở rừng bên Thái Lan để chuẩn bị cho một cuộc phản công vào Việt Nam. Kế hoạch này nhằm khiêu khích những người bất mãn với chế độ để họ đứng lên chống lại những nhà lãnh đạo cộng sản, tạo nên một cuộc cách mạng để khôi phục nền Việt Nam cộng hoà.

“Các ông ấy cần sự ủng hộ của chúng ta” Bà Hoa nói. “Và chúng tôi cần những công dân tốt như bà đóng góp”

Má tôi cọ cọ hai mắt cá chân vào nhau, làm đôi tất da trầy xước. Một đường rách lộ ra phía sau đầu gối, nhưng má vẫn mang nó cho đến khi rách hẳn đến gót chân. “Giá như tôi có thể giúp bà, bà Hoa à, nhưng ngặt nỗi dạo này khó khăn quá”, má tôi đáp. “Khách hàng mua ít hẳn đi, với lại đang suy thoái kinh tế, và giá xăng thì lên. Con gái chúng tôi lại đang học đại học. Đóng học phí cho nó cũng chẳng khác gì đang trả góp tiền mua nhà mỗi năm vậy”.

“Thì tôi cũng chật vật khác khì bà đâu”. Bà Hoa hết mở ra lại cài vào chiếc ví trên tay, ngón đeo chiếc nhẫn cưới bằng vàng mỏng dính. Nước sơn móng tay đỏ chót của bà ta bóng lưỡng như nước sơn của một chiếc xe hơi mới.

“Nhưng người ta đang bàn tán xôn xao. Không biết bà có nghe gì về bà Bình không? Họ nói bả thân cộng, và tất cả cũng chỉ vì bả quá keo kiệt, không muốn cho đi bất cứ thứ gì. Người ta còn nói sẽ tẩy chay cửa hàng của bả”

Má tôi biết bà Bình là chủ tiệm làm đẹp Les Amis, cách cửa hàng nhà tôi vài khu phố, về phía tây trung tâm thành phố, nhưng vội chuyển sang chủ đề thời tiết tháng Sáu và giá vàng. Bà Hoa có vẻ đồng tình về chuyện khí hậu thay đổi, rồi cười phô hàm răng thô kệch đáng sợ. Bà ta liếc nhìn tôi trước khi bước đi và buông một câu với má tôi: “Hãy nghĩ cho kỹ đi, bà chị thân mến. Giành lại quê hương là một lý tưởng cao đẹp mà chúng ta phải tự hào để tranh đấu”. “Đồ ngốc”, má tôi lẩm bẩm sau khi bà Hoa đi khỏi. Trên đường về nhà tối hôm đó, đi qua đường số Mười, má tôi kể lại câu chuyện đó với ba tôi vì lúc chiều ông quá bận rộn nên không nghe được gì từ cuộc đối thoại giữa má với bà Hoa. Khi má nhắc đến du kích, tôi thường hình dung đến những người đàn ông râu ria xồm xoàm, mình mẩy đầy vết muỗi đốt, tóc tai bết vào nhau, quần áo rằn ri sờn rách, sống sót bằng nước mưa, lợn rừng, và côn trùng rận rệp; luyện tập những chiến thuật tay chân và tấn công nhau bằng mấy quả mít. Ngồi ghế sau xe, tôi hỏi với lên, “Má cho bà Hoa bao nhiêu vậy?”

“Không cho gì cả”, má trả lời. “Toàn đi xuyên tạc”

“Nhưng họ đánh nhau với cộng sản”, tôi nói. Cũng như người Trung Quốc và Bắc Hàn, rồi Cu Ba và Sandinistas vẫn đang đe doạ tràn vào từ phía nam biên giới của chúng ta, như tổng thống Reagan giải thích trên Tin tức Thế giới Tối nay. “Lẽ nào chúng ta không giúp họ?”

“Chiến tranh đã qua rồi”. Giọng má tôi mệt mỏi. “Không có chiến đấu gì nữa hết”

Tôi tức tối, vì rõ ràng nhìn vẻ mặt của bà Hoa chứng tỏ chiến tranh vẫn chưa kết thúc, như cái cách mà bà ta đeo bám gia đình tôi từ Sài Gòn của ngày xưa cho đến Sài Gòn của hôm nay. Thêm nữa, tôi đã đọc tờ Newsweek ở văn phòng của nha sĩ và biết rằng chúng tôi vẫn đang ở thời kỳ đỉnh điểm giao tranh giữa đế quốc đen tối và Nga Xô. Nhưng nếu tôi chỉ chưa vừa lòng câu trả lời của má tôi một, thì tôi còn khó chịu với câu trả lời của ba tôi gấp nhiều lần.

“Chiến tranh có thể đã chấm dứt”, ba tôi vừa nói vừa đưa ngón tay út lên ngoáy ngoáy lỗ tai, “nhưng cho họ một ít tiền để họ khỏi quấy rầy cuộc sống của chúng ta có phải dễ hơn không”

Má tôi chỉ im lặng, gõ nhẹ những ngón tay vào tay vịn ghế. Tôi biết má sẽ đồng tình với ba, một ông đầu hói với những những cử động điềm tĩnh và đôi mắt đầy nhẫn nại của loài rùa. Khuya hôm đó, đang khi vội vàng chạy từ bếp lên phòng của mình với ly nước trên tay, tôi nghe thấy má đang cố gắng thuyết phục ba sau cách cửa phòng của họ. Tôi không có thời gian để nghe lỏm xem họ nói gì. Bữa đó, trên lớp của cô Korman chúng tôi đang đọc truyện Ngôi nhà sụp đổ của Usher và cảm giác sợ hãi khi nhìn thấy một ai đó chưa chết trong hành lang tối khiến tôi lao thẳng qua cánh cửa của ba má, chỉ vừa kịp nghe thấy má tôi nói, “Em còn trải qua những điều tồi tệ hơn bà Hoa nhiều”

Nỗi sợ hãi đã chiến thắng sự hiếu kỳ. Tôi đóng sầm cách cửa phòng mình lại và nhảy tót lên giường run cầm cập, đẩy đống sách giáo khoa mùa hè sang một bên, tất cả đều được bao bìa màu nâu mà tôi đã cắt từ những túi mua hàng bằng giấy rồi ghi nguệch ngoạc tiêu đề “Toán” và “Lịch sử Mỹ.” Có lẽ má đang nói đến nạn đói sau thế chiến thứ hai khi má mới chín tuổi. Năm ngoái, một bản tin truyền hình buổi tối về nạn đói ở Ethiopia đã khiến má tôi nhắc lại một nạn đói khác khi tôi đang nhổ tóc bạc cho má. “Con có biết là hàng tá trẻ em trong làng má phải chết đói không?”, má nói, cho dù dĩ nhiên là tôi làm sao mà biết được. “Cả người già nữa, họ chết la liệt trên đường. Một ngày nọ má nhìn thấy cô bé hay chơi cùng với má nằm chết ngay trước cửa nhà cô ấy”. Má chìm sâu vào im lặng, nhìn bất động vào một điểm trên tường, phía trên ti-vi, còn tôi thì chẳng biết nói gì. Chuyện đó má cứ nói đi nói lại mãi, nên dường như tôi chẳng buồn bận tâm để đặt câu hỏi nữa. Má trả công tôi cho mỗi cọng tóc bạc mà tôi tìm nhổ được, và tôi cần tập trung, vì mỗi cọng tôi sẽ có thêm một xu để còn đủ tiền mua tập mới của truyện Captain America.

Trong nhiều ngày đêm qua, má tôi không nhắc gì đến bà Hoa nữa, nhưng người đàn bà đó vẫn khiến má bất an trong lòng. Má bắt đầu nói chuyện trong suốt buổi tối khi cả nhà đang kết toán sổ sách, thời gian mà má thường tập trung hoàn toàn vào việc tính toán hoá đơn trong ngày. Chúng tôi thường ngồi ở bàn ăn, đếm tiền, rồi cuộn tiền xu vào những cuộn giấy như những thỏi pháo, đóng dấu địa chỉ tiệm Sài Gòn Mới vào mặt sau của những tờ check, tem phiếu thực thẩm Monopoly, coupons màu vàng từ quỹ hỗ trợ những gia đình có con nhỏ. Khi tôi tính toán tiền bằng chiếc may tính cơ phát ra âm thanh ro ro, to hơn cả cái điện thoại quay số. Tôi không bao giờ cần nhìn vào bàn phím, vì tôi thuộc lòng vị trí những con số. Đó là lúc duy nhất tôi thấy mình giỏi toán.

Khi cả nhà đang làm công việc kết toán sổ sách hàng ngày, má kể, người ta đồn nhau những cựu chiến binh miền Nam Việt Nam không chỉ đang tập kích tại Thái Lan mà còn thành lập một mặt trận bí mật ở Mỹ với mục tiêu là chống lại những người cộng sản. Đáng buồn hơn là những lời đồn đại này lại khiến những kẻ vô danh đó đánh bom vào văn phòng của một biên tập viên một tờ báo tiếng Việt ở Garden Grove (ông ấy đã tử vong), trong khi một biên tập viên khác thì bị bắn chết cùng với vợ ông ta ngay trước cửa nhà của họ ở Virginia (những tên giết người đó đã tẩu thoát). “Chẳng qua họ đang công khai nói ra những gì mà trước giờ mọi người vẫn thầm thì với nhau”, má vừa nói vừa thấm ngón tay vào miếng mút. “Làm hoà với những người cộng sản có phải tốt hơn không”

Tôi đang mải viết những con số vào sổ kế toán, từ nãy vẫn chưa ngước nhìn lên… Mắt vẫn nhìn xuống quyển sổ kế toán, tôi nói, “nhưng má vẫn luôn nói cộng sản là người xấu đấy thôi”

“Ô-hô!” Ba tôi vừa nói vừa cười như nắc nẻ. “Hoá ra nãy giờ con nghe thấy hết. Đôi khi ba không đoán được con đang nghĩ gì phía sau cặp kính cận dày cui kia đấy”

Má tôi lật qua lật lại sấp tờ hai mươi đôla. Má chưa từng học xong phổ thông, vì ông ngoại bắt má phải ở nhà để chăm sóc các em, nhưng má vẫn biết đếm tiền bằng tay và cộng nhẩm các con số trong đầu còn nhanh hơn cả tôi dùng máy tính. “Người cộng sản chẳng hề tin vào Chúa hay tiền bạc”

“Nhưng họ lại tin vào việc chiếm dụng tiền bạc của người khác”, ba tôi nói… Tôi đã xem phim Star Wars (Chiến tranh giữa các vì sao) hàng tá lần trên băng video, và nếu ai đó nghèo đến nỗi chưa từng được xem nó dù chỉ một lần, thì đó là đất nước cần phải có một cuộc cách mạng. Nhưng má tôi không thì đồng ý. Má cuốn một vòng bằng giấy quanh xấp tiền hai mươi đô và nói, “má chẳng thích cộng sản cũng như chẳng thíc gì bà Hoa, nhưng bà ấy đang muốn bước vào một cuộc chiến mà chắc chắn sẽ thất bại nên má chẳng dại gì quăng tiền vào một mục đích vô nghĩa như thế”

Ba tôi vì muốn chấm dứt cuộc nói chuyện nên đứng dậy và gom hết tiền giấy, xu, séc, và tem phiếu vào túi giả vải mà mỗi sáng ba vẫn mang đến Ngân hàng Mỹ. Ba má tôi giữ một phần lợi nhuận trong ngân hàng, ủng hộ một phần cho nhà thờ, và gửi một phần khác về cho họ hàng ở Việt Nam, những người thi thoảng lại gửi cho chúng tôi những bức thư mỏng dính nhưng lại chất chứa những nỗi niềm mà má lúc nào cũng chỉ gói gọn  trong mấy chuyện như không thức ăn, không tiền bạc, không học hành, không hi vọng. Những gì họ hàng của họ và chính họ phải trải qua đã dạy cho ba má tôi một điều rằng không có đất nước nào thoát khỏi thảm hoạ, và do vậy ba má luôn bí mật cất giữ một phần tiền của ở nhà, phòng khi tai hoạ khủng khiếp ập đến quét sạch cả hệ thống ngân hàng của Mỹ. Má tôi dùng ny lông cuộn thành từng cuộn những tờ một trăm đô la rồi dán chặt vào bên dưới các nắp bình nước xả của bồn cầu, vùi những miếng vàng trong gạo và nhét vòng ngọc, dây chuyền vàng hai bốn karat, nhẫn kim cương trong két sắt xách tay chống cháy, giấu dưới các gầm trong nhà. Để đánh lạc hướng trộm, má làm giả đồ trang trí, đặt một bình hoa thuỷ tinh lớn đựng đầy tiền xu trên kệ sách cao bên cạnh cửa ra vào, và một cặp vòng vàng trên nóc tủ ngăn kéo.

Vào tháng Mười năm ngoái, nỗi sợ hãi trộm cướp của má đã thành hiện thực, khi vào một buổi tối thứ ba không thể nào quên, một người đã gõ cửa nhà tôi. Ba tôi lúc đó đang trong bếp, vừa mới vặn lò nướng lên, và tôi thì tiến về phía cửa, chỉ trước má tôi vài bước chân, trên người má đã mặc sẵn bộ váy ngủ. Khi hé mắt qua lỗ quan sát trên cửa, tôi thấy một ông da trắng, ổng nói, “Ông có thư, thưa ông”. Nếu ông ta nói tiếng Việt hay tiếng Tây Ban Nha thì tôi sẽ chẳng bao giờ mở cửa đâu, thế nhưng ổng lại nói tiếng Anh, nên tôi mở ngay. Ông ta dùng tay trái để đẩy cửa vào nhà, đó là một thanh niên tầm hai mươi tuổi tóc màu rơm dài chấm cổ chiếc áo jean sờn rách. Không cao hơn má tôi mấy, và dáng người khá tầm thước; khi hắn ta cất giọng lên thì âm thanh nghe rin rít như tiếng gót giày cao su trên sàn tập thể thao.

“Lùi lại”, hắn ta nói, trán thì bóng nhẫy mồ hôi và tay phải đang lăm le khẩu súng. Mặc dù đã mấy chục năm trôi qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ như in khẩu súng đó, một khẩu súng lục màu đen 22 mà hắn ta lia lia trước mặt và tay thì run lập cập khi bước qua bậc cửa. Hắn đá văng đống giày dép của nhà tôi và quên cả đóng cửa. Má tôi kịp nhận ra sự vụng về của hắn ta, có lẽ đó chỉ là một tên nghiện thiếu thuốc làm liều. Hắn ta chĩa súng vào tôi, rồi má tôi, và nói, “Mày có hiểu tiếng Anh không? Quỳ xuống sàn ngay!”

Tôi lùi lại đằng sau, trong khi má tôi thì giơ hai tay lên trời và nói, “Không, không, không!” Ba tôi lúc đó xuất hiện, trên đường từ bếp tới cửa chính, và tên cướp chĩa súng vào ba rồi ra lệnh, “Quỳ xuống đi ông.” Ba tôi quỳ xuống và giơ hai tay lên cao. “Đừng bắn,” ba nói bằng tiếng Anh, giọng yếu ớt. “Xin làm ơn, đừng bắn”

Tôi chưa từng bao giờ thấy ba tôi quỳ gối bên ngoài nhà thờ, và tôi chưa từng bao giờ thấy má tôi run bắn người vì sợ hãi như thế. Một sự thương cảm dâng lên trong lòng tôi; tôi hiểu rằng đây chưa phải là lần đầu tiên và sẽ không phải là lần cuối cùng mà một ai đó làm nhục ba má tôi như thế. Dường như cảm nhận được suy nghĩ của tôi, gã thanh niên im lặng chĩa súng vào tôi, và tôi cũng phải quỳ xuống. Chỉ có má tôi đã không quỳ mọp hẳn xuống, mà vẫn tựa thẳng lưng vào tường và khuôn mặt má, do vừa mới tẩy sạch lớp trang điểm, giờ trở nên trắng bệch. Gã thanh niên vẫn nhắm khẩu súng vào tôi và nói, “Bà ta muốn gì, hả thằng nhóc con?”

Khi má tôi la lên, âm thanh đó khiến tất cả đứng lặng sửng sốt, trừ má. Má xô gã thanh niên và dùng tay đẩy khẩu súng của hắn sang một bên, rồi má dùng vai va mạnh vào hắn khi chạy vụt ra ngoài. Tên cướp vấp vào kệ sách bên cửa, làm đổ chiếc bình thuỷ tinh đựng đầy tiền xu. Chiếc bình đổ ập xuống đất, vỡ tan tành, làm tất cả tiền cắc, xu, ken các loại văng tung toé khắp nơi, những đồng xu và mảnh vỡ thuỷ tinh lẫn lộn vào nhau. “Chúa ơi!” hắn ta thốt lên. Khi gã cướp quay ra cửa, ba tôi đứng phắt dậy và lao vào lưng hắn ta, xô hắn ra khỏi cửa rồi khép chặt cửa lại. Bên ngoài, tiếng súng nổ một phát đùng đanh thép, viên đạn dội vào vệ đường và găm lên bức tường ngạy cạnh hộp thư, nơi cảnh sát đã đến và gỡ ra vài giờ sau đó.

Vào buổi sáng Chủ nhật trước khi đến nhà thờ, má tôi bôi một chút Brylcreem và dùng một chiếc lược hiệu Ace màu đen để rẽ ngôi ở giữa và tạo kiểu tóc bóng mượt cho tôi. Tuy rất sợ phải nhìn thâý mình như thế, vì giống tên Alfalfa trong quyển Mấy thằng nhãi ranh, nhưng tôi không chống đối, như việc tôi đã không nói gì với má sau khi cảnh sát mang má về từ nhà hàng xóm. “Tôi đã cứu mạng sống của cả nhà, anh là đồ nhát gan!” má tôi la ba khi ông mỉm cười với viên cảnh sát đang lập biên bản tại bàn ăn ở nhà tôi. Quay sang tôi, má nhéo tai tôi và nói, “Má đã dặn con không được mở cửa cho người lạ cơ mà? Sao con không bao giờ nghe lời má vậy?”. Khi cảnh sát biểu tôi dịch, tôi xoa xoa tai và nói, “Má con sợ lắm, thưa chú cảnh sát.”

Cảnh sát không hề bắt được tên cướp, và, sau một thời gian, chẳng còn lý do gì để nhắc đến hắn ta nữa. Dẫu vậy, tôi vẫn thỉnh thoảng nghĩ về hắn, đặc biệt là vào những buổi sáng Chủ nhật đi lễ khi tôi quỳ xong và đứng dậy. Lúc đó khiến tôi nhớ lại lúc tôi nhổm dậy để nhìn má lao vút ra khỏi cửa sổ phòng khách, đi chân đất trên vỉa hè trước mặt tất cả những người đang ngồi trong xe hơi của họ, tay má giơ cao lên trời và trên người chỉ mặc một chiếc áo ngủ, lúc chạng vạng tối, rồi hét lên một tiếng gì đó mà tôi không thể nào nghe rõ. Má đã cứu chúng tôi, và đó chẳng phải là sự cứu rỗi mà ông luôn nhắc đến trong các bài giảng đạo của mình sao, thưa cha Dinh? Theo má tôi kể, lúc cha Dinh chỉ vừa đến tuổi trung niên thì ông đã bắt đầu dẫn dắt giáo dân, bao gồm cả ba má tôi, từ miền Bắc vào miền Nam của Việt Nam năm 1954, sau khi cộng sản đánh đuổi thực dân Pháp và lấy lại toàn miền Bắc. Thật kỳ diệu là cha Dinh vẫn còn nhiều tóc hơn ba tôi, một lọn tóc bạc sáng lấp lánh dưới ánh sáng đang soi chiếu vào những ô cửa kính ố màu. Tiếng cha cất lên run rẩy, “Nhân danh Cha, Con, và Thánh thần”, và tôi thì không thể kiềm chế được cơn buồn ngủ lúc ngồi ở băng ghế sau nghe cha giảng đạo, mơ màng đến đầu ti của bạn Emmy Tsuchida’s và chỉ mong sao buổi lễ sớm kết thúc.

NGUYỄN THANH VIỆT

VÕ HƯƠNG QUỲNH dịch

Còn tiếp/ Văn Nghệ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét