Tay vịn dây, chân đi như chạy trên
sợi dây thừng giăng ngang mặt biển, những người làm nghề đóng đáy chấp
nhận cuộc sống biệt lập trên chòi nhỏ chơi vơi giữa sóng gió để mưu
sinh.
Sống theo con nước
0 giờ, từ làng chài Bến Đá (TP.Vũng Tàu, Bà Rịa-Vũng Tàu), tôi lên
thuyền của ngư dân Nguyễn Văn Yên (26 tuổi, TP.Vũng Tàu), đi đổ đáy.
Cùng đi có anh Tư, người phụ việc trên thuyền.
|
Tay đánh lái, đầu ngó nghiêng dò đường, anh Yên cho hay mỗi ngày đi
đổ đáy bốn lần: nửa đêm, rạng sáng, buổi trưa và chiều tối. Phụ thuộc
vào con nước nên thời điểm đi đổ đáy mỗi ngày cũng khác nhau. Hôm nay đi
đổ lúc 0 giờ thì ngày mai đi lúc 1 giờ sáng. Ngày kia thì tới 2 giờ
sáng mới đi, cứ tiến lên như vậy.
Nơi đóng đáy cách bờ khoảng 4 hải lý, nước sâu hơn 20 m. Thuyền
tiến sát vào hàng dây chăng giữa giàn đáy thì cột và chòi đáy dần hiện
ra. Những cây gỗ to như cột nhà, được chằng chéo cả chục sợi dây, ghim
chặt xuống đáy biển. Nối các cột là những hàng dây thừng căng cứng, ở
giữa có ghép lưới vây kín khẩu đáy. Con nước lên xuống sẽ tạo ra dòng
chảy dẫn tôm, cá chui vào miệng và dồn vào túi đáy. Cuối giàn đáy, một
cái chòi quây bằng bạt bám cheo leo trên cột gỗ, cách mặt biển tầm 3 m.
Đó là “nhà” của bạn đáy.
Dàn đèn được bật sáng, anh Yên cho thuyền cặp sát giàn đáy và bắc
tay làm loa gọi lớn. Tiếng kêu vừa dứt, từ căn chòi bé như “tổ chim”,
một người đàn ông dáng nhỏ thó chui ra, tay xách ấm nhôm, tay bám dây đu
ra giữa biển. Chân ông bước thoăn thoắt như chạy trên hàng dây thừng.
Trong nháy mắt, ông buông dây thả người xuống thuyền.
|
Ông là Phạm Văn Mít (59 tuổi, quê An Giang). Lên thuyền, ông vơ lấy
cuộn dây thừng đầu có buộc móc, lựa thế ném mạnh xuống biển. Móc vừa
đụng vào dây buộc túi đáy, đôi tay rắn rỏi thoăn thoắt kéo mạnh lên. Lúc
này, anh Tư liền ghì sát mạn thuyền phụ kéo lưới, còn anh Yên nhanh
chóng bắt sợi dây buộc túi đáy quấn vào ròng rọc để kéo lên thuyền. Từ
dưới biển, túi lưới to như bao tải dần nổi lên. Phải chật vật lắm, cả ba
người mới kéo được túi đáy chứa đầy hải sản dốc đổ vào khoang thuyền.
Đổ xong, ông Mít giũ lưới, buộc miệng đáy ném lại biển.
Xong miệng đáy thứ nhất, thuyền tiến tới miệng đáy thứ hai. Những
động tác kéo và đổ đáy thành thục lặp đi lặp lại giữa biển đêm lộng gió.
Xong việc, ông Mít nhặt hai con cá bỏ vào ấm nhôm rồi với tay nắm dây
đu lên chạy thoăn thoắt như con sóc trên giàn dây thừng giữa biển để về
chòi.
Thuyền nổ máy tiến về giàn đáy thứ hai cách đó chừng nửa hải lý.
Giàn này có tới bốn miệng đáy nên có hai bạn đáy trông coi. Chòi đáy
cũng “xịn” hơn khi được làm bằng tôn. Thuyền vừa tới, hai người đàn ông
ló đầu ra cửa chòi nhìn. Anh Yên đánh lái cho thuyền cặp sát vào chòi để
tiếp tế nước và lương thực. Xếp ba can nước và bao gạo lên chòi, hai
bạn đáy cùng nhảy xuống thuyền để đổ đáy. Gần 40 phút, bốn miệng đáy đổ
ào ào vào khoang thuyền. Hai bạn đáy nhặt ít cá, tôm bỏ vào can nhựa rồi
nhanh chóng bám dây thừng đu ra giàn đáy. Gặp cơn gió, hai người quặt
bên này quẹo bên kia. Vật lộn với dây thừng mãi mới lên được chòi.
Thuyền rẽ sóng quay về. Trong khoang, anh Tư vừa phân loại hải sản
vừa dùng móc kéo những con sứa to như cái rổ con vứt xuống biển. Với sáu
miệng đáy, thuyền anh Yên thu gần bốn tạ tôm, cá. “Đổ đáy cũng tùy, hôm
được tấn, lúc hơn chục tấn”, anh Yên nói và tiết lộ thêm: “Nước ròng
ban đêm khác nước ròng ban ngày. Theo con nước nên bốn lần đổ đáy thì
được những loại hải sản khác nhau. Đổ lúc nửa đêm thường được cá lặt
vặt, sâu biển. Chuyến rạng sáng thường nhiều cá, tôm nhất. Buổi trưa lại
trúng nhuốt và chiều tối thường là ghẹ, mực và bạch tuộc”.
|
Nghệ sĩ xiếc trên mặt biển
Bạn đáy sống và làm việc ở giàn đáy được ví như là diễn viên xiếc
của biển khơi. Họ luyện được “tuyệt kỹ” đi trên dây thừng giăng ngang
giữa biển, bất chấp gió quật sóng gào để kéo, thả đáy. Hàng cọc gỗ trơ
trọi, dây thừng chằng chịt và cả những con sóng oàm oạp suốt đêm ngày
khiến ai cũng khiếp sợ. Bởi sơ sẩy là rớt xuống biển, nhẹ thì bị thương,
nặng thì mất mạng. Những lúc mưa gió, biển động, giàn đáy rung bần bật
khiến việc kéo đáy càng thêm nguy hiểm.
Ông Mít kể theo nghề làm đáy từ lúc 17 tuổi, đến nay đã hơn 40 năm.
Làm nghề mấy chục năm nên ông quen với cảnh sống một mình giữa biển.
Nhiều thanh niên ra được vài hôm, nhìn xung quanh toàn nước, buồn chịu
không thấu bỏ về hết. “Làm nghề đáy cực khổ và nặng nề quá. Thức đêm
thức hôm, giông gió nên nhiều bạn đáy đành bỏ nghề lên bờ kiếm việc làm.
Đợt bão ngày trước, có sáu bạn đáy bị sập giàn, may ôm được can bơi về
thấu Cần Giờ”, ông Mít tâm sự và cho hay: “Những lúc giông gió, đáy
chuyển có dám ngủ đâu. Dây yếu, nước chảy mạnh khiến giàn đáy sập xuống.
Người rơi xuống biển may thì có thuyền vớt, không thì trôi tự do, phó
mặc số phận. Chòi tôi ở bị gãy nọc cả chục lần, phải lội nước hàng tiếng
đồng hồ mới vào được bờ”.
Theo ông Mít, ở một mình nên hằng ngày ông thường nấu cơm ăn rồi
ngủ. Ông hẹn chuông đồng hồ, treo ở góc chòi để biết giờ thức dậy ra dồn
lưới, kéo đáy. “Ở giàn đáy lớn, bạn chòi nhiều thì bày ra nhậu cho đỡ
buồn. Cá, tôm sẵn có, còn rau và thịt thì ba ngày chủ đáy tiếp tế một
lần. Đau ốm lặt vặt thì nhờ mua thuốc, nặng thì gọi điện thoại báo để
chủ đáy cho thuyền ra rước”, ông Mít nói.
“Tôi ở trên chòi đến mãn con nước thì đóng đồ, treo đáy lên, vô bờ
lấy tiền công. Mỗi con nước 5 triệu đồng, một tháng được 10 triệu đồng.
Mỗi tháng nghỉ được 7 ngày giữa hai con nước lớn nước ròng, về Bình
Dương thăm vợ con xong tôi lại xuống biển. Cứ làm miết như vậy”, ông Mít
tâm sự. “Chú tính làm đến bao giờ?”, tôi hỏi. “Giờ còn sức còn làm
thôi, chứ lên bờ cũng không biết làm nghề gì. Mình lớn tuổi rồi, lại
không được học hành…”, ông Mít buông lời, châm điếu thuốc rít một hơi
dài nhìn về cửa chòi bé xíu. Phía xa, những giàn đáy vẫn chấp chới trong
gió biển, đó là nguồn sống, là niềm hy vọng của những người như ông...
Nói về nguy hiểm của nghề đóng đáy, ông Nguyễn Văn Bằng
(49 tuổi, ngụ TP.Vũng Tàu), chủ đáy hàng khơi, cho biết: “Ghe nhỏ đụng
vào giàn đáy thì không sao, chứ thuyền lớn đụng là sập ngay. Bạn đáy ai
cũng làm nghề lâu năm nên bơi giỏi. Đáy sập họ đều chủ động nhảy xuống
biển bơi vào bờ”. Tuy nhiên, ông Bằng cũng nhìn nhận: “Vùng biển từ Vũng
Tàu, Cần Giờ (TP.HCM), Tiền Giang đến tận Cà Mau có hàng trăm giàn đáy
hàng khơi. Tai nạn do ngã xuống biển hoặc bị sập giàn đáy cũng đã cướp
đi không ít sinh mạng của bạn đáy”.
Ông Bằng kể, gia đình có truyền thống nghề biển. Năm
1968, thấy người dân địa phương làm nghề đóng đáy nhiều nên ông cũng làm
theo. Hiện ông có ba giàn đáy với 9 miệng, 18 nhân công và 2 thuyền
chuyên nghề đóng đáy. Giàn đáy nhỏ nhất cũng gần 200 triệu đồng. “Nghề
đóng đáy làm được quanh năm. 6 miệng đáy của tôi mỗi tháng thu được
khoảng 100 triệu đồng. Trừ chi phí, nhân công cũng lãi được vài chục
triệu đồng. Tuy vất vả nhưng nghề này đã nuôi sống mấy thế hệ trong gia
đình tôi”, ông Bằng nói và cho biết thêm: “Giàn đáy ba miệng vừa rồi bị
tàu đâm sập. Tôi mới cho dựng lại, sắp tới lại tiếp tục căng đáy lên để
đánh bắt”.
Tiểu Thiên ( Báo Thanh Niên )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét