Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái và 5 dấu các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng “hót như chim” của người Việt.
Khuất Đẩu
Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cơ hội tiếp cận với văn minh Âu châu.
Tiếc thay cánh cửa ấy đã bị đóng sập.
Phải chi các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong có được một phần mười cái tầm nhìn của Minh Trị thiên hoàng thì nước Việt Nam ta ngày hôm nay không cần phải đổ bao nhiêu xương máu mới giành được độc lập và dĩ nhiên không cần phải có một Điện Biên Phủ mới khiến cả thế giới kính phục.
Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đã không phải viết bằng thứ chữ nôm khó đọc khó viết, nửa vay mượn của chữ Hán, nửa thêm thắt tùy tiện một cách rối rắm, thứ chữ mà giá như không có chữ quốc ngữ thì dù có ra sức đến đâu chắc chắn hãy còn một nửa nước mù chữ.
Một nước Nhật văn minh như thế, một nước Trung Hoa đang nuôi mộng bá quyền, vẫn đang loay hoay khốn khổ tìm cách La Tinh hóa thì ở ta, một đứa trẻ lớp một chỉ phải mất 3 tháng là có thể đọc thông viết thạo.
Sao mà dễ như lấy một viên kẹo trong túi.
Nhưng 300 năm trước, các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ không dễ như thế đâu. Trước hết họ phải học “thứ tiếng khó học khó nói như chim hót ấy”. Khó là vì những âm tiết lên bổng xuống trầm mà chỉ cần thay đổi một cái dấu trong 5 dấu là thành ra tiếng khác, chữ khác.
Chẳng những thông minh mà còn phải rất kiên trì nhẫn nại các giáo sĩ Bồ, Ý và cha Đắc Lộ mới có thể phát âm đúng, để từ đó tìm ra các ký tự. Nhận thấy các nguyên âm của la tinh không đủ, họ đặt thêm ă, â, ơ, ư. Rồi họ sử dụng các dấu huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã một cách tài tình để phân biệt các âm tiết trầm bổng.
Đồng ý, cha Đắc Lộ không phải là người phát kiến ra chữ quốc ngữ, nhưng ông là người có công tổng hợp, hệ thống hóa và sắp đặt để lần đầu tiên trên thế giới, in cuốn từ điển Việt-Bồ-La.
“Alexandre de Rhodes đã soạn cuốn từ điển khi nào? Không nghi ngờ gì nữa, trong những lần ông đến Việt Nam. Nhưng khoảng thời gian bảy năm ông ở xứ này luôn bị ngắt quãng bởi những lần đến rồi đi, từ giã rồi trở lại. Nếu lưu ý thêm rằng ông còn bị thúc bách bởi nhiệm vụ tổ chức truyền đạo và ông thường xuyên phải sống ở trong trạng thái bí mật hoặc nửa bí mật, một hoàn cảnh rất bất lợi cho công việc nghiên cứu ngữ nghĩa học, chúng ta có thể giả định, như Mục sư Bordreuil, rằng có lẽ ông đã làm cuốn từ điển trong thời gian khá dài tại Ma Cao, từ 1630 đến 1640: “Mặc dù ông không nói rõ trong các tác phẩm của mình, chúng tôi tin rằng Cha de Rhodes đã tận dụng khoảng mười năm yên ổn về tâm trí, nếu không phải để viết, thì ít nhất cũng là để đặt nền tảng cho hai cuốn sách quan trọng đối với Ki tô hữu An Nam và các nhà truyền giáo, chúng tôi muốn nói đến cuốn giáo lý và cuốn từ điển của ông. ” (Bordreuil, tr. 79) Mặt khác, thời gian ở Roma cho phép ông thực hiện thành công việc thu xếp tài chính để xuất bản tác phẩm của mình.
Cha Lèopold Cadière, người rất am hiểu vấn đề, nhấn mạnh vốn hiêu biết tiếng An Nam sâu sắc của ông: “Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ Nam Kỳ đều không phải là bí mật đối với ông… Ông còn cho chúng ta biết về thực trạng của tiếng An Nam cổ, những phong tục, tập quán ngày nay không còn và những thông tin mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác… Thêm nữa, về nghĩa của các từ, cuốn sách là một sự đảm bảo tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp ông thêm vào cuốn từ điển cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc đôi khi rất phức tạp và tinh tế của cú pháp An Nam” (Cadière, 1915, tr. 238-39)
Cuốn “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio”, phần tóm tắt ngữ pháp tiếng An Nam gồm 31 trang ở cuối, “đưa ra một tổng quan vắn tắt về sự vận hành của tiếng An Nam. Ông dành 6 trong số 8 chương để bàn đến vấn đề từ loại trong tiếng Việt.” (Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 143). Các chương này là:
– Chữ
và âm tiết trong tiếng An Nam (Chương 1)
– Dấu thanh và các dấu của các nguyên âm (Chương 2)
– Danh từ, tính từ và phó từ (chương 3)
– Đại từ (Chương 4)
– Các đại từ khác (chương 5)
– Động từ (Chương 6)
– Các thành tố bất biến trong tiếng Việt (Chương 7)
– Một số thành tố của cú pháp (Chương 8)” *
Có thể nói đây là khởi đầu cho ngữ pháp Việt Nam.
Đành rằng ông kiên nhẫn tìm cách la tinh hóa tiếng Việt là để truyền đạo, nhưng bảo rằng ông chẳng có công trạng gì với dân tộc Việt Nam là vô ơn. Còn cho rằng ông có tội vì tìm đường cho thực dân xâm chiếm nước ta lại càng hồ đồ hơn nữa (Bùi Kha, công và tội của Đắc Lộ).
Khi các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ làm một công việc mà theo tôi, như Christop Colombo tìm ra châu Mỹ, các vị ấy chẳng bao giờ nghĩ rằng hậu thế sẽ ghi nhớ công ơn mình.
Nhưng biết ơn là bổn phận của mỗi chúng ta và các thế hệ mai sau. Cư xử bằng cách đem bia tưởng niệm làm bàn ăn và biến nơi đặt bia thành nơi đặt tượng tuyên truyền là hành động không xứng đáng đối với một dân tộc tự cho là có bốn ngàn năm văn hiến.
Là người có đôi chút dính líu với chữ viết, tôi thực sự cảm thấy xấu hổ.
Khuất Đẩu
(từ tập tùy bút ” Nghĩ vẩn vơ cuối đời”)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét