Khi đào cái nền trong hang, German tìm ra các di tích của cây hoá
thạch, có lẽ là hai trái đậu và cả hột đậu, cây năng ngọt, ớt, mấy mảnh
vỏ trái bầu và dưa leo, tất cả đều liên quan đến các dụng cụ bằng đá của
người Hoà Bình. (hình 5).
Những mẩu xương thú còn sót lại cho thấy đã bị chặt nhỏ nhưng không
phải đã nướng hay quay trên lửa mà là hầm, có thể trong các ống tre –
một hình thức nấu ăn mà dân vùng ĐNÁ vẫn còn dùng.
Một loạt các ngày tháng tính theo carbon 14 cho thấy những vật này
xuất hiện trên 6000 năm trước công nguyên và lùi xa đến 9700 năm và ở
dưới các lớp sâu hơn, còn có những vật có tuổi lâu hơn vậy, chưa được
định tuổi. Khoảng 6600 năm trước công nguyên, nhiều yếu tố mới đã vào
vùng này. Đó là các loại đồ gốm cao cấp, bóng loáng, chạm trổ, và có
đường vân dây thừng; các dụng cụ bằng đá hình chữ nhật đánh bóng từng
phần; những con dao bằng đá phiến. Công cuộc tìm kiếm các dụng cụ cùng
các di vật cây cối của vùng Hoà Bình vẫn được tiếp tục cùng với các vật
dụng tìm thấy gần đây.
Chúng tôi xem những khám phá tại Hang Tinh Thần ít ra cũng là sự kết
nối tiên khởi với giả thuyết của Sauer đưa ra, và các cuộc thám hiểm
khác đang thêm những bằng chứng về nền văn hoá Hoà Bình phức tạp và rộng
lớn này. Năm 1969, U Aung Thaw, Giám đốc viện Thăm Dò Khảo Cổ Miến Điện
có cuộc đào xới các hang động tại Padahlin phía đông Miến Điện để tìm
hiểu về văn hoá Hoà Bình, đã tìm thấy nhiều hình vẽ khắc trên vách đá
cùng với nhiều vật dụng khác. Đây là điểm khảo sát văn hoá Hoà Bình xa
nhất về phía tây được công bố.
Các cuộc đào tìm tại Đài Loan của một nhóm nhà thám hiểm của trường
Đại Học Quốc Gia Đài Loan kết hợp với Đại Học Yale do Giáo sư Kwangchih
Chang của ĐH Yale dẫn đầu, cho thấy một nền văn hoá với các đồ gốm có
chạm trổ và in vân dây thừng, dụng cụ bằng đá mài nhẵn và những cái giùi
bằng đá phiến có tuổi thọ trên 2500 trước công nguyên.
Các Nghi vấn bắt đầu được giải toả
Dựa theo các khám phá mới và tuổi niên đại định được mà tôi đã tóm
tắt ở đây, cùng với những lần khác tôi chưa tổng kết, nhưng cũng quan
trọng như thế; điều tôi muốn nói ở đây, là nên suy nghĩ kỹ về thời tiền
sử tại ĐNÁ một ngày nào đó sẽ được tái tạo. Trong một số bài viết đã
xuất bản, tôi đã khởi sự tiến hành công việc tái tạo ấy. Hầu hết ý kiến
của tôi nên được xem đơn thuần là giả thuyết hay phỏng đoán. Cần phải có
nhiều cuộc nghiên cứu hay thảo luận hơn nữa trong tương lai để có câu
trả lời. Trong số đó có:
- Tôi đồng ý với Sauer rằng những loại cây được trồng đầu tiên trên
thế giới là do người Hoà Bình thực hiện, đâu đó tại vùng ĐNÁ. Tôi không
lấy làm ngạc nhiên khi cho rằng việc trồng trọt khởi đầu khoảng 15000
năm trước công nguyên.
- Tôi cho rằng các dụng cụ bằng đá có cạnh tròn được tìm thấy tại vùng
bắc Úc-đại-lợi với carbon 14 đo được cho số tuổi là 20 ngàn năm trước
công nguyên có nguồn gốc từ Hoà Bình.
- Trong khi các đồ gốm có số tuổi khoảng 10 ngàn trước công nguyên
được cho là của Nhật thì theo tôi, với hy vọng khi có nhiều khám phá mới
hơn về văn hoá Hoà Bình, chúng ta có thể kết luận rằng những đồ gốm có
vân dây và quai này do những người Hoà bình này chế ra trước đó nữa, tức
là trên 10 ngàn năm trước công nguyên.
- * Sự tái tạo về thời tiền sử của ĐNÁ vốn cho rằng các kiến thức về
kỹ thuật quan trọng là do sự du nhập từ miền bắc xuống vùng ĐNÁ. Thay
vào đó, tôi nghĩ rằng thời kỳ văn minh đồ đá đầu tiên của miền bắc nước
Tàu, thường được gọi là Yangshao, xuất phát từ văn hoá Hoà Bình trước đó
mà có. Đó là một nhánh của văn hoá Hoà Bình di chuyển từ vùng bắc ĐNÁ
lên mạn bắc trong khoảng thiên niên kỷ thứ sáu hay thứ bảy trước công
nguyên.
- Tôi cho rằng nền văn hoá Lungshan sau đó, vốn được cho là thành hình
từ Yangshao rồi lẽ ra lan về hướng đông và đông nam; thay vì vậy nó
phát triển xuống phía nam của Tàu và ngược lên phía bắc. Cả hai chi văn
hoá này đều có nguồn gốc của văn hoá Hoà Bình.
- Khoản thiên niên kỷ thứ năm trước công nguyên, thuyền độc mộc có thể
đã được dùng để di chuyển trên sông lạch trong vùng ĐNÁ. Có lẽ không
lâu trong thiên niên kỷ thứ bốn trước công nguyên, loại thuyền có càng
được người ở vùng ĐNÁ chế ra để để giữ thăng bằng khi ra biển. Tôi tin
việc ra khơi bắt đầu trong khoảng 4 ngàn năm trước công nguyên đưa đến
sự tình cờ đặt chân đến Đài Loan và Nhật Bản. Từ đó việc trồng cây đậu
tằm, và có thể các loại cây khác, được phổ biến sang Nhật.
- Trong khoảng thiên niên kỷ thứ ba trước công nguyên, dân chúng
chuyên nghề đi thuyền ở ĐNÁ đến quần đảo Nam Dương và Phi Luật Tân. Họ
mang theo nghệ thuật hình kỷ hà – xoắn ốc, tam giác, hình chữ nhật liền
nhau theo từng giải như đã thấy trong các bình đồ gốm, đồ khắc gỗ, hình
xâm, vải bằng vỏ cây, và sau này là vải dệt. Những thứ này đều có cùng
mẫu hình kỷ hà tìm thấy trên các đồ đồng Đông Sơn và cứ bị tưởng là của
vùng Đông Âu du nhập sang. Người vùng Đông Nam Á cũng thiên di về hướng
tây, đến Madagascar khoảng 2000 năm trước. Dường như họ góp phần vào
việc trồng trọt nhiều loại cây quan trọng và đóng góp cho việc phát
triển kinh tế cho vùng đông Châu Phi.
- Trong cùng thời gian, sự tiếp xúc giữa Việt Nam và vùng Địa Trung
Hải bắt đầu, có thể bằng đường biển, do nhu cầu phát triển kinh tế.
Nhiều vật dụng bằng đồng có hình dáng bất thường, mà ai cũng cho rằng
xuất phát từ vùng Địa Trung Hải, cũng được tìm thấy tại khu vực Đông
Sơn.
Quá khứ có thể giúp soi sáng hiện tại
Sự tái tạo mới nhất về thời tiền sử của vùng Đông Nam Á mà tôi trình
bày ở đây dựa trên các dữ liệu thu thập được từ rất ít vùng khảo cổ cùng
với cách diễn dịch lại từ những dữ liệu đã sẵn có. Cần thêm những cuộc
khai quật sâu rộng và kiểm chứng về niên đại chính xác mới có thể thấy
toàn cảnh những gì đã thực sự xảy ra, xem có khác với giả thuyết
Heine-Geldern đã tái tạo hay không. Thời tiền sử của vùng Miến Điện và
Assam rõ ràng không được biết, do vậy, tôi nghi hai vùng này có vai trò
quan trọng trong việc tìm hiểu về thời tiền sử của vùng Đông Nam Á.
Điều
cần thiết nhất hiện nay là cần thêm nhiều chi tiết về những khu vực
nhỏ, dễ tìm hiểu. Bằng sự nghiên cứu ráo riết một khu vực nhỏ, chúng ta
có thể nắm được sự phát triển văn hoá địa phương và sự thích ứng về môi
trường để hiểu rõ cách con người hội nhập vào cuộc sống trong bối cảnh
thời tiền sử. Sau cùng, chúng ta cần hiểu sắc dân trong vùng, và từ đó,
những gì thu thập được có thể giúp chúng ta có cái nhìn thông suốt về
mối giao tiếp giữa họ với nhau và với thế giới đang trong tình trạng
luôn luôn thay đổi tại Đông Nam Á |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét