Trong cuốn sách cực kỳ hữu ích “Tư Duy Nhanh và Chậm”,
nhà tâm lý học từng đoạt giải Nobel Kinh Tế Daniel Kahneman viết rằng
bộ não con người thường có hai hệ thống: một hệ thống chăm chỉ và một hệ
thống lười biếng.
Hệ thống chăm chỉ tư duy sâu và tư duy
chậm. Nó là thứ ta dùng khi đưa ra các quyết định quan trọng, thể hiện
các niềm tin cá nhân sâu xa nhất của bản thân ta. Nó là thứ ta dùng khi
ta suy tính bỏ tiền mua cả một căn nhà trên 700 triệu đồng.
Hệ thống lười biếng thì chính là thứ
hoạt động nhanh nhạy mỗi khi ta sử dụng trực giác, trong những hoàn cảnh
đột ngột, khi ta không có thời gian hay máy móc gì để triệu hồi bạn Gúc với bạn Wik
lên mà trả bài cho ta. Nó là thứ ta hay dùng khi ta chém gió trên mạng
và đọc tin tức giải khuây sau một tuần dài làm việc vất vả.
Làm cách nào mà hệ thống lười biếng đó có thể làm việc?
Nó tận dụng nhiều thứ, trong đó nhiều nhất dùng là các “khuôn mẫu” – stereotype.
Đó là những “mẫu”, những hình ảnh được xem là điển hình về một nhóm người hay một nhóm sự kiện nào đó.
Ví dụ, khi ta thấy hay nghe cụm từ “giáo sư”, ta dễ nghĩ và nghĩ ngay đến một ông hói đầu râu bạc, hơn là một cô nàng 29 tuổi tóc nhuộm luôn cười.
Nhưng các khuôn mẫu không phải lúc nào cũng chỉ xuề xòa vô hại như thế.
Chúng đóng một vai trò quan trọng và
nhiều khi ảnh hưởng mạnh mẽ đến cả hệ thống chăm chỉ tư duy sâu và chậm
của chúng ta, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến những thứ
đúng-sai, phải-trái cao xa, như công lý và tội ác.
Nhiều khi, chúng ta xét đoán cả hung thủ
và nạn nhân trong một vụ án hình sự không phải bằng cách nhìn vào chi
tiết của vụ việc, mà nhìn qua các stereotype chúng ta có sẵn về con
người: Hung thủ ư? Chắc phải là một kẻ mặt mày dữ tợn râu tóc bù xù. Nạn
nhân ư? Chắc hẳn là một người yếu đuối đang hoảng sợ và than khóc.
Theo các tổ chức Phụ nữ Liên hiệp Quốc và Uỷ ban Luật gia Quốc tế,
các khuôn mẫu dựa trên giới tính (gender stereotype) có một tác động
xấu đến cách chúng ta tư duy về công lý và tội ác trong việc nhìn nhận,
điều tra, và xét xử các vụ việc bạo lực tình dục, bao gồm hiếp dâm.
Các khuôn mẫu đó khiến chúng ta đưa ra
những kết luận định kiến và sai lầm, nhiều khi gây hại cho chính các nạn
nhân của vụ việc.
Các khuôn mẫu đó là gì?
Trích đoạn báo cáo “Khuôn mẫu dựa trên giới tính trong Luật pháp và phán quyết tòa án tại Đông Nam Á” (Gender Stereotypes in Laws and Court Decisions in Southeast Asia) thực hiện năm 2016 bởi tổ chức Phụ nữ Liên hiệp Quốc, phối hợp cùng Hiệp hội Luật gia Quốc tế
Luật Khoa trích đoạn và dịch từ
báo cáo gốc bản tiếng Anh (cách dòng do người trích, hình minh họa không
thuộc nội dung trong sách)
“…
Khuôn mẫu phụ nữ “đức hạnh” hay “đàn bà tốt”
Khuôn mẫu người phụ nữ đức hạnh hay
người đàn bà tốt, cùng với một khuôn mẫu khác là khuôn mẫu đàn bà xấu,
hay đàn bà dâm đãng (slut), là một vài khuôn mẫu giới trọng tâm trong
nhóm các khuôn mẫu có hại cho giới nữ.
Khuôn mẫu phụ nữ đức hạnh có cả tính quy
tắc [prescriptive – xác định những gì con người nên/phải tuân theo –
ND] và tính miêu tả [descriptive].
Nó mang tính quy tắc vì nó cấu thành các mong đợi của xã hội về việc một người phụ nữ nên là một người phụ nữ như thế nào.
Nó cũng mang tính miêu tả vì nó miêu tả
chính cách mà xã hội nhận thức hành vi ứng xử của phụ nữ. Và để dành
được cái nhãn “phụ nữ đức hạnh”, thông thường một người phụ nữ phải cư
xử sao cho thích hợp với các tiêu chuẩn đạo đức của cộng đồng.
Trong các vụ bạo lực tình dục, khuôn mẫu
phụ nữ đức hạnh thường là một phụ nữ trẻ, độc thân, chân thật, và không
tai tiếng, hay là một trinh nữ, hay “ngây thơ với đời”.
Nếu một người phụ nữ đã lớn tuổi hay đã kết hôn, cô ta thường phải được cho là một người phụ nữ có tư cách đạo đức tốt.
Để một phụ nữ như trên được nhìn nhận là
nạn nhân bạo lực tình dục, cô ta phải chứng minh rằng cô ta đã đấu
tranh, hay là đã kháng cự mãnh liệt nhất để bảo vệ đức hạnh của mình.
Các tính chất, điều kiện của vụ bạo lực phải ở mức cực kỳ đáng chê trách, hay là không thể nào thoát ra được.
Một người phụ nữ đức hạnh không thể bị
đổ lỗi cho những gì đã xảy đến với cô ta, bởi vì cô ta là một mẫu nạn
nhân điển hình. Cô ta là một nhân chứng đáng tin bởi vì cô ta là một mẫu
mực đạo đức và mẫu mực đạo đức thì không thể nói dối. Khi cô ta đâm đơn
kiện, tòa án gấp rút bảo vệ cô ta.
Dựa vào khuôn mẫu phụ nữ đức hạnh, chỉ
có những người phụ nữ nào cư xử đúng mực đạo đức, hay có tiếng là đoan
trang, mới có thể là những nạn nhân bạo lực tình dục, và theo đó xứng
đáng được luật pháp bảo vệ.
Cái khuôn mẫu này mang tính kỳ thị chống lại những ai không ướm vừa các tiêu chuẩn về đức hạnh và đoan trang của xã hội.
Nó khiến cho nhiều phụ nữ tố cáo bạo lực
tình dục phải hứng chịu các cáo buộc về danh tiếng xấu hay đạo đức thấp
kém của họ, Theo đó, một phụ nữ có danh tiếng xấu hay đạo đức thấp kém
nhiều khả năng là đang bịa đặt lời tố cáo bạo lực hay tố cáo quấy rối
của cô ta.
Khi khuôn mẫu này được sử dụng, các hình thức bảo vệ và bồi thường chỉ được dành riêng cho những ai ướm vừa cái khuôn mẫu đó.
Khuôn mẫu “đàn bà xấu” hay “đàn bà dâm đãng” (hay là khuôn mẫu “thoải mái quan hệ tình dục”)
Khuôn mẫu lớn thứ hai là khuôn mẫu đàn bà xấu hay đàn bà dâm đãng, là đối lập của khuôn mẫu đàn bà đức hạnh.
Đàn bà xấu hay đàn bà dâm đãng được miêu tả theo nhiều cách: một phụ nữ đạo đức thấp, một phụ nữ có ô danh, v.v.
Việc áp đặt khuôn mẫu “đàn bà xấu”
thường là vì người ta cho rằng người phụ nữ đó đã từng cư xử “không đoan
chính”, “khiếm nhã”, hay “không phù hợp”.
Người đàn bà xấu, hay người đàn bà dâm
đãng, được xem là thoải mái quan hệ tình dục với đàn ông, và được xem là
đã tự mời gọi việc bị bạo hành tình dục.
Khi một phụ nữ với khuôn mẫu như thế ra tòa, cô ta thường không được tin tưởng và bị đổ lỗi cho những gì đã xảy đến với cô ta.
)…)
Các khuôn mẫu giới có hại hiện diện trong các quy định pháp lý và quyết định tòa án thế nào?
Cái thế đối lập khuôn mẫu đàn bà tốt với
đàn bà xấu nói trên tạo ra cả một chuỗi hay cả một mớ các khuôn mẫu
giới có liên quan khác thường có trong các vụ bạo lực có liên quan đến
giới tính.
Mớ khuôn mẫu giới đó thường liên quan đến:
- Hành vi ứng xử của nạn nhân trước, trong, và sau quá trình bị xâm hại, và sự hợp lý hay bất hợp lý được nhìn nhận từ vụ việc;
- Tính đáng tin (credibility) của nạn nhân và lời cung khai của cô ta;
- Tính xác đáng của các cáo buộc pháp lý của nạn nhân.
Các khuôn mẫu giới xuất hiện trong các
quy định pháp lý vốn thường được áp dụng trong các vụ hình sự có liên
quan đến giới tính như sau.
Quy định khai báo tức thời (prompt reporting)
Các tội ác bạo lực với nữ giới thường
được quản lý bởi các quy định mang tính quy tắc (prescriptive) hay các
quy định thời hiệu, vốn xác định các khung thời gian mà cáo buộc pháp lý
có thể được đệ trình.
Ví dụ như ở Philippines, thời hiệu cho
tội hiếp dâm là 15 đến 20 năm từ khi xảy ra vụ việc, tùy theo tính chất
cụ thể của hành vi.
Tuy độ dài thời gian được luật pháp xác
định như thế, niềm tin từ văn hóa chung là các nạn nhân chỉ là nạn nhân
chính đáng khi họ tố cáo mau lẹ, tức thời.
Bất kỳ khoảng cách thời gian nào, giữa
lúc xảy ra vụ việc và khi đệ trình tố cáo lên tòa, trong một số trường
hợp đều được sử dụng để chống lại chính các nạn nhân.
Phụ nữ không trình tố cáo mau lẹ vì nhiều lý do.
Cảm giác bị sốc và thương tổn tinh thần
(trauma) mà một nạn nhân bạo lực tình dục phải trải qua, ngay cả những
lời cự tuyệt rằng hành vi xâm hại đã diễn ra, thường ngăn cản cô ta đi
tố cáo ngay.
Nhiều phụ nữ không tố cáo vì họ cảm thấy xấu hổ hay họ tự đổ lỗi cho chính bản thân mình.
Một số tự làm giảm mức độ nghiêm trọng
của việc bị xâm hại để có thể đương đầu với các tác hại của nó, và thế
là họ không tố cáo.
Một số phụ nữ khác không tin tưởng hệ
thống công lý và cảm thấy rằng họ sẽ không được tin tưởng vì một lý do
nào đó, hay họ lo sợ cho tính mạng bản thân và nghĩ rằng hệ thống công
lý không thể bảo vệ cho họ.
Bạo lực với nữ giới nói chung, và cưỡng
hiếp nói riêng, rất ít khi được khai báo, ngay cả ở những nước có các cơ
quan điều tra và cơ quan công tố được đào tạo bài bản và có nguồn lực
đầy đủ.
Tại Mỹ, cơ quan điều tra FBI “ước tính rằng chỉ có 37% các vụ cưỡng hiếp được trình báo với cảnh sát” trong khi Bộ Tư pháp Mỹ có thống kê “còn thấp hơn, cho thấy chỉ có 26% các vụ cưỡng hiếp hay cưỡng hiếp bất thành là được trình báo cho các cơ quan chức năng”.
Hiện chưa có ước lượng về mức độ trình báo các hành vi bạo lực liên quan đến giới tính tại Đông Nam Á.
Quy định đề phòng dối trá (cautionary rule)
Quy định này bắt buộc các thẩm phán phải
đề phòng cẩn thận trong việc tin tưởng các lời cung khai của những
người tố cáo trong các vụ tấn công tình dục.
Quy định này có gốc gác từ một số tuyên
bố của vị luật gia nổi tiếng người Anh Sir Matthew Hale. Ông này từng
nói thời thế kỷ 17 rằng cưỡng hiếp “là một lời cáo buộc rất dễ đưa
ra, nhưng rất khó chứng minh, và càng khó bào chữa cho người bị cáo
buộc, cho dù người đó đúng là vô tội”.
Quy định này cũng có gốc gác từ những gì Wigmore từng viết trong cuốn sách của ông về bằng chứng luật pháp: “Không
thẩm phán nào nên để cho một vụ tố cáo tội phạm tình dục ra xử trước
bồi thẩm đoàn trước khi lý lịch quan hệ xã hội và tình trạng tâm thần
của người phụ nữ đâm đơn tố cáo đã được giám định và chứng nhận bởi một
bác sỹ có chuyên môn.”
Quy định đề phòng dối trá là một nền
tảng cho một quy định khác ở một số nước, rằng phải có cung khai chứng
thực hay phải có bằng chứng thì một vụ cưỡng hiếp mới có nhiều khả năng
được xử lý.
Quy định chứng thực (corroboration rule)
Quy định này có liên quan đến quy định đề phòng dối trá nói trên.
Bởi vì lời cung khai của phụ nữ được xem
là “vốn đã có khả năng không đáng tin cậy”, chứng thực là việc cần làm
tại một số nước để cho lời tố cáo của phụ nữ có thể được công nhận.
Khi việc chứng thực được yêu cầu bắt
buộc, lời cung khai của nạn nhân được xem là không đủ bất kể chất lượng
của chính lời cung khai đó.
Trong mọi trường hợp phải có một lời
cung khai của một người khác, hay một số bằng chứng gì đó để ủng hộ lời
cung khai của nạn nhân.
Các quy định về chứng thực như thế phân biệt đối xử với nữ giới bởi vì chúng yêu cầu họ “phải
thực hiện một nghĩa vụ chứng minh nặng nề hơn nam giới để có thể xác
lập một hành vi phạm tội hay tìm kiếm một biện pháp khắc phục”.
Trong khi luật pháp Philippine có quy
định về đề phòng dối trá, luật nước này lại không hề có quy định bắt
phải chứng thực lời khai của nạn nhân trong một vụ cưỡng hiếp. Chỉ lời
khai của nạn nhân có thể là đủ để tòa kết án bị cáo, nếu như lời khai đó
đáng tin và có tính thuyết phục.
Quy định về tính liên quan của tiểu sử tình dục của nạn nhân hay danh tiếng nạn nhân
Tiểu sử tình dục hay danh tiếng của một
nạn nhân bị cưỡng hiếp hay bị tấn công tình dục thường được xem là một
vấn đề trong tố tụng hình sự.
Thỉnh thoảng, luật pháp có quy định rõ
ràng cho phép việc trình bày trước tòa bằng chứng về các hành vi tình
dục trong quá khứ của nạn nhân hay tiểu sử tình dục của nạn nhân.
Tuy nhiên, ngay cả khi luật pháp không
xem tiểu sử tình dục của nạn nhân là có liên quan trong vụ việc, thì
trong thực tế, các tác nhân trong hoạt động tư pháp thường kiểm tra tiểu
sử tình dục của nạn nhân để xác định tính đáng tin cậy của nạn nhân và
để đánh giá bằng chứng.
Quy định này duy trì cái khuôn mẫu rằng
chỉ có phụ nữ “đức hạnh” hay “trinh trắng” thì mới là những người đáng
tin cậy và đáng được luật pháp bảo vệ trước các hành vi xâm phạm “đức
hạnh” của họ. “Đức hạnh” vốn là thứ được nhiều xã hội nhìn nhận về mặt
văn hóa là một sở hữu đáng quý.
Trái lại, phụ nữ nào có kinh nghiệm tình
dục hay được cho là “đàn bà có danh tiếng xấu” thì lại được xem là có
khả năng cao sẽ nói dối, chả có “đức hạnh” gì để bảo vệ, và theo đó là
những kẻ sẵn sàng quan hệ tình dục; vậy nên, họ không có lý do gì để
phàn nàn khi bị xâm hại.
Ngược lại, tiểu sử tình dục hay danh
tiếng của nam giới lại không được xem là liên quan trong các vụ cưỡng
hiếp hay tấn công tình dục. Họ không hề bị bắt phải có “đức hạnh” hay là
đàn ông có tư cách đạo đức tốt.
Việc để cho tiểu sử tình dục hay danh
tiếng của nạn nhân được xem là có liên quan trong xử lý các vụ tấn công
tình dục chính là chuyển trọng tâm của việc điều tra hành vi của kẻ gây
ra vụ việc sang tiểu sử cá nhân của nạn nhân.
Niềm tin rằng các cáo buộc dối trá là thường xuyên trong các vụ cưỡng hiếp
Có một niềm tin phổ biến là phụ nữ tố cáo cưỡng hiếp hay tấn công tình dục thường là những người có khả năng nói dối nhất.
Niềm tin về “cáo buộc dối trá” này rất
phổ biến, bất kể rằng chưa có nghiên cứu đáng tin cậy nào cho thấy rằng
cáo buộc dối trá là phổ biến trong các vụ tố cáo cưỡng hiếp hay tố cáo
tấn công tình dục.
Một khảo sát ước lượng về khai báo dối
trá với cơ quan hành pháp về việc bị tấn công tình dục tại Mỹ, Anh, và
Úc cho thấy, khi các biện pháp nghiên cứu khoa học nghiêm khắc được áp
dụng, ước lượng khai báo dối trá chỉ ở mức 2% đến 8%.
Niềm tin rộng rãi rằng cáo buộc dối trá
là phổ biến khiến cho các nạn nhân ít có động lực tố cáo hơn. Nó góp
phần làm tăng nỗi sợ hãi của nạn nhân rằng họ sẽ không được tin tưởng và
theo đó, họ tránh dùng hệ thống công lý.
Niềm tin này cũng giải thích tại sao nhiều nước nhấn mạnh vai trò của bằng chứng vật lý và quy định chứng thực.
Rất đáng phải nhìn nhận rằng cái gì cấu
thành nên “cưỡng hiếp thật” và “nạn nhân đáng tin cậy” bao gồm việc sử
dụng các đánh giá dựa trên các định kiến hay các khuôn mẫu giới.
Kết luận rằng một nạn nhân đang đưa ra
“cáo buộc dối trá” có thể được đưa ra trong một số vụ việc chỉ vì các
nạn nhân đã có vẻ không đáng tin cậy dựa vào các khuôn mẫu giới, thay vì
dựa trên sự thật là hành vi xâm hại đã không hề xảy ra.
Ngoài ra, khái niệm “cáo buộc dối trá”
khá mông lung và thiếu chuẩn xác. Cụm từ “cáo buộc dối trá” thỉnh thoảng
cũng được dùng trong các vụ việc mà bằng chứng đơn giản là không đầy đủ
(insufficient) hay thiếu khả năng giúp đưa ra kết luận (inconclusive),
hay trong các vụ việc mà lời tố cáo không/chưa được chứng minh
(unsubstantiated).
Một lời khai báo là gian trá chỉ có thể
được đưa ra dựa trên các kết quả có được từ một “cuộc điều tra kỹ lưỡng,
dựa trên bằng chứng”. Một cuộc điều tra kỹ lưỡng, dựa trên bằng chứng
như thế phải được thực hiện theo một cách phi định kiến, không sử dụng
các khuôn mẫu giới.
“Cáo buộc dối trá” chỉ nên được sử dụng trong một vụ việc đã có kết luận là có sự dối trá hay bịa đặt có ác ý.
Niềm tin rằng chuyện cưỡng hiếp là có thể tránh được
Các tác nhân hoạt động tư pháp thường tin rằng cưỡng hiếp là việc có thể tránh được.
Bởi vì có niềm tin này, nên các nạn nhân
bị cưỡng hiếp thường được yêu cầu phải giải thích tại sao họ không thể
trốn thoát khỏi tình huống vụ việc khi họ bị cưỡng hiếp.
Các tác nhân hoạt động tư pháp thường
kiểm tra mọi chi tiết trong vụ cưỡng hiếp nhằm để chắc chắn rằng đã có
nhiều cơ hội cho nạn nhân trốn thoát.
Sau đó, nạn nhân sẽ bị đổ lỗi là cô ta
đã không tận dụng tất cả các cơ hội đó để trốn thoát, rằng cô ta đã
không hành xử có lý tính và đã không chú tâm vào lúc đó, và rằng cô ta
đã không chịu áp dụng một chiến lược hữu hiệu để tránh việc bị cưỡng
hiếp.
Có liên quan đến niềm tin này chính là
niềm tin rằng chỉ có phụ nữ ngu dốt, ít học, hay phụ nữ yếu đuối thì mới
bị cưỡng hiếp, và ngược lại, rằng phụ nữ mạnh mẽ, có năng lực, có giáo
dục thì không thể nào bị cưỡng hiếp.
Cũng theo hướng đã nêu trên, một số tác
nhân tư pháp tin rằng khi bị cưỡng hiếp dựa trên các phương pháp mang
tính đe dọa, nạn nhân phải là người rụt rè, mỏng manh, dễ dọa nạt. Và
rằng nếu bị cưỡng hiếp dựa trên những phương tiện mang tính đe dọa, thì
phải có bằng chứng rõ ràng của một mối đe dọa trực tiếp.
Trong một vụ việc được xử tại Tòa Tối
cao Philippine, nhóm đa số các thẩm phán đổ lỗi cho người tố cáo vì “sự
bất cẩn không thể tha thứ” (inexcusable imprudence) của cô ta; theo các
thẩm phán này, “lỗi là của cô ta”.
Có hai thẩm phán cùng xử khác có ý kiến
bất đồng với nhóm đa số. Khuôn mẫu giới đã được nhóm đa số thẩm phán sử
dụng và theo thẩm phán J. Davide, việc sử dụng khuôn mẫu giới đó thể
hiện rõ nhất trong các phần chú giải của phe đa số. Đáng chú ý là lời
phê phán của thẩm phán J. Regalado với phe đa số: “Trách nhiệm của hành
vi tấn công tình dục được đặt lên vai của nạn nhân bởi vì cô ta đã không
phát hiện và ngăn chặn nó xảy ra, thay vì được đặt lên vai chính kẻ đã
âm mưu và thực hiện hành vi đó”.
Quy
định về “cách phản ứng chuẩn mực hay phản ứng thông thường” (standard
or normal reaction), ví dụ như yêu cầu phải có phản kháng thể lý
(requirement of physical resistance)
Một niềm tin phổ biến khác là phụ nữ
luôn luôn nên dùng tay chân chiến đấu chống lại việc bị tấn công hay xâm
phạm. Việc chiến đấu này đã trở thành một hành vi mang tính khuôn mẫu
được xem là phải có ở một nạn nhân “chính đáng”.
Tương tự, có một niềm tin phổ biến rằng
nạn nhân “chính đáng” rời bỏ hay tránh xa kẻ đã xâm phạm họ. Một phụ nữ
chỉ được xem là một nạn nhân thật sự khi cô ta rời bỏ kẻ xâm phạm ngay
lập tức, khi cô ta rời hiện trường không cùng lúc với kẻ xâm phạm, hay
khi cô ta không gặp kẻ xâm phạm nữa sau khi diễn ra hành vi xâm phạm.
Mọi hành vi không thống nhất với các hành vi được mong đợi nêu trên đều được xem là một dấu hiệu của một cáo buộc dối trá.
Các niềm tin nói trên thể hiện một sự
kém hiểu biết rằng chẳng hề có một phản ứng hành vi mang tính chuẩn mực
nào có thể được mong đợi từ một người khi phải đối mặt với việc bị tấn
công tình dục hay chính trong lúc đang bị xâm hại.
Các niềm tin đó cũng không hề xét đến
mặt động lực học (dynamics) trong mối quan hệ nạn nhân – kẻ xâm hại
trong bối cảnh bạo hành gia đình, vốn có mặt các hành vi có thể làm bối
rối những ai chỉ dùng các khuôn mẫu giới làm thước đo hành vi thông
thường.
Quy định rằng phải có bằng chứng vật lý hay là thương tích thể lý
Không phải vụ bạo lực nào cũng có bằng
chứng vật lý. Không phải vụ việc nào cũng có sự tham gia của vũ khí hay
bạo lực thể lý. Không phải vụ việc nào có sử dụng bạo lực thể lý thì
cũng tạo ra thương tích thể lý.
Thỉnh thoảng, ngay cả khi hành vi xâm
phạm tạo ra thương tích thể lý, việc trì hoãn khai báo dẫn đến việc mất
đi các bằng chứng vật lý.
Các nạn nhân cũng thường hay tự hủy hoại
các bằng chứng vật lý của việc bị xâm hại, hoặc thực hiện các hành vi
dẫn đến việc hủy hoại các bằng chứng vật lý.
Sự tồn tại của bằng chứng vật lý tùy
thuộc vào hoàn cảnh diễn ra hành vi xâm hại. Bản chất mối quan hệ giữa
kẻ xâm hại và nạn nhân thường xác định các chiến lược đối phó của chính
nạn nhân. Đây cũng là một yếu tố.
Ví dụ, cưỡng hiếp có thể diễn ra giữa nạn nhân và một người lạ, hay một người quen, hay một người thân cận với nạn nhân.
Những người quen cưỡng hiếp nạn nhân
thường được biết đến dưới tên “những kẻ cưỡng hiếp dựa trên sự tin
tưởng” (confidence-style rapists) bởi vì họ “tiếp cận nạn nhân bằng cách lừa dối, sau đó thì phản bội, hay đe dọa, hay dùng vũ lực”.
Bởi vì họ là người quen, hay có biết nạn
nhân, họ có khả năng tạo ra “một giao tiếp không có tính đe dọa làm
tiền đề cho việc tấn công”. Bởi vì kẻ cưỡng hiếp quen biết nạn nhân, nạn
nhân nhiều khả năng sẽ dùng các chiến thuật lời nói như cãi lý, van
xin, hay mặc cả, thay vì dùng vũ lực để chống lại kẻ cưỡng hiếp, cho đến
khi việc trốn thoát trở nên quá muộn.
Trong những trường hợp như thế, khả năng có thương tích thể lý thấp hơn.
Một nghiên cứ về cưỡng hiếp của Mỹ kết luận rằng “phản kháng với một kẻ lạ thường có nhiều khả năng tạo ra thương tích thể lý hơn là phản kháng với một người quen với nạn nhân.”
Thương tích thể lý thường được xem là
thước đo duy nhất của thiệt hại theo luật pháp. Luật pháp thường phớt lờ
thực tế rằng bạo lực gây ra các thiệt hại ngoài thiệt hại vật lý và
thường gây ra các thương tổn kéo dài đối với tâm lý và tâm thần của nạn
nhân.
Ví dụ, tại một số nước, thước đo thiệt
hại là việc mất trinh (virginity). Việc mất trinh này phải được củng cố
bằng các bằng chứng vật lý. Trong một vụ việc được báo chí Campuchia đưa
tin, tòa án đổi phán quyết từ cưỡng hiếp sang tấn công khiếm nhã
(indecent assault), theo đó là một án phạt nhẹ hơn, bởi vì mức độ thâm
nhập vào âm đạo của một nạn nhân sáu tuổi đã “không đủ sâu”…
Áo quần gợi dục là bằng chứng của việc mời gọi tình dục hay thể hiện sẵn sàng quan hệ tình dục
Niềm tin này sử dụng khuôn mẫu phụ nữ “sẵn sàng quan hệ tình dục” đã nêu.
Trong các phiên tòa, việc áp dụng khuôn
mẫu giới này thường được thể hiện qua các câu hỏi về việc nạn nhân đã
mặc gì khi cô ta bị cưỡng hiếp hay bị xâm hại.
Tuy nhiên, trong thực tế, phụ nữ bị cưỡng hiếp bất kể họ mặc thứ quần áo nào.
Niềm tin rằng khi phụ nữ nói “không” thì họ có ý nói “có”
Niềm tin phổ biến này theo một cách mâu
thuẫn mang hai khuôn mẫu trái ngược lại với nhau: khuôn mẫu đàn bà tốt
và đàn bà dâm đãng.
Phụ nữ tốt thường được mong đợi là phải thụ động và bẽn lẽn trong tình dục.
Nhiều người tin rằng bởi vì phụ nữ bẽn
lẽn về bản chất nên mới nói “không” trong khi họ có ý muốn nói “có”, hay
tin rằng khi phụ nữ nói “không” là họ đang muốn được thuyết phục chuyển
sang “có”.
Niềm tin này có hàm ý rằng tất cả phụ nữ
đều thích tình dục (họ là những người đàn bà dâm đãng kín đáo), tuy
nhiên họ không thể nói thẳng ra là họ thích tình dục.
Cái khuôn mẫu giới này làm hại các nạn
nhân bởi vì niềm tin này tạo ra một thứ định kiến ngay tức thì đối với
các nạn nhân là nữ giới, và tạo ra một lời giải thích tiện dụng cho kẻ
xâm hại trước khi có một cuộc điều tra kỹ lưỡng, cẩn trọng, và không
định kiến đối với hành vi xâm hại bị tố cáo.
Niềm tin rằng một nạn nhân chính đáng không thể trở lại các “hoạt động bình thường” sau khi diễn ra việc xâm hại
Một đặc tính hay thuộc tính thường được
gán cho các nạn nhân bị xâm hại tình dục là họ phải thể hiện rõ ràng hay
phải có bằng chứng rõ ràng của thương tổn tinh thần.
Theo mong đợi này, các nạn nhân nào trở
lại các “hoạt động bình thường” của họ hay không thể hiện các dấu hiệu
đau khổ sau khi bị tấn công tình dục thì thường không phải là những nạn
nhân có thể được tin tưởng.
Niềm tin này làm hại các nạn nhân nào,
bất kể các đau đớn bên trong sau khi bị xâm hại, đang cố hết sức để thể
hiện với thế giới rằng họ ổn và đang đương đầu với hậu quả bằng cách
tiếp tục các hoạt động thông thường và bình thường của họ.
Niềm
tin rằng các nạn nhân thật sự không quên hay không nhầm lẫn các chi
tiết liên quan đến việc bị xâm hại, hay chỉ có những câu chuyện có tính
thống nhất mới là những câu chuyện đáng tin
Một số tác nhân hoạt động tư pháp có
niềm tin rằng một lời cung khai chỉ đáng tin khi lời cung khai đó thống
nhất đến từng chi tiết.
Các nạn nhân được mong đợi, ngay từ khi
bắt đầu cuộc điều tra, là sẽ tiết lộ toàn bộ các chi tiết, và sẽ thuật
lại một cách thống nhất các diễn biến vụ việc.
Mọi thêm bớt hay thay đổi chi tiết về sau thường được xem là biểu hiện của sự gian trá.
Theo cách suy nghĩ này, nạn nhân chỉ được xem là đáng tin khi nào họ tuyệt đối chắc chắn về các chi tiết của việc bị xâm hại.
Tương tự, khi người bị tố cáo nào có khả năng thuật lại một cách thống nhất các chi tiết vụ việc, người đó được xem là đáng tin.
Đó là quan điểm của Tòa phúc thẩm Đông
Timo trong một vụ việc mà họ viện dẫn “lời cung khai rất thống nhất,
không mâu thuẫn của bị cáo” là một trong các lý do họ xử bị cáo trắng
án.
Các niềm tin nêu trên không xét đến ảnh
hưởng của thương tổn tinh thần lên các nạn nhân của bạo lực. Một sự kiện
gây thương tổn tinh thần có thể làm hỏng các chức năng tâm thần của một
người, và “một trong những khu vực bị thiệt hại nặng nề nhất trong
các chức năng tâm thần của một người đã phải trải nghiệm một sự kiện
nghiêm trọng chính là trí nhớ”.
Suy giảm trí nhớ là hiện tượng thường có ở các nạn nhân bị xâm hại hay nạn nhân bạo lực. “Suy
giảm trí nhớ là sản phẩm của một cơn lũ ngập tràn các tác nhân kích
thích tiêu cực. Nó đồng thời là một cơ chế thích nghi (adaptive
mechanism)”.
Vì vậy, phải cẩn trọng khi đưa ra kết
luận rằng các điểm không thống nhất trong lời khai hay lời kể của nạn
nhân là dấu hiệu cho thấy các cáo buộc là giả dối.
Niềm tin rằng kẻ xâm hại phải là một kẻ rõ ràng là bệnh hoạn, điên khùng
hay loạn trí (hay là kẻ không đáng trọng, không gây thiện cảm)
Các đặc điểm vật lý hay bề ngoài thường gợi người ta đến các khuôn mẫu giới.
Một khuôn mẫu giới thường có trong bạo
lực liên quan đến giới tính là kẻ gây ra hành vi bạo lực phải trông như
là một kẻ điên cuồng (maniac) (trong trường hợp các vụ hiếp dâm), hay
trông rõ ràng là bạo lực và loạn trí (trong các vụ việc bạo hành gia
đình).
Một người đàn ông tử tế, nói năng nhẹ
nhàng, trông đàng hoàng thì được xem là ít có khả năng là một kẻ hiếp
dâm hay một kẻ bạo hành.
Trong thực tế, nhiều kẻ xâm hại phụ nữ
là những con người được xem là “bình thường”, không hề giống các khuôn
mẫu những kẻ phạm pháp, và thường họ là những người đã có quen biết với
các nạn nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét