Dưới
đây là những
góp Ý rất chân thành và khách quan của tôi, nhằm mục đích làm trong
sáng và phong phú hơn tiếng Việt một cách thực tế, phù hợp với " Tập
quán Ngôn ngữ " hằng ngày của cộng đồng nười VIỆT nói tiếng VIỆT, chớ
không lập dị hoặc bới lông tìm vết gì cả !
Trước tiên, xin đề cập đến từ " CHUNG CƯ hay CHÚNG CƯ
".
Trích bài viết :
CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt vì tính
từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ
chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy
chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối
cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa.
Vậy phải
đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì
mới ổn.
Theo tôi nghĩ :
Từ CHUNG CƯ là từ được viết gọn lại của nhóm từ CÙNG CHUNG CƯ NGỤ, đã
được quần chúng sử dụng từ trước đến nay, nghe đã quen tai, không cần
thiết phải đổi lại thành CHÚNG CƯ, nghe vừa xa lạ vừa chói tai, vừa lập
dị vừa không hợp với tập quán ngôn ngữ. Xin được giải thích...
Trước
tiên, xin được nói về TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, TẬP QUÁN là Thói Quen, NGÔN
NGỮ là Tiếng Nói. TẬP QUÁN NGÔN NGỮ là Thói quen của một Tiếng nói nào
đó mà mọi người đã quen sử dụng và chấp nhận Ý nghĩa của nó theo Thói
Quen. Ví dụ :
Từ CHẮC là CHẮC CHẮN, được sử dụng theo nghĩa KHÔNG CHẮC CHẮN gì cả ! Như các câu sau đây :
- Trời oi bức quá, chiều nay CHẮC mưa.
- Trời mưa, CHẮC nó không đến đâu
!
- Tối nay có đi xem phim không ?- CHẮC đi !
Trả
lời là " CHẮC đi "để tỏ cái Ý " KHÔNG CHẮC đi " gì cả ! Đó là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ ! Thế
thì...
Khi nói " CHUNG CƯ " là mọi người đều
hiểu ngay rằng đó là nơi có nhiều người CÙNG CHUNG CƯ TRÚ, chớ không
phải là NƠI Ở CUỐI CÙNG, MỒ CHÔN hay NGHĨA ĐỊA gì cả , vì " CHUNG CƯ là
TẬP QUÁN NGÔN NGỮ được mọi người cùng chấp nhận, thì TẠI SAO ta phải đi
bới lông tìm vết, bảo nó không chính xác mà phải nói là CHÚNG CƯ cho
đúng với cách nói của từ Hán Việt ?! CHÚNG CƯ vừa chói tai khó nghe,
vừa không hợp với TẬP QUÁN NGÔN NGỮ !
Ta có bảo người Pháp chào nhau bằng
câu : " comment allez vous ? " là sử dụng SAI động từ ALLER ( đi )
không ? Và người MỸ chào nhau bằng câu : " How are you doing ? là dùng
không chính xác động từ TO DO ( làm ) không ? Cũng như người Việt ta
chào nhau bằng câu : " Có khỏe không ? ", không phải ta dùng sai từ KHỎE
đâu, người Hoa chào nhau bằng câu : " Sực fàl mì ? 吃飯沒?" ( Ăn cơm chưa ?
) không phải là họ nói SAI đâu, mà tất cả đều là do TẬP QUÁN NGÔN NGỮ
được mọi người cùng chấp nhận mà thôi !!!
Sở dĩ tôi phải nói dài dòng như thế là chỉ để làm cơ sở cho những nhận xét kế tiếp của phần bên dưới.
Về từ KHẢ NĂNG 可能. Trích...
KHẢ
NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc
gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm
nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh…
Nghe thực là kỳ cục
và đáng xấu hổ. Tôi cho
rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable)
với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng
từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng
để nói về năng lực mà con người mà thôi.
* Góp ý :
Theo tôi nghĩ thì : KHẢ NĂNG là Phó Từ, có nghĩa là Có Thể ( perhaps,
maybe, possibly ), còn NĂNG LỰC mới là Tài Năng và Sức Lực (
capability, ability ) của con người làm được việc gì đó. Nên câu:
Hôm nay, khả năng trời không mưa.
chỉ là câu nói thiếu chữ, sai văn phạm, chớ không sai từ, nếu nói lại như thế nầy, thì câu sẽ hoàn chỉnh :
Hôm nay, có khả năng trời sẽ không mưa .
Và câu...
Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh…
Nói lại thành...
Con bò nầy có khả
năng sẽ chết vì bị bệnh…
Nhưng...
Nếu KHẢ NĂNG là Danh Từ, thì có nghĩa giống như là NĂNG LỰC . VD :
NĂNG LỰC của một người là chỉ KHẢ NĂNG của người đó có thể làm được việc gì đó.
Về từ " HUYỀN THOẠI ". Trích...
HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu
học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán
để tỏ ra
“ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười.
Thí
dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói
“huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe thực
chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe
chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có
thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo,
không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra
trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là
những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao
gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu
muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy:
“Cái tài của 2 ông nầy tưởng
như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay
nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
* Góp ý :
Chưa chắc mình đã giỏi hơn ai, sao lại cười người quá thế ?!
Chỉ đồng Ý với cách giải nghĩa đen của từ HUYỀN THOẠI, sao không tìm hiểu
NGHĨA BÓNG và NGHĨA PHÁT SINH của một từ mà
lại vội tỏ lời khinh bạc sâu cay đối với người khác như thế ?!
HUYỀN THOẠI ngoài nghĩa là " Câu chuyện Huyền diệu, Huyền hoặc, Huyền
vi không có thực " ra, còn được sử dụng như là một HÌNH DUNG TỪ để chỉ
những khả năng vượt trội siêu thực, khó có thể có được trong đời sống
hằng ngày.
Điều cần nhớ, bây giờ NÓ là TÍNH TỪ chớ không phải là DANH TỪ nữa, phải
hiểu theo nghĩa HÌNH DUNG của NÓ, thì mới thấy được cái dụng Ý của nhóm
từ HUYỀN THOẠI PÉLÉ hay HUYỀN
THOẠI MARADONA. Vì
đây là những nhân tài Bóng Đá hiếm thấy trong làng TÚC CẦU THẾ GIỚI mà
trước mắt hay tương lai cũng khó mà có được !
Hơn nữa đây đã là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, vì mọi người đều chấp nhận gọi
thế, Ý nghĩa cũng đã rõ ràng, sao lại còn làm ra vẻ ta đây là " bác học "
để chê trách mọi người " Dốt hay nói chữ "!.
Bây giờ thì ta sẽ nói về các từ " HÔN PHU, HÔN THÊ " đây.... Trích :
HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu
và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê
là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ
(lễ cưới)
hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu
昬夫,昬妻 là
nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u
mê vậy.
* Góp ý : HÔN
婚 ( marry, marier ) mà giải nghĩa là CƯỚI là SAI ...BÉT ! Theo
tôi học thì HÔN là "GIÁ 嫁 và THÚ 娶", GIÁ là Gã, là Lấy chồng, còn THÚ là
Cưới vợ. Vậy, HÔN 婚 là Sự CƯỚI GÃ. Cho nên...
HÔN PHU, HÔN THÊ là Vợ hoặc Chồng có cưới hỏi đàng hoàng, có làm Giấy
Giá Thú, Hôn Thú đàng hoàng, chớ không phải Vợ Chồng Tự Kết Hợp, tự mình
ăn
ở với nhau ! Và khi
nói...
HÔN PHU, HÔN THÊ không ai nghĩ đó là nguời chồng u mê, người vợ u mê cả !, mà hiểu ngay đó là VỢ CHỒNG HỢP PHÁP, CÓ CƯỚI HỎI ĐÀNG HOÀNG. Những từ nầy RẤT QUAN TRỌNG đối với các Luật Sư và Tòa Án.
Đâu có ai lập dị một cách... đa sự, mà đi đánh đồng từ ĐỒNG ÂM giữa HÔN
PHU 婚夫, HÔN THÊ 婚妻 và HÔN QUÂN 昏君 bao giờ ! Hai chữ HÔN khác nhau xa mà
!
Tiếp tục Trích...
2.- Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán ViệtĐỘC
LẬP
Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt,
độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng
từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ
thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một
mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc
lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự
chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi
rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại
sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên
quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc
phải theo
cái sai của họ.
* Góp ý :
Nghĩa đen thui của ĐỘC LẬP là Đứng đơn độc một mình, Đúng rồi ! Nhưng
sao không xét nghĩa phát sinh và ngữ cảnh lúc từ ĐỘC LẬP ra đời ?! Từ
ĐỘC LẬP ra đời trong bối cảnh các nước nhược tiểu đấu tranh giành quyền
TỰ CHỦ trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của Chủ Nghĩa THỰC
DÂN THUỘC ĐỊA sau Thế Chiến Thứ Nhất. Nên...
ĐỘC LẬP là Tự mình đứng dậy riêng mình, Tự mình tổ chức chính quyền của
riêng mình, Tự mình TỰ CHỦ lấy mình, mà không nhờ vào hoặc bị khống chế
bởi một Ngoại Bang nào khác. Nói thế, không phải là sửa nghĩa gốc của từ
Hán Việt, mà là triển khai nghĩa bóng, nghĩa phát sinh của một từ khi
nó đi vào cuộc sống.
Có ĐỘC LẬP thì mới TỰ CHỦ chủ được ! Hơn nữa từ ĐỘC LẬP đã trở thành TẬP QUÁN NGÔN NGỮ lâu rồi, mọi người đều nói :
Lễ ĐỘC
LẬP của một nước, chớ không ai nói Lễ TỰ CHỦ của một nước bao giờ ! Còn nói : Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế.
Đúng
rồi ! Cái đó kêu bằng BANG GIAO, ĐỘC LẬP không có nghĩa là " CHƠI MỘT
MÌNH ", không chơi với ai. Sao lại hiểu nghĩa HẸP HÒI thế ?! Và...
Sao lại chỉ nghe " Có người bảo với tôi rằng " mà đổ lỗi cho Tôn Dật Tiên, rồi xúc phạm đến bậc trưởng thượng nầy ?! Có đáng trách lắm không ???
Từ PHONG KIẾN . Trích ...
Ở Việt Nam không bao giờ có
chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế
(royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ
phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn
tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
* Góp ý :
Chỉ đồng Ý với nghĩa đen của từ
PHONG KIẾN
và trên bình diện nghiên cứu
Lịch Sử. Còn về nghĩa thông dụng khi đi vào cuộc sống thì nhận xét như trên là quá hẹp hòi, vì
từ...
PHONG KIẾN khi dùng rộng ra là để chỉ những Chế Độ Quân Chủ Chuyên Chế
lạc hậu so với phong trào đấu tranh Dân Chủ đang lên. Gọi Chế Độ Quân
Chủ CHUYÊN CHẾ là PHONG KIẾN để Nhấn Mạnh đến tính chất lạc hậu, cổ hủ,
không có nhân quyền... so với Chế độ DÂN CHỦ mới mẻ tôn trọng quyền sống
của con người hơn. Trong lúc muốn đả phá cái cũ lạc hậu có nói quá lố
một chút cũng là chuyện bình thường mà thôi. Chính vì thế mà khi chấp
chánh Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM đã chủ trương BÀI PHONG ĐẢ THỰC ( Bài trừ
phong kiến và Đánh đuổi thực dân ) để xây dựng cuộc sống mới . Đâu
phải tại dốt và dùng sai từ PHONG KIẾN đâu
!
Trích...
3.- Sai vì không phân biệt
được tiếng Hán Việt với tiếng thuần
Việt (tiếng Nôm). QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu
nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ
là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau
tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là
ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ
là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là
ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất
toàn quốc.
GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ
trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế
là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ
được.
Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt)
thì mới đúng.
* Góp ý :
Theo tôi nghĩ, gọi ...
QUỐC GIỖ, GÓA PHỤ là một Sáng tạo làm giàu thêm cho ngôn ngữ tiếng Việt
đó chứ ! Sao lại cứ phải khăn khăn ghép từ theo kiểu Hán Việt thế ?!
Chả lẻ lại gọi là NGÀY QUỐC KỴ hay toàn Nôm là NGÀY GIỖ NƯỚC ? Còn...
GÓA PHỤ hay QUẢ PHỤ gì thì đều là những từ thông dụng đã đi vào TẬP QUÁN NGÔN NGỮ của tiếng Việt, sao
lại còn phải
thắc mắc ?!!!
Còn luôn miệng bảo là phải ghép
hai chữ Hán lại thành một từ mới hợp với Văn Phạm Hán Việt (???) thì
xin hãy quên đi !!!
Mời xem các Ví dụ sau đây :
Từ HÁN VIỆT : HƯƠNG là THƠM ( NÔM ), ta có từ Ghép :
Hương Thơm.
HOA là BÔNG, ta có từ Ghép : Bông Hoa.
KÝ là GỞI , ta có từ Ghép : Ký Gởi.
PHÂN là CHIA, ta có từ Ghép : Phân Chia.
LÝ là LẼ, ta có từ Ghép
: Lý Lẽ.
SANH là
ĐẺ, ta có từ Ghép : Sanh Đẻ.
TIẾP là NỐI , ta có từ Ghép : Tiếp Nối.......
nhiều vô số kể !....
AI ? Ai dám bảo là KHÔNG THỂ GHÉP MỘT TIẾNG HÁN và MỘT TIẾNG NÔM lại để thành lập một từ mới ?!
Trích...
4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi
nhìn thấy cái
bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái
chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể
kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ
nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn
phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải
là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về
khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia
kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi
sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài
sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X
(với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không
kích thích được tế bào
thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ
QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học.
Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG
đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay,
vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn
dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
* Góp ý :
Luôn miệng mạt sát và mỉa mai
người
khác ( “đại giáo sư tiến sĩ” nào ), mà không biết đến sự cổ hũ, cố chấp của mình !
TIA X là Tia gì ? Tia Sáng, Tia Chớp, Tia Nước hay Tia... Nhìn ?! Trong khi...
X- QUANG có nghĩa là : TIA SÁNG X .
Nói chơi thế thôi, chớ TIA -X hay X- QUANG ( tia Röntgen ) gì mà chả được ! Có cần phải khó chịu đến nỗi phải lý luận tràng giang đại hải khoe mình uyên bác như trên kia không
?!
TIA-X hay X-QUANG đều dễ hiểu, dễ đi vào quần chúng, thì thôi, thắc mắc làm gì cho nó ốm ?!
Sự thật X-QUANG là lấy từ " X-光 " của người Hoa phiên âm sẵn, rồi ta
lấy xài luôn cho tiện, khỏi mất công ! Chuyện nầy cũng không phải mới
mẻ gì mà đã từng xảy ra trong quá khứ và còn ảnh hưởng mãi cho đến hiện
nay. Ví Dụ :
Người Hoa phiên âm chữ CANADA là
加拿大 ( Jia-na-da ), ta dịch ra Hán Việt là nước GIA NÃ ĐẠI. Tương tự
ITALI, họ phiên âm là 意大利 ( Yi-da-li ), ta dịch và gọi là nước Ý ĐẠI
LỢI. v.v. và .v.v .... đâu có chết " thằng
Tây " Phú Lang Sa nào đâu, thắc mắc
làm gì cho nó mệt ?!
Tương tự như thế, suốt bài viết, tác giả bài viết tưởng rằng mình giỏi
Hán Việt lắm, cứ chê trách tập thể cộng đồng người
Việt nói tiếng Việt dốt nát, kể
cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích
dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một
cách thực buồn cười. Thực ra, sửa sai mà sửa một cách lập
dị, cố chấp, thiếu đầu óc thông thoáng và hiểu biết, thì chưa biết là ai
" buồn cười " hơn ai đây ?!
Suốt từ đầu đến cuối gồm 16 mục Hà Thủy Nguyên (?) luôn miệng bảo :
Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm. ( ? ) Không
biết là cái Văn Phạm nầy HTN học từ đâu ra mà cứng ngắt không linh động
chút nào cả ! Vả lại, chữ Hán Việt cổ có Văn Phạm đâu mà học ?! Ngay
cả dấu chấm câu còn không có mà làm sao có Văn Phạm được ?! . Nhưng
thôi, ta hãy nói chuyện chính trước...
Xuất
phát từ động cơ tốt,
muốn làm
rõ nghĩa để sử dụng từ
ngữ một cách chính xác hơn, nhưng cách nhận xét và phê bình của Bài
Viết có vẻ thô lổ, cộc cằn, luôn miệng mỉa mai, xài xể bóng gió những từ
ngữ được đề cập... do ai đó tạo ra, đưa ra ! Thật tội nghiệp ! Nói và
Viết nghiêm chỉnh đàng hoàng còn chưa có tác dụng, huống hồ với giọng
điệu trịch thượng, ta đây như Bài Viết thì làm sao mà đạt mục đích yêu
cầu cho được. Xin được dẫn chứng...
Khoảng giữa năm 1994, dân Sài Gòn đọc được một bài đăng trên báo Sài
Gòn Giải Phóng của Giáo
Sư Lương
Duy Thứ, Trưởng Khoa Trung của Đại Học Tổng Hợp vừa chuyển sang thành
Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, nội dung bài báo đề cập đến việc
nên dùng từ " CHÚNG CƯ " thay thế cho từ " CHUNG CƯ " giống như bài
viết nầy đã đề cập. Sau đó, các báo, đài đều hưởng ứng dùng từ CHÚNG CƯ
thay thế cho CHUNG CƯ, nhưng , chỉ một thời gian sau và mãi cho đến hiện
nay, đã hơn 20 năm qua , thì... đâu vẫn hoàn đấy ! Tập thể
Quần Chúng nói tiếng Việt vẫn thích dùng từ CHUNG CƯ hơn là CHÚNG CƯ
!!! Tất cả báo đài trước mắt đều quảng cáo cho các CHUNG CƯ CAO CẤP,
chớ không phải CHÚNG CƯ nữa !
Từ đó, ta có thể xác định lại một lần nữa là : Cái TẬP QUÁN NGÔN NGỮ
của quần chúng, NÓ mạnh biết chừng nào !. Nên, theo tôi thì...
Những
từ nào đã được tập thể quần chúng nhân dân sử dụng rộng rãi rồi thì...
thôi, ta nên chấp nhận ( không chấp nhận cũng không được ! ) Nó như là
một thành viên mới trong gia đình, nếu tự bản thân Nó không ổn, chắc
chắn Nó sẽ bị đào thải mà thôi ! Ví dụ như từ " CHÚNG CƯ " đã nêu ở
trên.
Trở ngược về xa hơn, ta thấy trong TRUYỆN KIỀU của cụ NGUYỄN DU cũng có
những từ đã bị đào thải theo thời gian, như :
Vài tuần chưa cạn chén khuyên,
Mái ngoài NGHỈ đã giục liền ruổi
xe,
Xót con lòng nặng
CHỀ CHỀ,
Trước yên ông đã NẰN NÌ thấp cao.
NGHỈ : là Nhân Vật Đại từ, Ngôi thứ ba số it.
Nặng CHỀ CHỀ : Bây giờ ta nói là Nặng CHÌNH CHỊCH.
NẰN NÌ : là Năn Nỉ.
Trong khoảng đầu thập niên 60 của thế kỉ trước rất thịnh hành các từ "
Lấy Le ", "
Bỏ qua đi Tám ! ", "
Hứa Lèo "... Nhưng sau 1975 thì các từ nầy biệt dạng luôn ! Cũng như
sau 1975 Miền Bắc đã cho du nhập vào Miền Nam các từ : " Lính Thủy đánh
bộ ", " Trung Tâm Nghe Nhìn ", " Máy bay lên thẳng "... như bài viết đã
đề cập, nhưng bây giờ khi nhắc đến quân đội MỸ, họ vẫn sử dụng từ " Thủy
Quân Lục Chiến, Trực Thăng Chiến Đấu ... như thường !
Vì thế mà ...
Ta thấy, Ngôn Ngữ tự nó có sức sống và giá trị riêng của nó, nên cũng
đừng quá lo lắng
ưu tư đối với các
từ như : " Bê-tông hóa ", " tin tặc ", " Lưu Ban ", " Kích Cầu ". ...
Nếu không đủ sức thuyết phục người nghe người nói thì tự nó sẽ bị đào
thải mà thôi !
Một điều đáng nói nữa là vì là lân ban tiếp xúc lâu ngày với ngôn ngữ Trung Quốc, nên bị ảnh hưởng bởi một số từ của Tiếng Hán Hiện Đại, như :
Sự Cố 事故 : là Nguyên nhân xảy ra một sự việc nào đó, hàm Ý chỉ : Có sự
việc rắc rối xảy ra. Còn Cố Sự 故事: là Chuyện Đời Xưa hoặc là Một câu
chuyện nào đó .
Kiêu
Ngạo
驕傲: Ngoài nghĩa Kiêu Căng Ngang Ngược, Kiêu Ngạo còn có nghĩa là Làm
Phách. Vì không hiểu nghĩa nầy trong Tiếng Hán Hiện Đại, nên người viết
bài nầy mới không giải thích được câu hỏi của người bạn. Có
người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A
hay kiêu ngạo với người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ
câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay
là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích
đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có
cách nào giải thích câu nói cho đúng được. Kiêu Ngạo là Làm Phách. Nên ”Thằng A hay kiêu ngạo với người khác.” là " Thằng A hay làm phách với người khác " Thế thôi !
Tham
Quan 參觀 : Tham là Tham gia, Quan là xem xét, nhìn ngắm. Đi THAM QUAN là
đi tham gia để xem xét và ngắm nhìn cái gì đó, nơi nào đó,chớ không
phải như người viết đã mỉa mai. THAM
QUAN. 參觀 : Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là
tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
ĐĂNG
KÝ 登記 : là Ghi chép, là Viết lại cái gì đó. Vì không hiểu nghĩa nầy,
nên người viết bài đã lên tiếng mỉa mai một cách rất buồn cười như sau
: Đăng
ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày nay, người ta
nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại
rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải
nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
Người viết còn không phân biệt được Tiếng Hán Cổ và Tiếng Hán Hiện Đại, nên đã viết...
Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ
Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ
của
mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ
không phải là
tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát
âm cũng như về ý nghĩa.
Sự
thật thì Tiếng Tàu Xưa và Tiếng Tàu Nay cũng Y chang như nhau, dĩ nhiên
là có sự biến đổi theo thời gian như tất cả các ngôn ngữ khác trên thế
giới. Có điều là người Hoa họ NÓI và VIẾT khác nhau, văn nói là văn BẠCH
THOẠI 白話文, văn viết là văn VĂN NGÔN 文言文. Văn nói BẠCH THOẠI thì thông
thoáng trơn tru bình dân dễ hiểu, còn văn viết VĂN NGÔN thì cầu kỳ
hàm xúc sâu xa bác học khó hiểu hơn. Xưa
nay vẫn
thế , Văn Ngôn và Bạch Thoại luôn luôn phát triển song song với nhau.
Nhưng sau Cách Mạng Tân Hợi ( 1911 ), thì theo trào lưu phát triển thế
giới ngày càng phải nhanh gọn dễ hiểu nên chỉ chú trọng vào Bạch Thoại,
còn Văn Ngôn thì cho lui vào làm CỔ VĂN. Nói thế, chớ các văn bản ngoại
giao, công hàm... muốn cho lịch sự và trịnh trọng, người ta vẫn phải
chen một số Văn Ngôn vào. Người Việt học tiếng Hán, tiếng Hoa, muốn cho
dễ phân biệt nên chia làm 2 phần là : Tiếng Hán CỔ và Tiếng Hán HIỆN ĐẠI
để phân biệt Văn Ngôn và Bạch Thoại. Thế thôi !. Nên...
Không phải Tiếng Hán Đời Đường khác Tiếng Hán bây giờ như người viết đã nói đâu.
Theo
tôi nghĩ, người viết bài nầy luôn miệng chê trách người khác không chịu
học tiếng Hán Việt, nhưng bản thân người chê cũng không thực sự giỏi
Hán Việt hơn ai ! Xin dẫn chứng...
Trích...
TẶC.
Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên
như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng
như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn
thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép.
Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊 có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa
là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác.
* Góp ý :
Giải nghĩa đen theo Từ
Điển như thế thì ai lại chả giải nghĩa được ! Nhưng, nghĩa thông dụng thì phải linh động hơn...
TẶC hay ĐẠO gì đều có nghĩa là TRỘM CƯỚP cả ! Ta có từ kép là ĐẠO TẶC để chỉ TRỘM CƯỚP mà !
TẶC 賊 : Ngoài nghĩa Trộm hoặc Cướp, còn có nghĩa là GIẶC, để mắng mấy
đứa nhỏ rắn mắt hay phá khuấy, người lớn hay nói : " Đồ TIỂU TẶC ! " Có
nghĩa là " Thằng Giặc con ! ". Khi rời Linh Xà Đảo trên con thuyền trước
sóng to gió lớn sắp chìm, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đã mắng trời bằng câu
: " Lão TẶC Thiên ! " ( Cái Lão GIẶC Trời ! ). Trong Tiếng Hán Hiện Đại
TIỂU TẶC 小賊 hay TIỂU THÂU 小偷 đều có nghĩa là : Những tên TRỘM VẶC.
Còn...
ĐẠO 盜 là Lấy ngang lấy ngược
của người khác, nên ngoài nghĩa TRỘM, ĐẠO còn có nghĩa là CƯỚP như :
CƯỜNG ĐẠO chẳng hạn. Đồ Cường Đạo là Quân Ăn Cướp ! Còn ĐẠO VĂN là Lấy
ngang văn của người khác làm văn của mình, thì là ĂN CƯỚP VĂN của người
ta chứ Trộm Văn gì ?!!!
Không giỏi từ Hán Việt mà đi chê trách người khác không chịu học từ Hán Việt. Rõ buồn cười ! Cứ luôn miệng bảo : một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép.
Hãy xem các ví dụ sau đây :
Từ Thuần Việt là QUÊ, từ Hán Việt là HƯƠNG, ta có từ Kép : QUÊ HƯƠNG.
Từ Hán Việt là SINH, từ Thuần Việt là SỐNG, ta có từ kép : SINH SỐNG.
Từ Thuần Việt là CỬA, từ Hán Việt là TỬ, ta có từ kép : CỬA TỬ.
Từ Hán Việt là ĐẠO, từ thuần Việt là CHÍCH, ta có từ kép : ĐẠO CHÍCH.
.V.V....V.V....
Những từ trên là những từ rất thông dụng trong cuộc sống, sao lại bảo : một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. ?!
Còn về các từ của Khoa Học Kỉ Thuật hiện nay như :
Computer, Internet, Web.... thì theo tôi nghĩ...
Từ
nào đã được dịch rồi thì thôi, cứ dùng theo những gì đã được dịch cho
khỏi lộn xộn ! Như từ Computer là Máy VI TÍNH, thì cứ gọi là VI TÍNH đi.
Chứ người Hoa họ gọi là ĐIỆN NÃO 電腦, nếu bây giờ đổi cách gọi, bất cứ
gọi bằng gì đi nữa , thì lại càng lộn xộn thêm thôi ! Còn như các từ...
Internet thì cứ gọi là " Nét " như hiện nay, Ví dụ : " Bửa nay bạn có lên NÉT để xem tin tức không ? ". Còn...
Web thì
là " Quép
", là "
Mạng ". Như : Đây là trang Quép của tôi... Nghĩa là....
Trong thời buổi TOÀN CẦU HÓA nầy, thì từ của nước nào cứ đọc thẳng bằng
âm của nước đó, dịch tới dịch lui làm gì cho nó phiền, rồi lại sợ dịch
không chính xác nữa !
Người Việt ta nói : Thùng rổng thì kêu to ! Còn người Hoa thì
gọi những người Trí
Thức Nửa Mùa bằng từ " Bàn-tong-shui 半桶水 Bán dũng
thủy ", có nghĩa là " Nửa Thùng Nước ", nên óc ách ọc ạch dữ lắm !
Không biết là người viết bài nầy thuộc dạng nào, chớ tôi thì tôi thuộc
loại NỬA THÙNG NƯỚC đó, cho nên đọc bài nầy tôi thấy tôi " Óc Ách " dữ
lắm, nhất là đọc những câu mát mẻ, mạt sát, mỉa mai người khác của người
viết. Chịu không nổi, nên mới " Ọc " ra bài viết nầy !
Kính mong các đọc gỉa đọc và lượng thứ cho ! Chân thành cám ơn tất cả !
Đỗ Chiêu Đức.