25 thg 4, 2022

Để Nhớ Đám Bạn Cùng Lớp Sư Phạm Sài Gòn - Phạm Nguyễn Định

Viết cho những người bạn cùng lớp Nhất 10 Nhị 10, khóa 8 SPSG, đã không găp lại từ ngày ra trường năm 1971

Đọc các bài viết của quý anh chị SPSG, trên các trang mạng quen, tôi hết sức phục vì quý anh chị còn nhớ rành rành, tên thầy cô, tên môn học này môn học kia, chứ bản thân mình, tiếc và xin “chịu thua” vì không nhớ được gì nhiều, chỉ man mán nhớ năm đó hiệu trưởng là thầy Nguyễn Hữu Phước, giáo sư Tôn Thất Trung Nghĩa, giám thị bác Huỳnh Hữu Thanh và cô Hảo, vậy thôi, không thêm được ai nữa nhưng nhóm bạn cùng lớp Nhị niên 10 thì lại không quên tên, còn nhớ mặt dù có lẽ bây giờ, gần nửa thế kỷ rồi.

     Bài viết này xin được xem như một chút hồi nhớ về mớ kỷ niệm vụn vặt xưa, có buồn có vui, với những người bạn đã cùng tôi “đi bên và đi qua một phần đời nhau” trong những ngày tháng ở trường SPSG của năm sáu chín bảy mốt, những kỷ niệm sẽ mang theo hay bỏ lại cho đời làm sao biết, thôi thì xin hãy “tha thứ cho nhau để được an lòng”, trong chuyến đi xa thiên thu định mạng mai này, ở một phía bên trời nào đó của một kiếp người, không chừng mình sẽ gặp lại nhau.

*

    Rớt Tú Tài Hai, tội vì mình, “ham vui, yêu vội” hơn là tại trời, tôi không dám về nhà, biết ba mẹ tôi buồn nhiều lắm nhưng cũng đành. Tôi ở lại Sài Gòn, dù mới chỉ biết Sài Gòn vài ngày qua hai lần thi, nhắn người chị gái bà con, chuyên mua hàng về tỉnh bán lại, cho ông bà biết tin, mò qua bên nhà ông cậu Út, em bà con bạn dì với mẹ, bên Gò Vấp, cậu làm thợ máy sửa xe quân đội trong công xưởng gì đó, xin tá túc vài bữa, quyết tâm “học ngày học đêm”, nhất định phải thi lại kỳ hai cho đậu. Vùi đầu “thề thốt với đèn khuya” chừng một tuần lễ, không học vô được chữ nào hết, càng rối bời thêm, chữ nhớ chữ quên, cuối cùng bỏ cuộc, ăn nhờ ở đậu cho qua ngày tháng, tính trong đầu chuyện trở lại ngồi ghế Đệ nhất năm tới, trường nào, ở đâu cũng chưa biết. Cậu có tiệm sửa xe nhỏ trước nhà, nên cậu cho tôi phụ mấy việc lặt vặt mặc dù đã có hai ba anh thợ rành nghề lo, tôi rành nghề thơ vịn, nhờ vậy cũng có được mớ tiền để dành phòng thân, cơm nước thì cậu mợ cho ăn không gần cả tháng trời.


  Vào SPSG để mà có học cái gì đó, chứ nói yêu nghề “gõ đầu trẻ” thì không chắc lắm, tình cờ một hôm trời mưa lâm râm giữa mùa hè, vào quán cơm chay bên góc đường Hàm Nghi, ngó ra ga xe lửa, bàn chật hết, xớ rớ dáo dác tìm chỗ, một chị ngồi một mình khá đẹp, còn ghế trống đối diện, gọi bảo tới ngồi chung, có lẽ thấy tội nghiệp thằng nhỏ “áo quần thất thểu sao đó”, chị tức cười rồi gợi chuyện, tôi cũng làm một màn “tâm sự đời tôi”, chị là cô giáo trường tiểu học Bà Triệu, gần hảng bia 33, đường Trần Hoàng Quân, học SPSG ra trường cách đây năm sáu năm, nghe lời chị , tôi thấy có lý gật đầu, ăn xong chị đi trước, ra tới cửa còn quay lại cười, chúc may mắn, vì phải thi vô, nếu thấy được, cuối cùng tôi đậu, nhờ cái may mắn mà chị chúc, chứ chắc chẳng tài cán gì. Vào SPSG rồi, vài ngày sau mới dám về lại quê thăm ba mẹ, ông bà mừng ra mặt, không rầy rà, thật ra đã biết tôi đang ở với cậu Út, do mợ Út, mách lại khi về trên đó thăm nhà.

*

    Tôi quen Trung ngày đầu nhập học, Trung dân Phú Giáo, Bình Dương, cùng một lớp, anh ta đưa tôi về gác trọ, nhỏ nhưng khá gọn, trong cái hẽm sâu, trên đường Cộng Hòa, gần chợ Nancy, không xa trường Sư Phạm bao nhiêu, ở đây có anh Sinh, cũng người Bình Dương, lên năm thứ hai trọ chung, hai người giới thiệu tôi với bà chủ, bác Hai, người miệt Cái Bè Cai Lậy, có xe hàng lên xuống Sài Gòn, và cô cháu phụ việc nhà tên Quyên, chừng mười bảy mười tám, tròn trịu dễ thương, cám ơn cậu mợ Út, tôi dọn về ở đây hôm sau, xem như có chỗ ăn chỗ ở đàng hoàng từ ngày đó.

    Người tôi nhớ trước nhất phải nói là Trung, không có Trung tôi không có được một chỗ tương đối tươm tất, tiền ở tiền ăn vừa phải, đối với tôi, “không người thân không họ hàng” ở Sài Gòn này thì đó là một may mắn quá lớn, Trung hiền lắm, ăn nói từ từ, ít khi cãi cọ gì với ai, chuyện gì cũng bỏ qua cũng cười trừ, bên cạnh Trung thì Sinh, vì là đàn anh, cũng hiền khô nhưng đôi lúc thắc mắc chút đỉnh cho vui vậy thôi, chắc là trời sinh ra như vậy để có thể gọi là “thầy giáo làng” mới đúng, hai ba lần theo anh ta về quê Phú Giáo chơi, gia đình Trung không khá  giả gì, đủ ăn nhưng ba mẹ rất niềm nỡ ân cần. Cũng hiền, cũng không to tiếng nhưng hay đưa ra ý này ý nọ, là Thật, dân Phan Thiết, người ốm cao, giọng rặt dân Phan Thiết, nhanh nhẹn, có mấy cô xúm quanh thì thường ra vẻ nghiêm trang nhưng trong suốt hai năm học SP, không thấy anh ta cũng như Trung “anh theo Ngọ về” với ai cả. Trong lớp còn Đông, cùng quê với Thật, người có nước da đen, hay kiểu cọ chút chút nhưng dễ thương, dễ có cảm tình.

    Cũng khó mà quên anh chàng trưởng lớp “Bắc kỳ” Phố, để râu mép, xuề xòa, ai nói sao cũng được, chẳng làm phiền bạn bè, cởi mở, không so đo thắc mắc, không kiểu cọ bày vẻ, hút thuốc chút ít. Quan, coi như người anh, cùng với Thưa và Quân, cùng khóa nhưng khác lớp nhị niên, không nhớ là nhị niên nào, ba người quê Long Hoa Tây Ninh, Thưa với Quân cả hai đều ưa hút thuốc, hiền khô chẳng làm phiền lòng ai, tuy nhiên Quân vì quá nhỏ con, khá thấp, nên đôi khi đổ quạu vì bị chọc chuyện “cao thấp”. Quan có cái miệng cười tươi, ăn nói chậm rãi, tĩ mĩ, thường ngày đến trường lúc nào cũng cái quần “jean” xanh dương và áo sơ mi trắng cụt tay ủi thẳng băng, cả Quan và Thưa đều đã có bạn gái trên tỉnh nhà, nên không thấy “trộm nhìn nhau” gì cô này cô nọ. Gòn thì trầm lặng, chưa tốt nghiệp mà đã mẫu mực như “ông thầy” rồi, Hoàn, không nhớ được họ, biết đàn vọng cỗ sáu câu, người trông có vẻ “văn nghệ văn gừng”, cũng không làm ai phiền, chọc phá tiếu lâm cười cho vui vậy thôi, Luông, dân Suối Sâu, Suối Cụt, nhà nằm bên quốc lộ đi Tây Ninh, tướng tá cao lớn nhưng lưng tôm, người ít nói nhất trong đám, lo học nhiều hơn chơi, chưa ra trường đã “cặp đôi” với Thu Thủy, cùng lớp, rồi cưới nhau. Tân dân Huế nói chuyện như ông “cụ non”, vui vẻ siêng năng, đi đứng điệu bộ như “thầy thứ thiệt”. Phụng trai thì lầm lầm lì lì, chăm chỉ học hành, không nói năng gì, cười cũng để dành cho mình nhưng được cái là không phiền hà ai, bạn bè cũng chẳng ai thắc mắc.

    Mấy chị gái, thì hai người ngồi chung bàn đầu trong lớp khó mà quên được, Kim Loan và Phụng, Kim Loan, nhỏ nhẹ, ít nói hơn Phụng, chị này đôi khi khó chịu chút chút nhưng cũng vui vẻ hòa đồng với cả lớp, Thu Thủy trầm tính, ngó qua ngó lại không lâu thì anh Luông đã phải lòng rồi ưng ý nhau, trở thành “đôi tình nhân” đầu tiên trong lớp, Vy Thủy dáng dấp cao sang, cũng cười nói, giọng Bắc nhưng xem ra lạnh lùng, không giống Phố, cũng “Bắc kỳ” nhưng bị “Nam kỳ hóa” mất rồi, Vy Thủy không gần gũi lắm với bạn bè, khác với Kim Loan, Phụng và mấy chị khác lúc nào cũng ồn ào “mình mình tui tui”, Huệ, gầy cao, mặt xương xương, người Nam nhưng khó chịu, khó chịu vậy chứ chẳng phiền hà ai, Huệ thường cặp đôi với Chói, đôi khi cũng có Phố đi kèm. Với Chói, tôi có nhiều chuyện nhớ hơn mấy người khác, nhưng những chuyện này, coi như là “xin nhớ cho mùa thu đã chết rồi”, chỉ riêng mình hiểu. Còn vài bạn nữa nhưng “đành chịu”, cố lắm cũng không nhớ tên được, quý anh chị mà “thằng này” không nhắc tới, nếu có đọc bài này, hy vọng là có đọc, xin miễn chấp, tha thứ cho và nhận đây như là một lời thân tình tạ lỗi.

*

     Tôi đậu lại Tú Tài Hai, thí sinh tự do, thi tại trường trung học Nguyễn Trải, bên Khánh hội, cuối năm nhất niên SP rồi năm sau đậu chứng chỉ Cử Nhân 1 Văn khoa ban Sử Địa, đậu luôn Cử nhân 1 Luật, cùng lúc thi tốt nghiệp SP, nói thật cho tới giờ cũng không biết kết quả đậu rớt ra sao. Hè năm cuối ra trường, ai nấy tất tả về quê, chờ ngày đi dạy đâu đó xa gần, tôi đã không gặp lại đám bạn từ đó, và cũng từ đó tới giờ, hơn nửa thế kỷ rồi, chẳng ai rảnh mà nhắc tới tôi. Năm sau tôi sang học ngành khác, rồi cũng ra trường, làm việc ở một tỉnh cao nguyên đèo heo hút gió mà người ta hát “phố xá không xa trời đất thật gần, đi dăm phút trở về chốn cũ, ở đây buổi chiều quanh năm mùa Đông”, yên lòng với những gì mình đã chọn, lăn lóc theo đời, quên dần ngày tháng SPSG cũ, trong đó có bạn bè và một người có nhiều kỷ niệm với nhau hơn dù không trọn nhưng không bao giờ quên được.

*

    Tháng Ba Ban Mê Thuộc mất, quân VNCH rút bỏ cao nguyên, đoàn người hơn mấy chục ngàn dân lớn nhỏ, hàng hàng lớp lớp, ròng rã ngày đêm, gồng gánh, dắt dìu nhau đi từ Pleiku xuống theo con đường liên tỉnh lộ 7, con đường còn lại duy nhất mà đi. Cũng cả chục ngày đêm, qua Hậu Bổn, Phú Thiện, Phú Túc, sương rừng gió núi, nắng cháy da người, chết chóc, đói khát, khóc than rồi cuối cùng tôi cũng về tới Hiếu Xương, Tuy Hòa sau những ngày đêm từ hôm bỏ Pleiku xuôi Nam. Về Sài gòn, sống được với Sài Gòn dăm ba ngày thì miền Nam thua cuộc, cũng như bạn bè cùng ngành nghề khác, quân đội dân sự, tôi vào tù của chế độ mới, được tha chừng hai năm sau, hên xui, vì theo lời họ, chưa “gây nợ máu” bao nhiêu.

*

    Trời mưa lớn, cuối mùa ở đây, mưa xứ người, có chút lành lạnh ngoài sân trường, ngồi nhìn đám học trò yên lặng làm bài thi Tú Tài cuối năm trong phòng, nghe tiếng mưa bỗng dưng chợt nhớ người xưa bạn cũ, đám bạn học làm “thầy giáo cô giáo” cùng lớp SPSG, da diết, vui ít buồn nhiều, lăn lóc mấy chục năm qua, hơn nửa đời người mà mỗi lần nhắc tới cứ nhớ.

Li cui gi gió cho mây ngàn bay đâu đó trên đưng đnh mnh

*Quan, Thưa, Quân, Trung, Thật, Đông, Phố, Luông, Gòn, Hoàn, Sinh, Tân, Kim Loan, Phụng, Phụng trai, Thủy, Vy Thủy, Huệ, và những anh chị khác nữa, không nhớ tên dù cố nhớ... xin cám ơn các bạn đã cho tôi những kỷ niệm đẹp khó tìm của tháng ngày xa xưa đó, nhất là nhớ chuyến xe đò hôm kéo nhau về Tây Ninh.

*Riêng Chói, xin được xem như là một lời tạ lỗi muộn màng, người đã cho tôi rất nhiều dù không nhận lại được bao nhiêu nhưng vẫn không trách móc.

 Phạm Nguyễn Định

Bài viết cũng đã lâu, chỉnh sửa, thay đổi lại vài chỗ.

Phố quê Timboon mưa tháng Ba 2022

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét