Có những chứng bệnh mà người bệnh không kiểm soát, làm chủ được hành vi của mình. Họ sợ tất cả mọi thứ xung quanh, sợ ăn vì độc, sợ ngồi vì bẩn, sợ bị giết... Ám ảnh là một rối loạn tâm lý thường gặp và gây ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống cũng như chất lượng công việc của người bệnh. Chúng có thể gây cho người bị ám ảnh xuất hiện những cơn lo sợ thường xuyên, đôi khi lại gây những cơn hoảng sợ đến tột độ.
Lo lắng đến hoang tưởng
Được bố mẹ đưa đến Viện Sức khỏe Tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội) khám, trên khuôn mặt Nguyễn Văn An - một cậu bé 9 tuổi, học lớp 3 – luôn tỏ ra lo lắng, buồn rầu, đặc biệt liên tục đưa ra những câu hỏi lặp đi lặp lại. Bố mẹ của An tâm sự với bác sĩ, An sinh ra khỏe mạnh và phát triển bình thường như những đứa trẻ khác. Bé lớn lên trong một gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, thời gian gần đây (khoảng 2-3 tháng nay), An có những hành động bất thường như bé luôn tỏ ra lo lắng về bệnh tật, rửa tay liên tục, không chắc chắn về hành động của chính mình, cần được trấn an, các hành động lặp đi lặp lại.
Đặc biệt, An bắt đầu tỏ ra lo lắng rằng mình đã tiếp xúc với virus HIV. Ở nơi công cộng, bất kể lúc nào cậu bé cũng để ý đến một người khác mà cậu cho rằng bị bệnh AIDS. Chẳng hạn như, khi đang đi xe, nếu An nhìn thấy một người trong khi bé ăn mặc không gọn gàng bé sẽ hỏi bố mẹ là liệu họ có nghĩ rằng cậu đã tiếp xúc với mầm bệnh ngay cả từ khoảng cách khá xa như thế không. Mặc dù lời trấn an của bố mẹ cũng có một vài tác dụng, nhưng An nhất quyết phải tắm ngay khi về đến nhà. An cũng bắt đầu xuất hiện kiểm soát các hành động của mình. Bé thường hỏi bố mẹ trước khi định làm việc gì đó. Những lời trấn an chỉ làm bé bình tĩnh tạm thời. Mối quan tâm lo lắng lớn nhất của An là những khó khăn mới nảy sinh trong việc học ở trường. Khi đọc một đoạn trong tài liệu được giao, bé thường đọc tới cuối câu, chỉ để kiểm tra xem mình có bỏ sót từ nào hay nội dung nào của câu, An thường đọc lại cả tài liệu. Cần tới 15 đến 30 phút để xong được một trang. Trong khoảng vài tuần, cậu càng ngày càng không thể hoàn thành được bài tập của mình, vì vậy, cậu rất lo lắng về điểm số ngày càng thấp của mình. Cũng theo lời kể của gia đình, chị gái của An có những đặc điểm tương tự nhưng hành vi ít rối loạn hơn nên chưa bao giờ được chữa trị những hành vi này.
TS.BS Dương Minh Tâm, Trưởng Phòng Điều trị các rối loạn liên quan stress (M3) - Viện sức khỏe Tâm thần- Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội cho biết, khi tiếp xúc với bác sĩ, An lại khá hợp tác. Cậu thừa nhận cảm thấy trí óc của mình đang lừa cậu và làm cậu phải hỏi lại bố mẹ cho chắc chắn. An đã được điều trị theo liệu pháp nhận thức hành vi. Trong 2 tháng sử dụng liệu pháp tâm lý nhận thức hành vi (CBT) không có nhiều tiến triển, thuốc fluoxetine (Prozac) đã được sử dụng bổ sung với liều lên đến 40mg/ngày và điều này đã có tác dụng tốt. Sau trên 3 tháng điều trị An đã có kết quả khả quan. Trong suốt một năm sau đó, An đã có những bước tiến đáng kể.
Xã hội ngày càng phát triển, sức ép từ cuộc sống nhiều hơn thì số lượng bệnh nhân bị các chứng bệnh về rối loạn tâm lý, căng thẳng, mệt mỏi nặng dẫn đến các triệu chứng bệnh liên quan đến tâm thần cũng nhiều hơn. Các trường hợp từ trẻ già, lớn bé đều có, cả những người có chồng, người chưa có chồng trong viện đều có.
Các triệu chứng, dạng bệnh tâm thần khác nhau đều có cả. Nhưng chủ yếu là các chứng tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc, stress… Có những người bệnh đến đây một mực khăng khăng phủ nhận bệnh lý của mình, có trường hợp vào viện cứ liên tục nói họ bị “điên” đâu mà đưa họ tới đây. Có những người lại mắc chứng hoang tưởng, không dám ăn cơm vì nghi ngờ cơm có độc, người thì nghi ngờ không hợp tác để điều trị.
Trẻ em có tỷ lệ mắc cao
TS. Bs. Dương Minh Tâm cho biết thêm, những trường hợp mắc bệnh trên được xác định rối loạn nghi thức ám ảnh (OCD) phổ biến ở trẻ em và tuổi mới lớn với tỉ lệ 0,5% và tỉ lệ suốt đời là 1-3%. Tỉ lệ OCD ở người trẻ tuổi tăng theo cấp số nhân khi tuổi đời tăng lên, với tỉ lệ 0,3% ở trẻ trong độ tuổi 3-5 tuổi, tăng lên 0,6% đối với trẻ từ 13 đến 18 tuổi. Tỉ lệ mắc OCD ở trẻ vị thành niên cao hơn tỉ lệ mắc các bệnh khác như tâm thần phân liệt hay rối loạn lưỡng cực. Ở trẻ nhỏ, tỉ lệ bé trai mắc OCD cao hơn một chút so với bé gái, nhưng sự chênh lệch này sẽ giảm khi độ tuổi tăng lên.
OCD đã từng xuất hiện vào thời thơ ấu và tuổi thiếu niên được mô tả như là một rối loạn mệt mỏi, giận dữ mãn tính với một sự thay đổi rất lớn trong sự ngặt nghèo và hậu quả rất khác nhau. Một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học trên thế giới với OCD ở trẻ em cho thấy việc điều tị bằng sertralin giúp 50% bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn và 25% khỏi bệnh một phần với thời gian theo dõi là 1 năm. Tuy nhiên, trong một số ít các ca bệnh, chẩn đoán OCD có thể được coi là dấu hiệu của một dạng rối loạn tâm thần, điều này đã được tìm thấy ở 10% trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên mắc OCD trong mẫu nghiên cứu. Với trẻ em có triệu chứng dưới ngưỡng OCD, nguy cơ chuyển thành OCD toàn diện trong 2 năm là rất cao. Đối với người lớn tuổi, kết quả điều trị khả quan hơn với tỷ lệ thành công cao hơn (70%).
Tuy nhiên, người lớn cũng có khả năng mắc. Đã có trường hợp một bệnh nhân luôn sợ bị mắc giang mai khi chạm tay vào dụng cụ hay chỗ làm việc nào mà người đó tin là người bị bệnh đã từng động tới. Bệnh nhân đã có hàng loạt các hành động phòng ngừa như mở vòi nước bằng khuỷu tay, luôn chờ người khác mở cửa hộ mình, sử dụng khăn dùng một lần để tránh bị lây bệnh. Khi có một người khác từng ở chỗ làm việc của bệnh nhân đến gặp thì bệnh nhân sẽ rửa tay liên tục suốt cả ngày để chắc chắn rằng không một vi khuẩn bệnh rơi vãi nào có thể tấn công. Mỗi lần rửa tay, bệnh nhân rửa cho tới khi tay mình bị trầy ra và chảy máu mới thôi. Nếu chạm vào một chỗ nào đó mà bệnh nhân cho là đã bị nhiễm bệnh sẽ trở nên lo lắng thực sự và rửa đi rửa lại hai bàn tay cho tới khi thấy an tâm là mình không lây bệnh và bớt lo lắng.
Hiện nay, rối loạn nghi thức ám ảnh được chỉ ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nhân tố di truyền. OCD đã được công nhận là có tính gia đình và là rối loạn do hỗn tạp nhiều gen không đồng nhất. Các nghiên cứu phả hệ đã chứng minh rằng nguy cơ mắc OCD khởi phát sớm có thể cao gấp 4 lần ở những người thân thế hệ thứ nhất. Thứ hai, do miễn dịch ở hệ thần kinh. Sự xuất hiện của hội chứng OCD sau khi trường hợp tiếp xúc hoặc nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết bêta - nhóm A ở một nhóm nhỏ trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên đã dẫn tới những nghiên cứu về phản ứng miễn dịch ở OCD. Thứ ba, do chất dẫn truyền thần kinh. Sự có mặt của một số hệ thống dẫn truyền thần kinh, bao gồm hệ thống serotonin và hệ thống dopamine đã được coi là điều kiện cơ bản để gây ra OCD.
Biểu hiện bệnh:
- Hành vi lặp đi, lặp lại.
- Các hành vi hay các hoạt động tinh thần nhằm ngăn cản hay làm giảm đi nỗi khiếp sợ hoặc các tình huống hoặc sự kiện gây khiếp sợ thường là quá mức, xa rời với các cách vô hiệu hoá hay ngăn cản thông thường.
- Luôn trong tâm trạng lo lắng, sợ hãi.
Theo y văn, rối loạn nghi thức ám ảnh (Obsessive-Compulsive Disorder- OCD) có biểu hiện là những ý nghĩ thường xuyên tái diễn liên quan tới những lo âu hoặc căng thẳng và/hoặc những hoạt động tâm thần hoặc thể chất có chủ ý lặp đi lặp lại để giảm sợ hãi hoặc giảm căng thẳng do những nỗi ám ảnh gây ra. Phần lớn các ca bệnh OCD đều bắt đầu từ thời kỳ thiếu niên hoặc tuổi dậy thì. Các dữ liệu nghiên cứu cho thấy phương pháp chữa trị tối ưu là phối hợp điều trị bằng các thuốc tác động trên serotoninergic và liệu pháp nhận thức hành vi (CBT).
- Hành vi lặp đi, lặp lại.
- Các hành vi hay các hoạt động tinh thần nhằm ngăn cản hay làm giảm đi nỗi khiếp sợ hoặc các tình huống hoặc sự kiện gây khiếp sợ thường là quá mức, xa rời với các cách vô hiệu hoá hay ngăn cản thông thường.
- Luôn trong tâm trạng lo lắng, sợ hãi.
Theo y văn, rối loạn nghi thức ám ảnh (Obsessive-Compulsive Disorder- OCD) có biểu hiện là những ý nghĩ thường xuyên tái diễn liên quan tới những lo âu hoặc căng thẳng và/hoặc những hoạt động tâm thần hoặc thể chất có chủ ý lặp đi lặp lại để giảm sợ hãi hoặc giảm căng thẳng do những nỗi ám ảnh gây ra. Phần lớn các ca bệnh OCD đều bắt đầu từ thời kỳ thiếu niên hoặc tuổi dậy thì. Các dữ liệu nghiên cứu cho thấy phương pháp chữa trị tối ưu là phối hợp điều trị bằng các thuốc tác động trên serotoninergic và liệu pháp nhận thức hành vi (CBT).
Theo Hà Lê
Lao động
(ảnh minh họa từ Google)
(ảnh minh họa từ Google)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét