Những năm đầu, rừng rất hào phóng. Lúa, đậu dư dả vì đất mới đãi người nhưng dần dần đất cạn kiệt, không có phân bón. Phá rừng, năm đầu trồng lúa, năm sau trồng đậu, năm tới nữa trồng mì và tiếp nữa… bỏ hoang. Đất không còn màu mở, không còn gì mọc nổi ngoài cỏ dại. Chúng tôi phải bỏ đất đó và đi xa hơn để phá rừng tiếp. Mình nghĩ đến câu người xưa – Nhất phá sơn lâm- Nhì đâm hà bá. Tự nhủ không biết ý thế nào ! Nhưng mình thấy thì là nhất khổ. Lúc đầu đi xa, về trong ngày nhưng dần dần đi cả buổi sáng mới đến nơi. Mệt nhoài, còn lại buổi chiều không làm được bao nhiêu phải lo trở về. Trời sụp tối rất nhanh, về không kịp thì có khi lại lạc trong rừng. Nhiều người phải ở lại cả tuần mới về, dựng chòi mà ngủ và khi lúa cao đến thu hoạch cũng phải ngủ lại thường để canh heo rừng. Có lúc mình ngủ lại cùng với hai cô Thịnh, Vượng lấy nắp nồi đập ỏm tỏi. Một đêm phải đập mấy lần để đuổi heo rừng. Ba cô gái ngủ trong rừng, giữa đồng không mông quạnh, xa nhà hơn chục cây số - thấy sợ mà cũng vui. Đốt lửa để đuổi thú, sợ thì hét vang trời đất. Từ những kỷ niệm đó, tôi và hai cô đã khắn khít biết bao – giữ mãi tình bạn cho đến bây giờ.
Cho đến một lúc, không thể đi xa nổi – gia đình tôi chỉ chuyên chú làm đất quanh nhà. Thường buổi trưa, nghĩ xả hơi – tôi đi lùng mấy bụi tre gai sát suối để chặt măng. Chặt măng cũng là nổi đam mê, mệt cở nào chứ thấy mụt măng nhú lên là phải chui vào chặt cho bằng được. Măng tre gai đắng phải luộc sơ rồi mới nấu ăn. Măng kho, măng xào… ăn không hết bào mỏng ngâm nước cơm hai ngày, vắt lại nấu canh chua. Dư nữa đem phơi khô để dành. Đi chặt măng thường bị vắt đeo, lúc bị đeo không hay biết đến chiều tắm mới thấy quấn dưới chân.Lần đầu nhìn thấy thật khủng khiếp, như con quái vật bé xíu ngo ngoe trơn tuồn tuột mà dai khiếp- giựt không ra. Lấy hết can đãm , bứt ra được thì máu tuôn theo đỏ thắm. Ngoại nói nó chui vào lổ tai thì hết cứu, tôi sợ quá cứ bị ám ảnh, lúc tắm phải nhìn tới nhìn lui xem có con nào đeo không. Tắm suối cũng có khi bị đĩa, đĩa nơi đây còn kinh khủng hơn. Có lúc dưới suối leo lên nhìn thấy cái gì như rắn con quấn quanh chân, nghe thót tim nhưng cũng lấy hết sức bình sinh quấn nó thành mấy vòng quanh ngón tay mới giựt ra được. Máu phun ra thấm đầy áo.
Ở rừng, tôi sợ nhất là vắt, đĩa.
Những năm sau là đói kém, mỗi sáng tôi dạo vườn lang với giỏ càn xé to, cắt tất cả những lá già để nấu ăn thay cơm. Mỗi buổi ăn là mấy chén lá lang và một chén cơm, hôm thì củ mì, hôm thì khoai lang. Khoai mì, khoai lang, măng là món ăn độn – chỉ có lá lang nấu với mắm ruốc là trường kỳ kháng chiến. Đến lúc, rau lang, măng rừng… cũng cạn kiệt . Em dâu tôi đi theo mọi người vào rừng đào củ nần. Củ nần rừng to nằm dưới lòng đất, đào trúng phải mấy gánh mới hết. Củ nần rất độc- ăn liền thì chết ngay nhưng đào về ngâm và thay nước ba ngày đêm thì độn vào cơm ăn cũng được.
Mỗi tháng vú lại về thành phố mua khô, mắm ruốc và chút thịt về ướp muối ăn dần. Nước mắm không có, chúng tôi ép trái điều nấu với muối đường để làm nước mắm. Ăn uống cực khổ nhưng lại thấy ngon vô cùng. Có khi tôi nhẩm đếm xem mình ăn mấy chén vẫn không nhớ nỗi. Ba chén lá lang, xong đến mấy chén cơm độn không nhớ được chỉ biết phải hơn bảy chén. Cây rừng còn cho món ăn ngon là nấm mối, nấm trứng ngỗng…Xác cây đậu phọng ủ lại cũng cho nấm rất ngon.
Nhưng nấm cũng là độc dược…
Một hôm tôi đang dạy bỗng nghe la vang trời, thấy mọi người chạy ào ào. Nhìn lại vợ chồng chú Hai Hớn cạnh nhà người đầy máu, máu từ miệng phun ra cùng với hai em bé con họ đang được khiêng ra lộ chờ đưa đi cấp cứu. Thì ra cả nhà bị ăn nhầm nấm độc. Hai vợ chồng cùng hai đứa con, riêng bé xíu nhất đang bú ở nhà được mọi người chăm sóc thì không sao. Trong lúc nguy cấp, không ai theo được, tôi bỏ lớp leo lên xe bò cùng người bị nạn đi đường tắt băng rừng qua Chơn Thành. Đường rừng gập ghềnh, xe bò cứ xốc lên – nhìn thấy máu từ miệng em bé, từ hai vợ chồng họ tim tôi cứ đập loạn lên. Tôi ôm em bé mà không dám nhìn. Đến nơi một bé tử vong. Tôi theo xe cứu thương về đến nhà thương Bình Dương. Tôi chỉ biết theo sát một bé để chăm sóc, còn hai vợ chồng thì phó mặc cho bệnh viện. Trong lúc thập tử nhất sanh, người vợ đưa cho tôi giữ chiếc nhẫn hột xoàn của chị và nhờ sau này đến đưa cho người thân ở thành phố.
Bệnh viện đầy những người đâu đâu đưa về, có em bé chết, có tiềng khóc than rền rĩ của cha mẹ, người thân. Vợ chồng chú Hai Hớn cũng mê man còn biết gì đến mấy đứa con. Nhìn một thảm cảnh gia đình, nhìn người chết, tiếng la khóc…. Đầu óc tôi hoang mang tột độ. Cái chết không phải chỉ đến lúc cuối đời, nó đến lúc người ta không ngờ. Nó không đến nhẹ nhàng, nó đến với bao đau đớn cho kẻ đi người ở. Tôi nhìn thấy cái tương lai của mình. Tự dưng nước mắt rơi, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Khóc cho con người, cho đứa bé mới mất mà cũng khóc cho mình. Tìm một góc mà cứ khóc.
Một dì sơ đến cạnh nhìn tôi . Được biết tôi và gia đình bị nạn không có bà con thân thích gì cả, sơ rất cảm động. Sơ nói sơ rất quí tôi vì thấy tôi chăm sóc họ như người thân. Nhờ đó sơ tìm giúp tôi mùng, kim chỉ để vá đở. Mùng nhiều lổ rách nhưng cũng quá tốt cho em bé và tôi. Hôm sau khi đã qua cơn nguy hiễm tôi gởi em bé để về thành phố tìm người thân của họ.
Sau này đã lâu, khi tôi sanh em bé ở thành phố, thím Hai Hớn cũng tìm đến gởi quà cám ơn. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh ngồi trên xe bò cùng bọn họ và em bé trên tay đầy máu. Lúc ấy tôi tự nhủ nếu phải sống ở đó, tôi sẽ không lập gia đình. Không có gì an toàn cả.
Nơi đây đốt rừng cũng là hiễm họa. Một hôm, đang giữa trưa nghe tiếng rào rào của lửa cháy trên trảng tranh. Phía sau nhà tôi còn nhiều khu đất tranh chưa làm đến, khi người ta đốt rừng, tàn lửa bay đến cháy là chuyện bình thường. Chúng tôi phải làm thật sạch vùng ven nhà để tránh cháy lan. Hôm ấy gió lớn, nghe tiếng cháy sau nhà , cả nhà vội chạy ra sau nhìn thấy đám tre đang bốc hỏa. Từ nhà chạy ra đám tre cũng khá xa. Mọi người hốt hoảng xách nước chạy ra để dập lửa tại bụi tre. Chạy dập lửa mệt bở hơi tai, xong xuôi đang quay về thì hởi ôi – căn nhà lá của gia đình đang chìm trong biển lửa. Cháy mịt mù, tiếng cột kèo răng rắc, lửa khói bốc cao. Tôi đứng như chôn chân tại chổ nhìn biển lửa, không còn cứu được gì nữa. Lửa thiêu rụi mọi thứ nhanh như chớp, nhà lá đã cháy rồi thì không gì còn lại, có chăng mấy gốc cột. Tàn lửa từ xa bay đáp lên mái nhà bốc cháy, cả nhà chạy ra chửa bụi tre - chỉ còn em dâu tôi- mẹ bé Đạt đang đưa con ngủ. Lửa bốc lên, cô ấy chỉ kịp ôm con vừa khóc vừa chạy khỏi nhà. Cũng may là không ai bị sao hết. Thêm một lần nữa tôi thấy cái bất an của cuộc đời.
*Căm Xe là tên chiếc cầu. Nơi em ở là chân cầu Căm Xe thuộc xã Long Hòa, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét