Tác giả: Peter Bergen phỏng vấn Caroline Elkins, CNN 25.9.2022
Người dịch: Tôn Thất Thông
Ghi chú của CNN: Peter Bergen là nhà phân tích an ninh quốc gia của CNN, phó chủ tịch New America, người viết sách và là giáo sư tại Đại học Bang Arizona. Lớn lên ở London, Bergen tốt nghiệp về lịch sử hiện đại tại Đại học Oxford. Quan điểm thể hiện trong bài bình luận này là của riêng các tác giả.
***
Sự nổi tiếng của Vua Charles III có thể ảnh hưởng như thế nào đến tương lai của Khối thịnh vượng chung?
CNN – Nữ hoàng Elizabeth II đã được an táng vào tuần trước tại Lâu đài Windsor, nơi ở của các vị vua trong hàng nghìn năm qua. Điều không được mang theo quan tài của Nữ hoàng là một câu hỏi quan trọng: Tương lai đối với các quốc gia thuộc Khối Thịnh vượng chung sẽ như thế nào, nơi mà quốc vương Anh vẫn là nguyên thủ quốc gia?
Charles III ngày nay là Vua của 14 “tiểu quốc” bên ngoài quần đảo Anh. Ở một số tiểu quốc đó, chẳng hạn như Úc, Canada và Jamaica, đang có những lời kêu gọi bãi bỏ chế độ quân chủ và thay vào đó là đòi hỏi thành lập nước cộng hòa, giống như Barbados đã làm vào năm ngoái .
Một câu hỏi liên quan cũng đang nổi lên hiện nay: Di sản của Đế quốc Anh vĩ đại là gì? Học sinh Anh từ lâu đã được dạy những câu chuyện cổ tích về điều tốt đẹp của đế chế lớn nhất trong lịch sử, nhưng giới học thuật lịch sử gần đây đang vẽ nên một bức tranh hoàn toàn khác.
Dẫn đầu cáo buộc đó là giáo sư sử học Caroline Elkins của Đại học Harvard, tác giả cuốn sách xuất bản năm 2005, “Tổng kết một đế chế: Câu chuyện chưa được kể về Gulag của Anh quốc tại Kenya“, phát hiện ra rằng người Anh đã giam giữ khoảng 1,5 triệu người Kenya trong các trại giam hoặc trong những ngôi làng có rào dây thép gai trong thời gian nổi dậy của phong trào Mau Mau ở đất nước đó vào thập niên 1950, hàng nghìn người đã chết và một số người trong số đó đã bị tra tấn. Cuốn sách đã được trao giải thưởng Pulitzer cho tác phẩm phi hư cấu vào năm 2006.
Một số người ban đầu chỉ trích phát hiện của Elkins là cường điệu, nhưng chúng đã được minh oan nhiều năm sau đó sau khi các nạn nhân bị tra tấn người Kenya kiện chính phủ Anh yêu cầu bồi thường thiệt hại. Các quan chức cấp cao của Anh cuối cùng đã thừa nhận công khai vào năm 2013 rằng, các lực lượng Anh đã thực sự tra tấn người Kenya, và chính phủ Anh đã trả một khoản tiền gần 20 triệu bảng Anh cho hơn 5.000 nạn nhân người Kenya cao tuổi.
Trong những năm gần đây, Elkins đã mở rộng phạm vi khảo sát của mình ra ngoài Kenya, xuất bản một cuốn sách mới vào tháng 3 có tên “Di sản của bạo lực: Lịch sử của Đế quốc Anh”. Tôi đã chuyện trò với Elkins tuần trước về công việc của bà ấy. Nội dung trò chuyện của chúng tôi đã được biên tập lại cho rõ ràng.
Peter Bergen: Khi Nữ hoàng Elizabeth qua đời, điều gì xuất hiện trong tâm trí của bà?
Caroline Elkins: Đầu tiên, đó thật là một cuộc sống phi thường. Bảy mươi năm làm quốc vương. Là một con người, là một nhà sử học, làm sao tôi có thể không ngạc nhiên về điều đó? Thứ hai, sự khác biệt trong phản ứng của công chúng ở Anh và ở các cựu thuộc địa. Quốc tang đáng kinh ngạc và sự đau buồn dâng trào ở Anh, tuy nhiên ở đế chế trước đây và bây giờ là Khối thịnh vượng chung lại có những phản ứng khác nhau – rằng Nữ hoàng đã giám sát một đế chế đầy bạo lực và bóc lột.
Bergen: Vua Charles III không gợi ra những cảm xúc hoàn toàn giống như mẹ ông ấy đã có: Điều này sẽ ảnh hưởng đến Khối thịnh vượng chung như thế nào?
Elkins: Có 56 quốc gia trong Khối thịnh vượng chung, hầu hết trong số đó là thuộc địa cũ của Anh, và trong số những thuộc địa cũ, 14 quốc gia được chúng ta gọi là “Các tiểu quốc của khối thịnh vượng chung”. Có nghĩa là, họ không phải là nước cộng hòa, và họ vẫn công nhận Nữ Hoàng Anh là nguyên thủ của họ. Vì vậy, Charles III cũng là Vua của Canada, Vua của Úc, và chính ở những quốc gia này đã có sự thúc đẩy các cuộc trưng cầu dân ý để thay đổi thể chế và trở thành nước cộng hòa.
Và câu hỏi đặt ra là, mục đích của 56 quốc gia rộng lớn hơn trong Khối thịnh vượng chung này là gì? Nữ hoàng bị ám ảnh bởi Khối thịnh vượng chung; nó là đoạn kết của đế chế Anh. Trong triều đại của mình, bà đã giám sát việc giải thể phần lớn đế chế và theo dõi sự thành lập, với một kiểu suy diễn theo chế độ quân chủ, của Khối thịnh vượng chung như một lực lượng tốt lành, một lực lượng cho hòa bình, một lực lượng dân chủ trong thế giới hiện đại đương thời mà bà ta vẫn là người đứng đầu.
Vì vậy, Vua Charles III đang ở trong một tình huống khó khăn bởi vì, nhìn theo một cách nào đó, Khối thịnh vượng chung là một trò lừa bịp của lòng tự tin. Ngày nay các quốc gia này có còn tin rằng họ là một phần của cái gì đó vĩ đại hơn chính họ hay không? Khi các quốc gia này gia nhập Khối thịnh vượng chung vào những thập niên 50 và 60, người ta có thể đưa ra tuyên bố đó. Nhưng tôi cho rằng hiện nay có rất nhiều quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung nhìn vào điều này và tự hỏi mình, “Vấn đề thực sự như thế nào?” Nền kinh tế của Anh đang ở trong tình trạng tồi tệ ; việc tự cô lập mình với Brexit là một sai lầm, và về mặt địa chính trị, nước Anh đang suy yếu.
Bergen: Nữ hoàng Elizabeth II phát hiện ra rằng bà là tân Nữ Hoàng của Kenya vào năm 1952 khi bà đang đi săn ở đó. Hãy cho chúng tôi biết về nghiên cứu của bà ở Kenya và phản ánh thực tế là Nữ hoàng Elizabeth mới được lên ngôi vào khoảng thời gian lúc ở đất nước này, cuộc nổi dậy của kháng chiến quân Mau Mau chống Anh đang bắt đầu trở nên nghiêm trọng.
Elkins: Có một câu chuyện nổi tiếng rằng Elizabeth, ở tại khách sạn Treetops trong Vườn quốc gia Aberdare ở Kenya, đã leo lên một cành cây khi còn là công chúa và trở thành Nữ Hoàng khi bước xuống. Đồng thời, ngay bên ngoài nơi Nữ hoàng Elizabeth đang xem trò chơi, thì nhóm dân tộc Kikuyu lớn nhất ở Kenya, đang tuyên thệ tham gia một phong trào có tên Mau Mau, với mục đích là tống cổ tất cả người da trắng ra khỏi đất nước, tức là những người Anh đến định cư và chính quyền thuộc địa Anh.
Gần như ngay từ đầu năm 1952, đã có những người tố cáo ở Kenya. Các nhà truyền giáo xác nhận sự tra tấn của người Anh đang diễn ra. Quả thật, Hiệp hội Truyền giáo Nhà thờ đã xuất bản một tập sách nhỏ có tên “Kenya – Thời gian để hành động!” mô tả những điều khủng khiếp đang xảy ra ở đó.
Khi tôi bắt đầu nghiên cứu về lịch sử của cuộc khởi nghĩa Mau Mau, rất khó để viết cuốn sách bởi vì trong thời gian phi thực dân hóa, nước Anh đã tiêu hủy một cách có hệ thống các tài liệu về đế chế. Trong trường hợp Kenya, tôi ước tính rằng khoảng 3 rưỡi tấn tài liệu đã bị tiêu hủy, và một số tài liệu khác đã được mang về Anh và cất giữ trong kho lưu trữ được khóa kín. Vì vậy, điều có ý nghĩa đối với một nhà sử học như tôi là phải cố gắng ghép câu chuyện này lại với nhau, và tôi đã mất khoảng 10 năm để hoàn tất điều đó.
Trong cuốn sách năm 2005 của tôi, “Tổng kết của đế chế: Câu chuyện chưa được kể về Gulag của Anh ở Kenya“, tôi kết luận rằng trong khi chính phủ Anh nói rằng họ đã giam giữ 70.000 đến 80.000 người Kenya, thì trên thực tế, nghiên cứu của tôi cho thấy 1,5 triệu người Kenya đã bị giam cầm trong trại hoặc trong các làng bị rào kín bởi dây thép gai. Các trại giam và làng tập trung này không phải là địa điểm thực hiện các chiến dịch “trái tim và khối óc” mà là nơi diễn ra bạo lực rất có hệ thống từ cấp cao nhất của chính phủ Anh và được thực hiện một cách thuần thục đi kèm với những biện pháp để che đậy điều đó.
Cuốn sách ra mắt được “hoan nghênh với phê phán“. Có vẻ như người ta nhấn mạnh nhiều hơn vào “phê phán” và ít nhấn mạnh hơn vào “ca ngợi”, một phần vì đây là một trong những cuốn sách đầu tiên thực sự thách thức những câu chuyện về chủ nghĩa ưu việt của người Anh trong đế chế. Vào thời điểm đó, năm 2005, tôi còn là một nhà sử học trẻ . Sự tiếp nhận xem ra thật tồi tệ.
Và sau đó, tôi được yêu cầu làm nhân chứng chuyên môn cho một vụ án liên quan đến việc người Kenya kiện chính phủ Anh về tội họ bị tra tấn trong khi bị giam giữ trong cuộc nổi dậy Mau Mau. Trong quá trình khám phá trường hợp này, lần đầu tiên chính phủ Anh thú nhận: “Chúng tôi vừa phát hiện ra các thùng chứa các tài liệu chưa được tiết lộ trước đây mà chúng tôi đã tìm thấy tại Công viên Hanslope.” Công viên Hanslope là nơi lưu giữ tất cả các tài liệu rất nhạy cảm của chính phủ Anh. Và cùng với những thùng tài liệu đó từ Kenya, còn có thêm 8.800 hồ sơ từ 36 thuộc địa khác của Anh được đóng gói tương tự và mang đi thu giấu vào cuối thời kỳ đế chế.
Các tài liệu này rất quan trọng đối với vụ án. Tôi đã tập hợp một nhóm sinh viên Harvard lại với nhau, và chúng tôi đã làm việc 24/7 để xem xét các tài liệu này và điều trở nên rõ ràng là chúng tôi có hàng nghìn trang bằng chứng bổ sung xác minh cho kết quả nghiên cứu và tuyên bố của tôi về những gì đã xảy ra ở Kenya, và cuối cùng thì chính phủ Anh đã giải quyết vụ việc được các nạn nhân người Kenya đưa ra tố cáo.
Bergen: Kenya có phải là trường hợp đặc biệt trong Đế chế Anh hay không?
Elkins: Để trả lời, tôi đã mất khoảng 15 năm và hơn 800 trang trong cuốn sách mới của tôi, “Di sản của bạo lực”. Kenya không chỉ không phải là ngoại lệ mà chỉ là một câu chuyện ngắn trong một khoảng thời gian dài hơn, cho thấy cách mà người Anh tạo ra các hệ thống và phương pháp để thực thi quyền kiểm soát thuộc địa, chẳng hạn như lao động cưỡng bức, tra tấn và giết người trên khắp Đế quốc Anh.
Trong Chiến tranh Boer từ năm 1899 đến năm 1902, lần đầu tiên trong lịch sử các trại tập trung rộng lớn được sử dụng để giam giữ một dân tộc thiểu số, trong trường hợp này là những người châu Phi da trắng, những người mà người Anh coi là không văn minh, mặc dù người châu Phi da đen cũng bị giam giữ.
Nước Anh đã thực hiện các chính sách giam giữ tương tự đối với tội phạm , cũng như nạn nhân của bệnh dịch và nạn đói, ở Ấn Độ bắt đầu từ khoảng năm 1857. Một trong những điều tôi đã dành nhiều thời gian là theo dõi các chính sách này phát triển như thế nào – những cách thức tập trung dân cư cũng như cưỡng bức di dời họ.
Bergen: Trong sự đánh giá lại này của Đế quốc Anh, Bà đang dẫn đầu cuộc tấn công. Và thêm nữa, tác phẩm“Tình trạng vô chính phủ: Công ty Đông Ấn, Bạo lực tập thể và sự cướp bóc của một Đế chế” của William Dalrymple, lịch sử của ông ấy về Công ty Đông Ấn thuộc Anh cũng là một phần của sự đánh giá lại này?
Elkins: Có rất nhiều sử gia nghiên cứu về vấn đề này. Khi bạn nghĩ về loại công việc phải thực hiện cho từng thuộc địa, bạn có rất nhiều người là chuyên gia thực sự trong các lĩnh vực cụ thể, những người có thể chuyên về đảo Síp hoặc chuyên về Ấn Độ. Một số điều tôi đang làm trong cuốn sách gần đây, “Di sản của bạo lực”, thực sự đang tạo ra phong trào lớn thúc đẩy sự xét lại.
Bergen: Có phải tất cả lịch sử đều là lịch sử của sự xét lại hay không?
Elkins: Luôn luôn. Lịch sử luôn được sửa đổi bởi những người như tôi. Tôi nghĩ trong trường hợp này, đó thực sự là một cuộc sửa đổi lớn trong chừng mực nó thực sự nghi ngờ về điều gì tiếp tục là niềm tin vững chắc về chủ nghĩa ưu việt của Anh khi nói đến đế chế.
Bergen: Vậy, những người Anh ở trường trung học khi học về lịch sử nước Anh có được kể một loạt các câu chuyện tốt đẹp hay không?
Elkins: Tôi nghĩ rằng họ đang được kể những câu chuyện chính thức rất cụ thể đã được trau chuốt cẩn thận, từ cả chính phủ Anh và chế độ quân chủ. Lịch sử luôn được sử dụng cho bản sắc dân tộc để kích thích dân chúng, để tưởng tượng mình là một cái gì đó vĩ đại hơn bất kỳ ai khác. Và điều quan trọng cần nhớ là bắt đầu từ giữa thế kỷ 19, một cách rất cố ý dưới thời Thủ tướng Benjamin Disraeli, đã có một sự gắn kết chặt chẽ giữa quốc gia, chế độ quân chủ và đế chế vốn đã trở thành nền tảng của bản sắc dân tộc Anh, một loại bản sắc đế quốc của nước Anh mà chế độ quân chủ là một bộ phận. Và điều đó vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.
Sách giáo khoa lịch sử trong trường học của Anh có nên được sửa đổi? Hiện đang có một cuộc đấu tranh về vấn đề này ở Anh. Sẽ là một thời khắc quan trọng khi chúng ta bắt đầu thấy các bản sửa đổi trong sách giáo khoa của học sinh ở Anh phản ánh kiểu trò chuyện thú vị đang diễn ra hiện nay giữa các nhà sử học và công chúng.
Bergen: “The Crown” trên Netflix là một bộ phim truyền hình được thực hiện rất tốt. Điều đó đóng góp như thế nào vào cách nước Anh và thế giới nói chung nhìn toàn bộ lịch sử này?
Elkins: Tôi phải nói, một tiết lộ đầy đủ, tôi đã xem tất cả “The Crown”. Nó rất hấp dẫn và tôi đã viết cuốn sách “Di sản của bạo lực” trong khi xem phim đó. Một trong số rất ít lần mà Nữ hoàng Elizabeth cân nhắc với quyền lực của mình là xung quanh vấn đề phân biệt chủng tộc ở Nam Phi.
Bergen: Điều đó nói gì?
Elkins: Về cơ bản bà không đồng ý với Thủ tướng Margaret Thatcher, khi nói rằng chế độ phân biệt chủng tộc không thể tiếp tục, rằng Anh không thể đi ngược lại với lịch sử, và bà đã sử dụng Khối thịnh vượng chung như một phương tiện để làm cho điều đó được hiển lộ.
Điều thứ hai khiến tôi kinh ngạc là cái chết của người anh họ Louis Mountbatten. Mountbatten là phó vương cuối cùng của Ấn Độ. Ông giám sát sự phân chia của Ấn Độ và Pakistan vào năm 1947, nơi có khoảng 200.000 đến 2 triệu người chết vì bạo lực giáo phái tàn bạo, theo ước tính.
Quân đội Cộng hòa Ireland, tức IRA, là một tổ chức bán quân sự, được thành lập vào năm 1919 để đấu tranh giải phóng nền cai trị của Anh ở Ireland và tạo ra một nước cộng hòa, đã tham gia vào một cuộc đấu tranh lâu dài để chấm dứt sự cai trị liên tục của Anh ở Bắc Ireland sau năm 1922. Có nhiều cuộc tấn công khủng bố, bao gồm việc IRA đặt một quả bom trên thuyền của Mountbatten ngoài khơi bờ biển Bắc Ireland vào năm 1979, giết chết ông Mountbatten và ba người trên thuyền. Và cảnh đó cũng có trong “The Crown”. Mountbatten có lẽ là người bạn tâm giao và người cố vấn thân cận nhất với Thái tử Charles, nay là Vua Charles III.
Câu chuyện này có phần hơi giống nhau sau khi Nữ hoàng trở thành quốc vương Anh, lần đầu tiên sau 100 năm đến Ireland vào năm 2011 và (sau đó) đã dang rộng cánh tay của mình đến một trong những nhà lãnh đạo cũ trong IRA.
Bốn năm sau, Thái tử Charles gặp cựu lãnh đạo IRA Gerry Adams và làm một động tác tương tự. Họ đã có một cuộc trò chuyện riêng. Điều này cho bạn thấy những gì chế độ quân chủ Anh có thể làm được, bằng một loại thẩm quyền đạo đức mà nó có và cách đưa tay ra để hòa giải.
Bergen: Người Anh có tự khen ngợi mình vì họ đã xóa bỏ chế độ nô lệ tương đối sớm, và điều đó đã tô đẹp cho việc họ tự nhận mình là những người xây dựng đế chế?
Elkins: Vâng, tôi nghĩ đó là một điểm quan trọng. Tôi nghĩ người ta thường cho rằng nước Anh dẫn đầu về phong trào bãi bỏ việc buôn bán nô lệ (năm 1807) và nhiều thập kỷ sau đó bãi bỏ việc sử dụng lao động nô lệ (năm 1833).
Đồng thời, tôi nghĩ điều quan trọng cần lưu ý là đây cũng là quốc gia tích lũy lịch sử đế chế lớn nhất từng được biết đến, với 1/4 diện tích trên quả đất và 700 triệu người ở đỉnh cao của nó.
Sau khi bãi bỏ việc buôn bán nô lệ và sử dụng lao động nô lệ, người Anh đã phát động cái gọi là “sứ mệnh văn minh” của họ. Ý tưởng này cho rằng, trên thực tế, đế chế không phải là vì lợi ích quốc gia và sự bóc lột, mà đó thực sự là nhiệm vụ của chúng ta, “gánh nặng của người da trắng” chúng ta là đi lên, vực dậy và đưa các “dân tộc lạc hậu” vào thế giới hiện đại.
Phần thú vị đối với tôi là làm thế nào mà người Anh nói chung có thể tiếp tục làm việc và củng cố lại sự hiểu biết của họ về ý nghĩa thực sự của đế chế. Sứ mệnh văn minh là gì? Làm thế nào họ có thể đưa tất cả những điều này vào câu chuyện vĩ đại hơn về cái mà cuối cùng là chủ nghĩa ưu việt của đế quốc Anh, bằng cách này hay cách khác – và đó là một câu chuyện tồn tại cho đến ngày nay – rằng Anh đã có quyền đế quốc, đặc biệt là khi so sánh với tất cả các nước khác ở châu Âu.
Và vì vậy, đối với tôi, điều đó cũng gói gọn trong việc ngày hôm nay Nữ hoàng được tưởng nhớ như thế nào. Đối với một số người, bà ấy được nhớ đến như là người mẹ của đế chế, vốn dĩ là một thế lực tốt đẹp trên thế giới, thực sự mở rộng các khái niệm về pháp quyền và thương mại tự do – tất cả những điều mà chúng ta đang trân trọng ở các nền dân chủ tự do – trong khi đối với nhiều người khác thì họ cho rằng, không, không có điều gì thực sự tốt đẹp như thế.
Hãy nhìn tất cả bạo lực này trong đế chế. Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ở trong một thời điểm đặc biệt, bởi vì những người dân thuộc địa trước đây đang đòi hỏi một sự tính toán sòng phẳng, không chỉ về mặt thừa nhận những điều đã xảy ra, mà còn về cách chúng ta viết và nhớ lại quá khứ.
Bergen: Dự án 1619 đã định hình lại lịch sử của Hoa Kỳ chung quanh lịch sử của chế độ nô lệ ở đất nước này. Có điểm tương đồng nào giữa Dự án 1619 và những gì bà và các đồng nghiệp khác đang làm trong quá trình đánh giá lại Đế chế Anh không?
Elkins: Vâng, tôi nghĩ vậy. Nếu chúng ta nhìn vào cách thức mà những cố gắng để hiểu chúng ta là ai trong ngày hôm nay và những gì tương lai nắm giữ cũng là cuộc đấu tranh về những gì trong quá khứ. Điều gì mang lại cho chúng ta tính chính danh? Làm thế nào chúng ta trở thành con người như chúng ta ngày hôm nay? Ở Hoa Kỳ, người ta thường nghĩ rằng tội lỗi nguyên thủy là thời kỳ nô lệ, và chúng ta phải đấu tranh với điều đó nếu chúng ta muốn tiến lên với tư cách là một quốc gia.
Giờ đây, nhiều người ở cựu thuộc địa đưa ra gợi ý rằng “tội lỗi nguyên thủy” trên phạm vi toàn cầu là đế chế. Họ đang hỏi: Làm thế nào để chúng ta đối mặt với điều này, và làm thế nào để bạn, nước Anh, giải quyết vấn đề này để cho tất cả chúng ta có thể tiến lên phía trước, từ quan điểm xã hội và cả quan điểm kinh tế? Và nó không chỉ là vấn đề bồi thường. Đó là việc xem xét sự bất bình đẳng có tính cơ cấu trên quy mô toàn cầu và làm thế nào và tại sao thế giới lại trở thành như ngày nay.
Hãy nhìn vào Bangladesh, một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới hiện nay. Vào giữa thế kỷ 18, Đông Bengal là một trong những khu vực giàu có nhất trên thế giới. Điều gì xảy ra ở giữa hai giai đoạn đó? Đó là một thời kỳ rất dài của sự bóc lột và tiêu hủy của cải dưới sự cai trị của thực dân Anh.
Hãy nhìn Jamaica và tưởng tượng thực tế là quốc gia này đông dân bởi vì công dân của họ bị xích và cùm – theo đúng nghĩa đen – bên dưới những con tàu và được đưa đến đó. Lúc đầu, đây thậm chí không phải là một quần thể tự tái sinh sản bởi vì việc ép con người làm việc cho đến chết sẽ tiết kiệm hơn so với việc cho phép họ tự sinh sản.
Và do đó, các quốc gia này được sinh ra từ một loại nồi bạo lực vốn sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng về xã hội và kinh tế, và tôi nghĩ điều này đang đến điểm cao nhất, cũng giống như Dự án 1619 đang thực sự nêu lên tất cả những vấn đề về sự bất bình đẳng cơ cấu mà chúng ta đang đối mặt ở Hoa Kỳ ngày nay. Chúng ta phải hiểu quá khứ và thực sự có một tổng kết toàn diện về nó. Và tôi nghĩ đó là những gì chúng ta đang thấy theo nhiều cách khác nhau với lịch sử của Đế chế Anh.
./.
Nguồn: The British Empire: A Legacy of Violence?
Caroline Elkins tốt nghiệp tiến sĩ ngành lịch sử tại Đại học Harvard vào năm 2001. Kể từ đó, bà đã giảng dạy ở Harvard và được phong chức giáo sư từ năm 2009. Bà là giáo sư thỉnh giảng tại Viện Radcliffe và giám đốc sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Châu Phi của Harvard, hiện là một trong những viện nghiên cứu lớn nhất về Châu Phi. Trọng điểm nghiên cứu của Caroline Elkins là châu Phi và chính sách thuộc địa của Anh.
Vài tác phẩm tiêu biểu của Caroline Elkins:
* Elkins, Caroline (2000). “Reckoning with the Past: The Contrast between the Kenyan and South African Experiences”. Social Dynamics. 26 (2): 8–28. doi:10.1080/02533950008458693. S2CID 143334588.(subscription required).
* Elkins, Caroline (2000). “The Struggle for Mau Mau Rehabilitation in Late Colonial Kenya”. International Journal of African Historical Studies. 33 (1): 25–57. doi:10.2307/220257. JSTOR 220257.(subscription required).
* “Detention, Rehabilitation, and the Destruction of Kikuyu Society”. In A. Odhiambo & J. Lonsdale, eds., Mau Mau and Nationhood: Arms, Authority and Narration. Oxford: James Currey. 2003. pp. 191–226. ISBN 978-0-85255-484-5.
* Imperial Reckoning: The Untold Story of Britain’s Gulag in Kenya. New York, NY: Henry Holt. 2005.
* Elkins, Caroline; Pedersen, Susan, eds. (2005). Settler Colonialism in the 20th Century: Projects, Practices, Legacies. New York, NY: Routledge.
* Elkins, Caroline (2011). “Alchemy of Evidence: Mau Mau, the British Empire, and the High Court of Justice”. The Journal of Imperial and Commonwealth History. 39 (5): 731–748. doi:10.1080/03086534.2011.629084. S2CID 159551587.
* Legacy of Violence: A History of the British Empire. New York, NY: Alfred A. Knopf. 2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét