1- CON DẠI CÁI MANG:
Hai chữ con và cái: Con là chỉ người con.
Cái: Người mẹ, người trụ cột trong gia đình.
Dại: sự sai lầm, phạm lỗi.
Mang: Nhận lãnh trách nhiệm, mang trách nhiệm.
Ngắn gọn: Nếu người con phạm bất cứ sai lầm nào thì người chịu trách nhiệm đầu tiên là người mẹ, sau đó là người cha. Cha mẹ là người sanh ra trẻ, nuôi nấng, giáo dục trẻ từ lú sơ sinh cho đến tuổi trưởng thành, nếu chúng bị sai lầm, tội lỗi nào thì cha mẹ phải gánh chịu trách nhiệm.
Một trong số những điều quan trọng nhất của một con người là gia đình. Chính gia đình là nơi nuôi dưỡng, phát triển cái nôi cho sự hoàn thiện mỗi chúng ta. Điều đó được nhắc đến trong câu tục ngữ xa xưa sâu sắc “con dại cái mang” cho ta thêm những suy nghĩ về bổn phận, trách nhiệm về “đạo làm con” để ta có thêm nhiều xúc cảm, nhắc nhở ta những điều nên tránh, đem đến cho ta những thay đổi tích cực hơn.
Trong câu tục ngữ có nhắc đến những từ ngữ thân thuộc, ta có thể hiểu được phần nào, có thể thấy được mối liên hệ giữa những điều đó. Vâng, đôi từ “con-cái” ở đây, không gì khác chính là sự hiện diện lên hai thành phần trong gia đình đó là người con và người mẹ, người cha của họ, “dại” ở đây là sự mắc lỗi lầm còn “mang” chính là có lỗi có sự gánh chịu hậu quả dù cho có là vô tình hay cố ý. Và khi người con mắc tội, lỗi lầm gì đó, người mẹ, người cha chính là người phải chịu trách nhiệm vì đã “không dạy con”,gánh vác, giảm nhẹ tội lỗi đó giúp người con, chịu tai tiếng vì đã “không biết dạy con”- sự sỉ nhục đau đớn nhục nhã ê chề, kể cả khi tuổi đứa con còn nhỏ hay đã lớn, vì dễ hiểu đã làm cha mẹ là cả đời theo con.
Một lần nữa cho ta hiểu được rằng, sự giáo dục trong gia đình là vô cùng quan trọng. Người làm cha làm mẹ là người chịu trách nhiệm xây dựng nên gia đình, rồi làm vất vả, vun đắp, hy sinh, dành tình yêu cho những đứa con, xem đó là những nguồn vui, mục đích của cuộc sống, đem đến hạnh phúc bền vững cho họ. Vẫn biết sinh được người con ra đã khó, đã đau đớn, đã là sự dồn tâm sức, tiền bạc, nhưng điều đó cũng chưa tính gì đến những tháng ngày đằng đẵng về sau, vì sự giáo dục chúng thành người khó hơn nhiều, không dạy con thành một người tử tế là tội lỗi rất lớn, sự dằn vặt vì đã không làm tròn nhiệm vụ.
Ta thường nghe thấy có câu: "Dạy con từ thuở còn thơ". Vì dạy dỗ một đứa trẻ, cũng giống như chăm cái cây vậy, nếu cứ chăm bón, mà không có uốn nắm, tỉa tót như loại “cây cảnh”, thì đâu có giá trị cao. Hay cũng chỉ giống như loài “cây hoang, cây dại” vì nó sẽ mọc lung tung, không có hàng lối, không quy củ…. Con người nếu không có giáo dục, cũng sẽ trở thành mất nhân cách, vô ý thức, không có học, không có định hướng rõ ràng, dựa dẫm, liên tiếp vướng vào những tội lỗi không đáng có,..
Trong xã hội ngày nay, sự việc “con dại cái mang” diễn ra phổ biến. Trong định kiến, suy nghĩ của mọi người, thì người mẹ cầm giữ trọng trách quan trọng, việc “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” giờ đây vẫn thường được đem ra nói dù bất kể nông thôn hay thành phố. Vì người ta coi người mẹ tác động trực tiếp lên người con, vì người mẹ là người trách nhiệm xây dựng “tổ ấm”,…. Đã có những trường hợp, do người mẹ quá nuông chiều, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của con, không đánh, không trách, chỉ toàn cưng với nựng, để con thiếu ý thức tự lập, ăn chơi sa ngã, tệ nạn, vướng vào vòng vây pháp luật, điển hình là việc sống thử mang bầu trước khi cưới…Hay quá bận bịu không cân bằng được thời gian bên con, chia sẻ, chỉ gửi con cho người thân, chẳng quan tâm cảm xúc của con cái, thì đương nhiên, không sớm thì muộn, con cái sẽ lâm vào hoàn cảnh vô cùng “tệ hại, đáng thương”, và đến khi người mẹ nhận ra thì tất cả đã quá muộn màng, chẳng có cách nào làm lại.
Chỉ khi ta hiểu được điều đó, chỉ khi ta đã có gia đình, ta cần hiểu được việc này không phải của riêng ai. Một mình người mẹ quá vất vả nên cần cả sự trân trọng sự giúp đỡ, đồng lòng, hỗ trợ với người cha, sẽ giúp vượt qua được mọi chuyện, kể cả trong việc dạy dỗ, giúp con cái phát triển, cùng tìm cách chấn chỉnh chúng qua từng ngày, không bỏ mặc nó. Có như thế chúng mới không dễ mắc vào những sai lầm nghiêm trọng, những cám dỗ vô hình và hữu hình trong cuộc sống phức tạp này.Câu tục ngữ dù có trải qua bao nhiêu thời gian, vẫn tồn tại trong lòng người, vẫn là bài học quý giá trong việc dạy dỗ các thế hệ sau, bên cạnh đó cũng là lời khuyến khích cho sự giáo dục con cái luôn quan trọng, là việc hàng đầu. Ta càng thêm trân trọng, tôn kính, thấu hiểu những bậc sinh thành, ta càng phải cố gắng hoàn thiện bản thân, càng phải làm những điều tốt, đúng đắn, có ích để cho cha mẹ tự hào, chấn chỉnh những hành động sai trái của bản thân để không phải hối hận khi đã được sống, được nhận sự yêu thương, giáo dục tuyệt vời từ hai đấng phụ mẫu đó.
2- DỐT ĐẶC CÁN MAI:
Không phải ai cũng biết vì sao lại gọi là “dốt đặc cán mai”. Dốt thì ai cũng biết nhưng cán mai thì là cái gì? Thành ngữ này xuất phát từ đâu?
Không phải ai cũng biết vì sao lại gọi là “dốt đặc cán mai”. Dốt thì ai cũng biết nhưng cán mai thì là cái gì.
Trong cuộc sống trước đây, mai – là một dụng cụ dùng để đào đất. Cán mai thường được làm bằng gỗ táu, là thứ gỗ rất cứng, đông đặc. Ngày nay, cái mai không còn dùng nhiều trong đời sống và từ “dốt đặc cán mai” cũng ngày càng ít xuất hiện.
Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm (1491-1585) có bài thơ CẢNH NHÀN nổi tiếng sau đây:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Câu 1, nói về cảnh nhàn của người thích nhàn, dù bên cạnh làm việc đồng áng với cái mai, câu cuốc, mà khi cần nhàn thì cũng hưởng cái thú nhàn được.
Đầu óc đặc sệt như cán mai:
Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam cho biết, trong giao tiếp, đôi khi để chỉ ai đó đầu óc kém cỏi, dốt nát đến mức mù tịt, không biết gì, người ta hay dùng thành ngữ “dốt đặc cán mai” để hàm chỉ. Ví dụ, một nhà văn đã viết: “Hai năm học chưa xong lớp 1, cái thằng ấy đúng là dốt đặc cán mai. Bà Hơn còn tốn nhiều cơm với thằng này lắm”, “Hương chức hội tề nhiều ông dốt đặc cán mai, tập được một chữ ký tên đã là khá lắm”.
Về giải nghĩa từ, dốt là một tính từ, chỉ ai đó kém về trí lực, chậm hiểu, chậm tiếp thu. Trong một lớp học, sẽ có những em học kém, chậm tiếp thu, được xếp vào loại “dốt”.
Như trên đã nói, cán mai là cái cán cuốc dùng để đào đất. Cán mai thường làm bằng gỗ táu là thứ gỗ rất đanh, đúc đông đặc. Nên chê người ngu dốt quá, người ta nói là dốt đặc cán mai là không có chỗ nào mà nhét chữ vào được. Cũng có khi người ta nói: “dốt đặc cán mai táu”. Táu tức là gỗ táu. Mai là một dụng cụ gồm một lưỡi sắt nặng, to và phẳng, tra vào một cái cán dài. Cán mai khác với cán xẻng, cán cuốc... Trong khi cán xẻng, cán cuốc làm bằng tre, rỗng ruột thì cán mai làm bằng một loại gỗ đặc ruột. Chính từ ngữ nghĩa này mà thành ngữ “dốt đặc cán mai” ra đời và được dân gian sử dụng rất hiệu quả. “Dốt đặc cán mai, dốt dài cán cuốc”, dốt đến thế là cùng. Ai mà được ví với câu thành ngữ này thì thật đáng xấu hổ. Phải mau mau học hành, tu chỉnh, trau dồi kiến thức sao cho bằng anh bằng em, kẻo tủi hổ với bạn bè.
“Dốt đặc” chỉ người dốt nhưng với sắc thái mạnh hơn “dốt”. Người ta thường nghĩ những ai kém trí tuệ, dốt nát thì đầu óc “đặc như bí”, chẳng có chỗ nào thoáng đạt, thông minh sáng láng. Chúng ta từng đọc truyện “Dốt Đặc và Biết Tuốt” với hai nhận vật trái ngược nhau về phẩm chất trí tuệ. Một anh thì cái gì cũng biết, còn anh kia thì mu ti mù tịt, đầu óc đặc như mật ong. Có cảm giác bộ não trong đầu anh ta đặc sệt, chẳng có chỗ nào để chứa kho tri thức như người thường. Chính từ tính chất “đặc” mà dân gian thêm hai từ nữa để có thành ngữ “dốt đặc cán mai”.
Một giáo sư có cho hay, “dốt có đuôi”, “dốt lòi đuôi” cũng là những từ dùng để chỉ người dốt theo nghĩa nêu trên dựa trên điển tích về một ông thầy đồ nhưng cũng là chế độ khoa cử thời phong kiến. Ban đầu, thành ngữ này chỉ có ý chê bai một đối tượng không đến nỗi dốt nát. Họ cũng là người có đỗ đạt trong kỳ thi hội, thi đình hẳn hoi.
Số là, sau kỳ thi, những người trúng tuyển được tập trung lại để yết kiến vua. Họ được sắp xếp thứ tự từ người đỗ cao nhất đến người đỗ thấp nhất (tức đứng cuối) với quần áo mũ miện nhà vua ban phát chỉnh tề. Người đứng sau cùng đội chiếc mũ có tai dài, vì thế người ta mới chế giễu là “có đuôi”. Rõ ràng trong mắt sĩ tử và dân chúng thì người đội mũ có đai dài trông như cái “đuôi ấy”, vẫn là người dốt hơn cả so với những người có mặt. Từ đây, trong lời ăn tiếng nói của nhân dân xuất hiện thành ngữ “dốt có đuôi” để chế giễu tất cả những ai dốt nát.
Một số người khác lại cho rằng, thành ngữ này có xuất xứ từ một câu chuyện cười Việt Nam. Chuyện rằng, một thầy đồ được mời đến cúng cho gia chủ tên là Tròn. Nhưng than ôi, thầy đồ gì mà chữ nghĩa chẳng được bao nhiêu. Đến cái tên của gia chủ là Tròn mà ông ta cũng chẳng biết viết, đành khoanh một vòng tròn. Chẳng may, có một kẻ tinh nghịch đã sổ thêm một nét vào “chữ Tròn” ông vừa mới viết. Khi đọc sớ, thầy không biết, cứ việc theo hình vẽ mà đọc tên gia chủ là “Gáo”. Chủ nhà giật mình, cải chính. Ông thầy cúng biết mình nhầm, xấu hổ lắm, những mong có lỗ nào mà chui ngay xuống đất. Qua câu chuyện này, thành ngữ “dốt có đuôi” có hai cách hiểu về xuất xứ và cũng có hai biến thể khác nhau: “dốt có đuôi” và “dốt có chuôi”. Dẫu hiểu thế nào thì thành ngữ này cũng chỉ biểu hiện ý nghĩa: “dốt nát và không giấu được cái dốt của mình”.
“Dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”, thà không biết một tí gì còn hơn tỏ ra biết nhiều nhưng cái gì cũng biết lơ mơ, nửa vời. Hoặc “dốt còn hay nói chữ”, “dốt như bò” là những thành ngữ chỉ người dốt, yếu kém trong nhận thức nhưng lại vẫn huênh hoang rằng mình hiểu biết. Mai, cuốc, thuổng “bị vạ lây”.
Trong đời sống sản xuất nông nghiệp ngày nay, các nông cụ như mai, cuốc, thuổng dùng để cày, đào xới đất đã dần dần ít xuất hiện do có các phương tiện khác thay thế như máy cày, máy bừa. Tuy nhiên, hình ảnh ví von “dốt đặc cán mai” vẫn được dùng phổ biến và người nghe vẫn hiểu, dù chắc rằng những người thuộc lứa tuổi trẻ bây giờ nhất là trẻ ở thành phố khó hình dung mai là vật dụng gì, hình thù ra sao, vì sao cán mai lại đặc. Cán mai đặc giống như cái đầu của kẻ dốt (đặc sệt vào, chả có chỗ nào mà nhét thêm được cái gì khác). Cán thuổng thì dài ơi là dài, giống như cái sự dốt kia không tiêu hoá được. Vậy là từ những vật dụng hàng ngày trong nông nghiệp, cái mai, thuổng bỗng dưng “bị vạ lây”, gán cho một đặc tính không mấy tốt đẹp của con người. Bản thân cái mai, cái cuốc không hề có hàm nghĩa nào nói về sự ngu dốt.
Người không có trí tuệ, lười học tập, phấn đấu luôn bị dè bỉu, phê phán. Đặc biệt là những người khoe khoang hiểu biết, học thức thì lại càng bị dân gian lên án bằng những hình ảnh ví von như “thùng rỗng kêu to”, “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, ý nói người xấu xí, có khuyết tật thì lại hay cố tỏ ra mình tốt đẹp, có ưu điểm. Kẻ dốt nát, kém cỏi lại hay khoe khoang mình giỏi giang, thông minh; bất tài nhưng lại hay khoe khoang khoác lác, phô trương.
Người Việt vốn trọng sự học với truyền thống “tôn sư trọng đạo”, người có chữ nghĩa trong xã hội luôn được coi trọng, kẻ “vai u thịt bắp mồ hôi dầu”, “lấy thịt đè người”, “người quân tử lấy đức, kẻ tiểu nhân lấy sức”... không được coi trọng. Một người đỗ đạt làm quan thì cả làng hân hoan đón mừng, nhưng một anh học trò đi thi trượt về thì buồn não nuột chẳng ai thèm quan tâm.
Xuất phát từ quan điểm đó, việc chê bai, chế giễu người học dốt, học kém cũng dễ hiểu, cũng qua cách chế giễu đó mà người ta mong muốn người bị chế giễu sẽ vì xấu hổ mà phải cố gắng học hành, dùi mài kinh sử để thoát khỏi cái tiếng dốt ấy.
Do đó, việc sử dụng thành ngữ “dốt đặc cán mai” là cách lựa chọn khá thông minh của dân gian để nhắc nhở người dốt phải học hành tu tỉnh. Ngày xưa khi nông nghiệp còn thô sơ lạc hậu, gần như nhà nào cũng có chiếc mai, ngày nào đi làm đồng cũng phải dùng đến. Điều này để nhắc nhở người dốt răn mình mỗi ngày, nhìn thấy hình ảnh chiếc mai, chiếc cuốc đó mà rèn giũa bản thân mình.
Hồ Xưa sưu tầm___________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét