16 thg 3, 2025

CHỦ NGHĨA LÀNG VĂN kỳ 15/3/2025 - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 Chữ nghĩa làng văn

 ***

 Một số sai lầm khi dùng từ Hán-Việt

 

Sai lầm vì dùng từ Hán và Nôm trùng hợp

Không nói “sông Hồng hà” nên nói “sông Hồng” hoặc “Hồng hà”.

 

(Lưu Khôn)

Một số từ hay bị dùng sai trong tiếng Việt

 

Goá phụ: Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết.

 

Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) mới đúng.

 

(khuyết danh)

Chuyện chính tả

 Hễ có băn khoăn gì về chính tả, thì lấy từ điển ra xem, nhưng từ điển không phải giải quyết được tất cả vì vẫn có một số ít từ không thống nhất. Lê Văn Đức viết lai căn, trong khi Hoàng Phê viết lai căng. Đó là do quan điểm chính tả của các tác giả có khác nhau: Lê Văn Đức chịu ảnh hưởng của Lê Ngọc Trụ chủ trương theo từ nguyên, giải thích căn ở đây là tiếng Hán Việt, nghĩa là “gốc, rễ”, nên viết không có –g, còn Hoàng Phê cho rằng cần phải theo cách phát âm thực tế: ở những phương ngữ có phân biệt âm cuối -n/-ng, như Hà Nội, (lai) căng bao giờ cũng phát âm với -ng.

 (Hoàng Dũng)

 Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca

- Đàn bà vú lép, to hông
Đít teo bụng ỏng, cho không chẳng cầu

Một số từ hay bị dùng sai trong tiếng Việt

 

Tặc : Từ Hán Việt nầy đang được dùng như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm.

Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc nghĩa là ăn cướp, đạo  mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác.

 

(khuyết danh)


Nhất Linh và Văn Hóa Ngày Nay 

 Ở thời điểm đó, sau cuộc chia đôi đất nước mới chỉ vài ba năm nên có thể coi như một vết chém chia lìa dân tộc chưa ngưng rỉ máu. Cuộc di cư khổng lồ với cả triệu con người từ Bắc vô Nam tất gây xáo trộn trong cả nước và như thế  thì hẳn đời sống có rất nhiều vấn đề thời sự nóng hổi bầy ra trước mắt. Vậy thì việc từ bỏ ý thức của nhất thời để chỉ đi tìm những đề tài vĩnh cửu sẽ có khiến cho người sáng tác quay lưng lại với thực tế hay không ?

Nói thế không phải tôi phủ nhận quan điểm làm báo của VHNN. Thế giới chữ nghĩa là cả một rừng hoa với nhiều mầu sắc. Văn Hóa Ngày Nay đương nhiên là một tạp chí tô điểm thêm cho sinh hoạt báo chí thời đó vốn đã vô cùng sôi nổi với nhiều tờ báo danh tiếng khác như Đời Mới, Vấn Đề, Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Hóa Á Châu, Quê Hương..v..v.. 

 

Tuy nhiên, sau vài số đã phát hành, có vẻ như Văn Hóa Ngày Nay đã hiện diện như một bông hoa tuy nhiều hương sắc nhưng lại có vẻ như lạc lõng giữa dòng đời đang trôi đi hối hả. Đọc những trang chính Nhất Linh trả lời thư độc giả ở những số đầu, ta thấy hầu như ông chưa nhận ra được sự lạc lõng này. Ông vẫn bộc lộ sự chủ quan qua những lời lẽ như nhận mình là con voi nằm thù lù trong sở thú, hay trách độc giả sao bắt ông làm việc quá nhiều trong khi ông cũng chỉ có 24 giờ như mọi người...

 

Mặt khác, Nhất Linh lại là một nhân vật nổi tiếng với nhiều thành tích văn học. Phải chăng chính sự nổi tiếng này đã trở thành một yếu tố bất lợi cho chính ông bởi vì các độc giả đã kỳ vọng ở nơi ông quá nhiều. Cứ nhìn số báo ra mắt Văn Hóa Ngày Nay được đón nhận thế nào thì đủ thấy. Theo học giả Đoàn Thêm trong cuốn “Hai Mươi Năm Qua, việc từng ngày”, thì VHNN số đầu tiên đã bán hết tới 10 ngàn số, và Thế Uyên, người cháu gọi Nhất Linh bằng bác còn tiết lộ trong cuốn “Chân Dung Nhất Linh” do tạp chí Văn ấn hành, rằng :

“Trước khi phát hành Văn Hoá Ngày Nay số 1, Nhất Linh dự đoán sẽ bán được năm ngàn số. Duy Lam lạc quan hơn, đưa con số tám ngàn. Tất cả đều đoán sai. Tám ngàn là con số bán hết trong mấy ngày đầu, sau đó phải in đi in lại nhiều lần.”

 

Nếu đúng như thế thì đây là một kỷ lục mà sau đó chưa có một tạp chí văn nghệ nào theo được bén gót. Nó cũng nói lên rằng độc giả đã quý trọng và đón chờ công trình văn hóa mới của Nhất Linh như thế nào sau biết bao nhiêu biến cố lớn lao của đời sống, cả chính trị lẫn văn học.

(Nhật Tiến)

Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca


- Những người ti hí mắt lươn

Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người

Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 Cuốn sách được đặt tiêu đề: Từ điển chính tả tiếng Việt (GS.TS Nguyễn Văn Khang -hoàn toàn không “xử lí chính tả” theo tài liệu, mà “xử lí” theo cảm tính chủ quan, hoặc căn cứ theo một nguồn tài liệu nào đó, dẫn đến rất nhiều sai sót. 

trứng: trứng quốc, trứng sáo”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết “trứng cuốc” mới đúng Chỉ có một dạng chính tả duy nhất: “trứng cuốc” (chuối trứng cuốc – chuối tiêu mùa đông khi chín vỏ chuyển sang màu vàng sẫm và lốm đốm như trứng chim cuốc; Cây trứng cuốc - loại cây có quả hình thù và màu sắc lốm đốm như trứng chim cuốc; hoặc tổ hợp “trứng cuốc” (trứng chim cuốc); “tổ cuốc” (tổ chim cuốc). Sở dĩ phải viết “cuốc” là để phân biệt với “quốc” 國 - yếu tố gốc Hán - nghĩa là “nước”, trong các cấu tạo từ: tổ quốc 祖國, quốc gia 國家, quốc kì 國旗…

 (Hòang Tuấn Công)

 Gặp gỡ nhà văn miền Bắc

 Ngày hôm trước đứng dưới gốc bàng nơi ngã tư Quán Thánh - Hàng Bún tôi sực nhớ tới một người. Dưới mái nhà kia người đó đã từng san sẻ nhiều kỷ niệm với bố tôi, là người mà có thể tôi đã gặp trong toà nhà đó năm mươi sáu năm trước mà vì còn quá nhỏ tôi không nhớ, là người duy nhất đang ở thành phố này có thể giúp tôi làm cây cầu nối liền quãng thời gian gần bẩy mươi năm, khoảng cách giữa hai lần bố con tôi cùng nhìn về cây bàng này.

Trở về khách sạn tôi quay điện thoại xin gặp nhà thơ Huy Cận. 

 Sau khi tự giới thiệu là con của nhà văn Nhất Linh từ nước ngoài về muốn đến thăm ông, ở đầu dây có tiếng thốt lên mừng rỡ bằng một giọng rất nặng Huế nói với tôi là đúng hai giờ trưa mai.

Đó là một toà nhà quét vôi vàng nhạt với kiến trúc cổ, trước nhà một cánh cổng sắt sơn màu xanh lá cây. Đúng hai giờ một ông già dáng đi nặng nề từ trong nhà bước ra tay cầm chùm chìa khóa tra vào ổ cánh cửa sắt. Cửa mở. Trước mặt tôi là Huy Cận.

(…)

Huy Cận hướng dẫn tôi vào nhà qua một lối đi lát gạch có đặt nhiều chậu cây kiểng. Trong phòng khách ông tiếp tôi có treo trên tường bức tranh vẽ chân dung nhà thơ Xuân Diệu. Ngồi xuống ghế, tôi nói ngay với ông cái mục đích rất giản dị của tôi là xin được gặp ông để nghe ông nói về những kỷ niệm ông đã có với bố tôi. Tôi xin ông không nói chuyện chính trị bởi vì giữa ông và bố tôi đã đi trên hai con đường khác nhau mà cả hai bên tôi nghĩ đều rất hãnh diện về sự lựa chọn của mình. Xem ra ông cũng đồng ý với tôi trên căn bản đó. 

 Tuổi già không làm khuôn mặt ông hom hem như nhiều khuôn mặt những người tuổi ông tôi đã thấy ở Hà Nội. Mặt ông vẫn giữ được vẻ đầy đặn có thể gọi là tròn trịa. Với cặp mắt húp húp Huy Cận nhìn tôi và bắt đầu câu chuyện bằng một câu hỏi: "Cháu Thiết năm nay được bao nhiêu tuổi?". Sau khi tôi nói tuổi của tôi, trầm ngâm hồi lâu rồi ông giọng ngậm ngùi: "Cháu có biết không? Thế là cháu đã già hơn bố cháu bốn tuổi khi bố cháu mất đấy!".

Bố tôi đối xử với bạn bè và những người cộng tác với ông hết sức chân tình. Huy Cận ghi nhận. Ông kể với tôi là ông không bao giờ quên được một đêm đông ông đến thăm bố tôi, thấy ông trên người chỉ có cái áo phong phanh, bố tôi đã cởi ngay chiếc áo lạnh pa-đờ-suy mà bố tôi đang mặc khoác lên người ông và tặng luôn ông chiếc áo lạnh đó. 

(Cây bàng lá đỏ - Nguyễn Tường Thiết)

Tự điển chính tả sai lỗi…chính tả

 trừutrừu mến. → không viết: trìu”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết “trìu” mới đúng. Vì “trìu” biến âm của “tríu” nghĩa là thương mến, không muốn rời ra. Biểu lộ tình yêu thương tha thiết. Vuốt ve trìu mến. ánh mắt trìu mến. Giọng trìu mến”.

 (Hòang Tuấn Công)

 Tchya Đái Đức Tuấn

Nét vẽ, câu thơ, ánh đèn, khói thuốc, bầu không khí thân mật cười đùa này chẳng mấy lâu sau mắc cho anh món nợ phù dung. Nợ càng sâu dậm hơn khi nàng tiên xuất hiện trong thân hình Bích Ngọc, một ngôi sao trên sông hồ của Hà thành hoa lệ, có nét kiều diễm theo tiêu chuẩn Tây phương, được đám phong lưu dị chủng đặt cho cái tên ôn-nhu là Angèle. Nhưng giai nhân lúc ấy đang kẻ đưa người đón dập dìu, đâu có chú ý đến một anh chàng thi sĩ ngây thơ? Nên chàng than vãn:

Hững hờ là thói thuyền quyên

Si tình thay lũ thiếu niên giang hồ!

 Mãi về sau, trong một đêm đông mưa gió, sau bữa tiệc vui đông đảo, Angèle ngồi lại bên đèn, trước lò sưởi:

Ngọn lửa cành non kêu lách tách

Như đùa với lạnh. Mặt em tươi

Hơi ấm, tình nồng, hai má đỏ

Nhìn em, em chúm chím môi cười...

 Thế là tiếng sét nổ trong lòng Tuấn, nảy ra cái bút hiệu TCHYA mà anh giải thích là "Tôi Chẳng Yêu Ai", trong khi thâm tâm tự nhủ: "Tuấn Chỉ Yêu Angèle!"

Nhưng Angèle không chỉ yêu Tuấn. Nên Tuấn than:

Tao phùng một chuyến rồi ly biệt

Hoa lại bay theo ngọn gió ngàn!

 Không đỉnh chung với thế nhàn, anh cũng quyết không đỉnh chung nữa với phù dung. Năm 1938, một hôm anh bảo người chuẩn bị xôi gà đèn nhang, đến đêm anh trịnh trọng đem bộ khay đèn đặt trước lễ vật, lâm râm khấn vái rồi bê cả xe tẩu móc tiêm cùng khay ném choang xuống sân gạch, ly dị với tiên nâu từ đây. Nhưng lại sa vào men rượu mà anh uống như trà.

(Lãng Nhân Phùng Tất Đắc - Nhớ nơi kỳ ngộ)

 Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 xẩm: xẩm hát dong”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết đúng là “hát rong”, vì “rong” mới có nghĩa là: “Đi đây đó hết chỗ này đến chỗ khác, không dừng lại lâu ở đâu cả. Suốt ngày chỉ rong chơi. Đi rong phố. Bán hàng rong. Gánh hát rong.” 

 Gặp gỡ nhà văn miền Nam – 1

 Trần Nhuệ Tâm: Ông gặp những thi sĩ, văn sĩ Việt kiều lần đầu ở: phi trường quán…? Trước đó ông biết họ qua tác phẩm nào? Điều gì từ tác phẩm đó đã gây ấn tượng cho ông?

Nguyễn Trọng Tạo *: Hồi đầu những năm 90 thế kỷ trước tôi sống ở Huế và đã gặp ở đó khá nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại về thăm đất nước. Hầu hết những người tôi được gặp thì trước đó tôi đã được đọc được biết tên họ trên sách báo hải ngoại hoặc trong nước. Có người tôi đã được đọc họ từ trước 1975. Những người tôi gặp thường là những tên tuổi quen thuộc. Đỗ Khiêm cùng ông đến tư gia thăm tôi. Thuỵ Khuê cùng chồng con xuống ga tàu hoả Huế được tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường đón về Khách sạn và đưa đi thăm di tích danh thắng và gặp nhiều văn nghệ sĩ Huế.

 

Tôi và HPNT cũng đã đón Khánh Trường từ sân bay Phú Bài. Du Tử Lê sau ba lần về Huế mới quyết định đến gõ cửa nhà tôi và HPNT rồi hơn 10 năm sau lại gặp nhau ở Hà Nội. Trần Vũ tìm tôi ở Huế không gặp chục năm sau tôi lại tìm được Vũ tại Pais và đến nhà chơi. Nhiều lần hẹn nhau với anh Đặng Tiến mới găp được nhau tại nhà anh Dương Tường.

Những người ấy đều ghi dấu ấn sâu đậm trong tôi bằng tác phẩm và những hoạt động văn học của họ. Đấy là những người Việt muốn với những người cùng nòi giống tôn vinh văn chương tiếng Việt dù phong cách và quan niệm khác nhau.

 (30 năm: khỏang cách dấu hỏi - Nguyễn Trọng Tạo)

 


* Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25-8-1947 trong một gia đình nho học ở làng Trường Khê (nay là Diễn Hoa), huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1969 tham gia quân đội, rồi làm trưởng đoàn văn công xung kích Sư đoàn 341B. Năm 1976 ông được điều về Hà Nội tham gia Trại viết văn quân đội rồi vào học Trường viết văn Nguyễn Du khóa I. Ông đã có ý định tự tử bằng hai khẩu súng ngắn bắn vào đầu mình vào ngày 11 tháng 11 năm 1981.

Ông là tác giả của những tập thơ: Đồng dao cho người lớn, Nương Thân, Thế giới không còn trăng

 Chân dung Văn học Nghệ thuật & Văn hóa

 Tuyển tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa của nhà văn Ngô Thế Vinh không phải là một cuốn sách Who’s Who về các nhà làm văn nghệ, văn hóa Việt Nam. Nó không có tham vọng vẽ lại toàn cảnh hay nghiên cứu chuyên sâu một tác giả nào. Nó mang tính cách tâm tình nhiều hơn. Nó cũng không tán rộng các điểm phụ bên ngoài đời sống văn học nghệ thuật. Đọc xong cuốn sách, chúng ta không rõ trong hoàn cảnh nào nhà văn Nhật Tiến viết cuốn Thềm Hoang, hoặc nhân vật nữ trong tiểu thuyết Một Chủ Nhật Khác của Thanh Tâm Tuyền là ai ngoài đời, v.v.

Những điều đó hình như không quan hệ lắm đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam. Nhưng nhà văn Ngô Thế Vinh đã cho chúng ta cái nhìn bao quát đa chiều kích về một thời kì văn học – theo lời nhà văn Võ Phiến – kém may mắn (vì thiếu phê bình) và bất hạnh (vì bị hủy diệt). Cuốn sách còn là một kho tư liệu rất quý, vô cùng hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu sâu thêm. Đối với bằng hữu văn nghệ, đối với những nhân vật nhà văn Ngô Thế Vinh hằng ngưỡng mộ và kính trọng, đối với người đọc chúng ta, ông quả đã làm tròn điều ông muốn làm, đó là, “Của tin gọi một chút này làm ghi.”

 (Trịnh Y Thư) *

 Gặp gỡ người làm văn học miền Nam - 2

Miền Nam đây là VNCH và nền văn học của những năm 1954-1975. Văn hóa và nền văn học miền Nam sau những cuộc thanh lọc, bắt bớ và cấm đoán, vẫn tiếp tục bị những bất thường và quái gở của một thế giới văn hoá, biên tập cố tình làm cho sai lạc. Ai cũng biết sau ngày cưỡng chiếm miền Nam 30-4-1975, văn học và văn hóa VNCH đã bị cấm đoán, phủ nhận như thế nào qua nhiều đợt tấn công, dàn cảnh. Nay, đã 35 năm sau, chiến thuật đó vẫn còn ở một nước VN hô hào cái gọi là ‘cởi mở’.

 Mới đây, chúng tôi được đọc bộ Văn học Việt Nam nơi miền đất mới trên 4 ngàn trang gồm 4 tập của soạn giả Nguyễn Q. Thắng (*) (NXB Văn Học, Hà Nội). Miền Đất Mới ở đây được soạn giả bao gồm miền Nam Lục tỉnh và miền Nam VNCH; và trong các tập 3 và 4 chủ yếu vẫn là những cây viết của đảng cộng sản Việt Nam gồm nằm vùng, ly khai, tập kết, gởi vô Nam hoặc những cây viết từng có mặt thời VNCH nhưng sau này sinh hoạt với các hội và báo chí của cộng sản Việt Nam. Đặc biệt Nguyễn Q. Thắng đã xen vào đó những nhà văn của miền Nam 1954-1975, nhưng vì ông có thể nói hãy còn tuân theo một “chính sách” hay “chỉ thị” nào đó, do đó chưa thể là một bộ văn học sử đúng nghĩa – nghĩa là ghi nhận, tổng kết và phê phán các tác giả và tác phẩm như đã xuất hiện và sinh hoạt một thời.

 (Văn học miền Nam qua “Văn học sử” – Nguyễn Vy Khanh **)

 (*) Nguyễn Q.Thắng (sinh 1940), tại Trường Xuân, tỉnh Quảng Nam. Ông tên thật là Nguyễn Quyết Thắng; là nhà biên khảo văn học và sử họcViệt Nam.

Thuở nhỏ, ông trải qua một thời gian giữ trâu, làm ruộng ở nhà quê. Lớn lên, ông đã học xong các chương trình tú tàicử nhâncao học và tiến sĩ (sau năm 1975)  Ông đã từng dạy ở các trường: Đại học Văn Khoa, Sư phạm Cần ThơĐại học Vạn HạnhĐại học Sư phạm Sài Gòn.

 (**) Nguyễn Vy Khanh sinh năm 1951 tại Quảng Bình. Vào Nam năm 1954. Tốt nghiệp cử nhân giáo khoa Triết Tây tại đại học Sài Gòn (1973), Cao học Triết Tây (1975), Thủ khoa Sư phạm Việt Hán (1974). Sau khi tị nạn chính trị tại Canada, tốt nghiệp Cao học Quản trị Thư viện tại đại học Montréal năm 1978.  Hiện sống và làm việc ở Montréal và Quebec City (Canada).

Tác phẩm: Văn học Việt Nam thế kỷ 20 (biên khảo, 2004) - Văn học và thời gian (biên khảo, 200)

 Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc

 Trong những năm gần đây, chúng tôi cố gắng đưa vấn đề Văn học miền Nam trở lại văn đàn, bởi có một nhu cầu đến từ những người thực sự yêu văn chương ở trong nước muốn tìm hiểu về những tác giả và tác phẩm đã bị chính thức loại trừ sau 30/4/1975.

Trong chiều hướng đó, hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị, tiếng nói của nhà phê bình và nghiên cứu Vương Trí Nhàn, một trong những nhà văn miền Bắc đã không ngừng tiếp cận với văn học miền Nam từ thời kỳ phân chia Nam Bắc đến ngày nay.

Qua những nhận định và phân tích của Vương Trí Nhàn, chúng ta sẽ thấy sự tiếp cận văn học giữa hai miền chưa bao giờ thực sự gián đoạn, và riêng ông, ông mong được đóng góp tích cực vào việc mở rộng con đường hợp nhất hai nền văn học Nam Bắc để có thể vẽ nên toàn diện bộ mặt văn học Việt Nam trong thế kỷ XX.

 (Thụy Khuê)

 ***

Thụy Khuê: Thưa anh Vương Trí Nhàn, xin cảm ơn anh lại một lần nữa vui lòng đóng góp tiếng nói trên đài RFI. Trước hết xin hỏi anh là hiện nay có dấu hiệu nào cho chúng ta thấy là văn học miền Nam đã bắt đầu hiện diện lại trên địa bàn văn học ở trong nước hay chưa?

Vương Trí Nhàn: Lâu nay, Văn học miền Nam như cứ tồn tại một cách lấp lửng ở Hà Nội, đôi lúc nổi lên, gây ồn ào, rồi lại thôi, để ít lâu sau lại xuất hiện dù không thành vấn đề lớn, song vẫn là vấn đề liên tục. Năm ngoái, vì có chuyện một số sách của Dương Nghiễm Mậu được in lại, sau đó lại bị phê phán, thành ra có người nghĩ rằng thế là thôi, từ nay nó bị đẩy lùi hẳn.

 Tôi thấy không phải, mà thực chất ngay từ mùa thu năm ngoái, năm 2007, báo Văn Nghệ đã mở ra mục giới thiệu một số tác phẩm của văn học miền Nam trước 75 và đã in một số truyện ngắn. Và đúng kỳ 30 tháng tư năm 2008, báo Văn Nghệ có ra số đặc biệt, lần đầu tiên đưa vào sưu tập mười truyện ngắn in ở Sàigòn, đấy là một điều đáng chú ý. Theo tôi, trong xã hội đang có nhu cầu muốn nhìn lại, tiếp cận lại bộ phận văn học này, tôi thấy đây là điều cần thiết và cũng muốn góp sức vào đó.

 (Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)

 Một phần tuổi thơ...

 

Qua mùa đá cá lia thia. Khi trời bắt đầu lất phất những giọt mưa đầu mùa. 


Trong cái nắng hầm hập vào hạ cây phượng già trong sân trường bắt đầu mọc lá non, hoa phượng trổ lác đác trên cành thì đám nhỏ bắt đầu chuyển sang chơi trò đá dế. Trước buổi học hay vào giờ tan học. Xen lẫn với những người bán quà vặt, cóc ổi, cà rem trước cổng trường là những người bán dế. Dế thường được phân ra thành hai loại dế lửa và dế than.

  

Dế được đựng trong một cái thùng gỗ nhẹ bằng cây thông làm khung và hai phía được bọc bằng loại lưới kẻm nhuyễn 1-2 ly mà dân Saigon gọi là mành mành. Người bán phân ra thành nhiều ngăn theo kiểu lớn nhỏ, lớn bán giá cao hơn nhỏ. Đám tụi tôi cứ chăm chú nhìn vào thùng, hể thích con nào thì chỉ cho họ bắt bỏ vào một hộc tròn bằng giấy tập cũ học trò, được vấn tròn bằng ngón tay cái xếp túm lại hai đầu. Chớ dế hay hoặc dở thì chỉ có trời biết.

Dế xịn nhất là những con dế to lớn, mà người bán đựng trong cái vỏ hộp quẹt diêm. Tụi tôi gọi là dế hộp quẹt, chỉ tụi con nhà giàu, khá giả mới có tiền mua chơi, trước cặp mắt thèm thuồng ngưỡng mộ của đám trò nghèo chớ không hề biết ganh ghét vì thân phận .

 (Trần Ngọc Hiếu)

Chữ nghĩa làng văn

 Lưu Trọng Lư - 1

 

Không phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến ba câu điệp Em không nghe: 
Em không nghe mùa thu 
Em không nghe rạo rực 
Em không nghe rừng thu...
 


Em không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà không nói ra được. Đây là cuộc đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng. Hoặc giả em cũng đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em. Đằng nào thì cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào xạc, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nôt.

Thực tế trong bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người bình luận còn viện cớ rằng: Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng. Đấy là rừng châu Âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm. Mùa thu Việt Nam như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: Rừng thu rừng biếc chen hồng? Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác?

 (Chân dung và đối thoại - Trần Đăng Khoa)

 

Gặp gỡ người viết trẻ “ngụ cư” ở hải ngọai

 

Khi tôi đọc lại người cũ, những gì đã viết và bây giờ được viết, tôi sung sướng ghi nhận cái riêng tư của mỗi người. Như Phan Lạc Phúc và Phan Lạc Tiếp. Họ là anh em lớn lên trong cùng một gia đình, cùng trong quân đội Cộng Hòa, cùng trong cuộc chiến, cùng phục vụ một chính thể, nhưng họ tiếp cận cùng một vấn đề theo tính cách riêng, theo suy nghĩ riêng của mỗi người. Phan Lạc Phúc thấy cái giải đất chữ S của Việt Nam giúp mình nhiều cơ hội tiếp cận nhiều nguồn văn hóa khác nhau, nhưng vì nhiều văn hóa quá nên thành bánh da lợn (Tuyển Tập Tạp Ghi).

Phan Lạc Tiếp thấy mảnh đất chữ S giáp biển giúp mình nhiều cơ hội học hỏi nhưng chiến tranh triền miên nên cái học không thấm sâu nên nhân tài cho đất nước còn thiếu. Nói chung không chỉ có anh em nhà họ Phan khác nhau, mà là cả thiên hạ miền Nam nói và nghĩ theo ý của riêng mình.

 

Nguyễn Văn Trung viết Ngôn Ngữ Và Thân Xác thì Võ Phiến cười cợt Chửi (Võ Phiến, Tùy Bút 1); người ta nói Nguyễn Đình Toàn Thanh Tâm Tuyền, Hùynh Phan Anh là hiện sinh thì Nguyễn Hiến Lê nói văn học miền Nam không có hiện sinh (Nguyễn Hiến Lê. Hồi Ký, tập II. Nhà xuất bản Văn Nghệ); người ta nói thuyết Việt Học gì đó thì có người hỏi khẽ đâu là bằng chứng.

Bây giờ trong và ngoài nước hình như đồng loạt mang tứ khoái vào văn chương, nói là hiện sinh thì đó là bước thụt lùi, nói là thực hóa thì cũng vẫn là lui lại. Bây giờ hình như chúng ta bình văn thơ bằng kiến thức hơn là bằng tâm hồn đồng cảm đồng điệu.

 

Tôi không thấy ai bình thơ như Bùi Giáng bình Tuệ Sỹ, Võ Phiến bình Tô Thùy Yên, Huỳnh Phan Anh viết về Áo Mơ Phai. Nói đề tài hay nói hình thức, tôi đều cho đó là sự giật lùi khi nghĩ đến điều Mai Thảo đã khêu gợi năm xưa: Chế lấy mây và gây lấy nắng, Chế lấy đừng vay mượn đất trời.

 

(Văn học miền Nam, điều sót lại – Lưu Na)

 Tình dục trong làng văn xóm chữ

 Lê Hoằng Mưu 

 


Lê Hoằng Mưu (1879-1941) có sách ghi là Lê Hoàng Mưu, bút hiệu Mộng Huê Lầu (đảo các mẫu tự họ tên) là nhà vănnhà báo trong những năm đầu của thế kỷ 20.

 

Ông sinh năm Kỷ Mão (1879) trong một gia đình làm nông khá giả tại làng Cái Cối, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Ban đầu, ông học ở Bến Tre, sau học ở Sài Gòn[3], rồi gia nhập làng văn, làng báo ở Sài Gòn cho đến cuối đời. Ông nổi tiếng trong làng báo Sài Gòn từ những năm 1910-1915, và là một trong số các cây bút tiểu thuyết thuộc giai đoạn phôi thai ở miền Nam. Năm 1921, khi tờ Nam Trung nhật báo sát nhập với tờ Lục tỉnh tân văn, ông được cử làm Chủ bút cho đến 1930. Ngoài ra, ông là trợ bút của các tờ Điện Tín, Thần chung, Đuốc nhà Nam...

Năm Tân Tỵ (1941), ông mất tại Sài Gòn, thọ 62 tuổi.

Các tác phẩm của Lê Hoằng Mưu dưới đây, phần lớn đều đã được đăng tải nhiều kỳ trên các báo, trước khi in thành sách.

- Hà Hương phong nguyệt (tiểu thuyết đầu tay, đăng trên báo Nông cổ mín đàm từ năm 1912 với nhan đề Truyện nàng Hà Hương, đến năm 1914 được nhà in Saigonnaise L. Royer xuất bản thành 6 quyển với tên là Hà Hương phong nguyệt).]

- Ba gái cầu chồng (đăng báo năm 1915)

- Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920)

- Oán hồng quần hay Phùng Kim Huê ngoại sử (6 quyển, nhà in L’ Union, 1920)

- Truyện người bán ngọc (4 quyển, nhà in Lưu Đức Phương, Sài Gòn, 1931)

 Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 xẻ: chia xẻ. → không viết: sẻ”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 “Chia xẻ” và “chia sẻ” là hai từ khác nhau. Bởi vậy, không có chuyện viết “chia xẻ” thay cho “chia sẻ”. Chỉ dẫn “chia xẻ” = “chia sẻ” là sai. “Xẻ” trong “chia xẻ” (chia, xẻ/cắt ra nhiều phần, khiến cho không còn nguyên vẹn như vốn có nữa), chính là “xẻ” trong  “chia năm xẻ bảy” (tình trạng bị phân tán, chia cắt, xé lẻ).

Còn “sẻ” trong “chia sẻ” (cùng hưởng, cùng chịu), lại là “sẻ” trong “chia ngọt sẻ bùi” (cùng chung hưởng với nhau, dù ít dù nhiều).

 

Như vậy, “chia xẻ” và “chia sẻ” không phải một từ với hai dạng chính tả, mà là hai từ khác nhau.

 (Hòang Tuấn Công)

 

Từ huyền sử đến sự thật

 Hơn 4000 năm, huyền sử lặng lẽ trôi đi dưới đôi bờ thời gian. Những nhân vật hết sức mờ ảo chỉ đến với nhân gian một lần, rồi biến mất tựa như Lưu Nguyễn quên trần hoàn.

 Huyền sử là gì?

Người Hy Lạp hãnh diện về Hélène thành Troie, thương cảm cho định mệnh của giai nhân. Thế giới ngưỡng mộ Cléopatre qua khuôn mặt diễm lệ của Liz Taylor, tin chắc rằng “nếu mũi nàng chỉ ngắn một chút xíu, cả thế giới đã thay đổi.” Huyền thoại trong Cựu Ước cho Moses rẽ biển Hồng Hải, cứu dân Do Thái thoát vòng nô lệ. Như C.S Lewis (1898-1963) nhận xét “Huyền thoại là một thể loại nghệ thuật rất khác với văn học”. Dù không hội được những điều kiên của sử học, huyền sử/huyền thoại/truyền thuyết vẫn có giá trị: ghi nhận và chuyên chở một phần sự thật của quá khứ, thổi vào quá khứ ấy một linh hồn riêng của mỗi tộc người.

 Ðằng khác, huyền sử luôn ở một đầu đối chọi với sử học.

Một đằng dựa vào cổ tích truyền miệng, văn hóa dân gian, không gian huyền ảo, siêu nhân vật thần thánh. Một đằng dựa vào những giá trị có thể kiểm chứng được: ở đâu/cái gì/tại sao/thế nào/bao giờ. Nhưng cũng theo phương pháp sử hoc, một sự kiện sai vẫn là một sụ kiện và vẫn có thể dùng như tia phản hồi giúp cho sự kiện đúng được lộ ra ngoài ánh sáng.

 (Trần Thị Vĩnh Tường)

Tiểu sử

Quê ngoại ở Hưng Yên. Hiện ngụ cư tại California

Tác phẩm

Bao giờ cho quên, Gửi về em, mùa thu Hà Nội,

Ba sinh hương lửa

 Chữ là nghĩa


Về điểm người Lạc Việt có mặc quần hay không thì quyển
 Annam chí nguyên của Cao Hùng Trưng cũng nói là trước đời Trần Lê, người mình chưa biết mặc quần.

Nhưng sao ta có danh từ quần mà Quan-thoại nói là fủa, Quảng-đông nói là fuu, tức từ quần của ta không phải mượn của họ.

Xin nhắc lại rằng đừng tưởng rằng ta có thể vay mượn của các nhóm khác như Mân Việt, Đông Âu, như đã nói ở bài trước, bởi vào thuở ấy các nhóm đó cũng kém văn minh như ta và chỉ bị Tàu cai trị trước ta một vài trăm năm thì chưa đủ khả năng làm thầy của ta đâu. Ta có vay là vay của Tàu chánh gốc, tức Quan Thoại mà thôi.


(Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)

 Những ngôi chùa Bắc

 Chùa Hương



Tại chùa còn có quả chuông đồng ghi rõ "Bảo Đài Hương Tích Sơn Hồng Chung" có niên đại vào 1655. Bia cổ nhất là "Thiên Trù Tự Bi Ký" dựng lên năm 1686. Ngoài động Hương Tích, du khách còn có thể rẽ qua khu rừng Mơ, để đến lễ bái chùa Hinh Bồng, rồi từ đó men theo con suối Tuyết để vào đền Mẫu thờ bà Chúa Thượng Ngàn; từ đây một quần thể khác gồm có: núi Con Phượng, hòn Đầu Sư Tử, vách đá Kỳ Sơn Tú Thủy.

 Lễ hội chùa Hương được trải dài trọng mùa Xuân cho đến cuối tháng ba. Trong những ngày đó, từ bến Yến thuyền tấp nập chen chúc nhau đi vào, từ bến Trò thuyền ra; khách lên, khách xuống hết chùa nầy sang động khác, trên bến dưới thuyền nườm nượp. Đi lần từ bến Trò, dọc theo những con đường đất để leo lên chùa Thiên trù (bếp trời) miên man nào là nhang đèn, vàng mã, những hàng quán nhỏ bán trầm hương, trầu cau, quán cơm, thậm chí có những ngôi quán bán loại "gậy lụi" để khách hành hương dùng để chống leo núi chùa Hương.

 Con đường từ chùa Ngoài vào chùa Trong vào khoảng 2km, nhiều dốc cao, mấp mô; tuy nhiên không vì thế mà khách hành hương bỏ cuộc. Họ nối đuôi nhau thành một suối người liên tục, từng lớp, từng nhóm từng đôi, từng đoàn, lên lên, xuống xuống. Khách thập phương chỉ mong tham quan lễ bái cho cùng khắp các chùa chiền trong vùng; mỗi khi vào hội, mọi chùa, đền, hang, động thì mọi người như bừng tỉnh hẳn.

(Kiêm Thêm)

Để nhớ lại một thời

 Xe thổ mộ tại Sài Gòn xưa

 Ngày nay tuy trên đường không còn nhìn thấy bóng dáng của những chiếc xe thổ mộ xuôi ngược nhưng nhìn vào nhiều ngôi nhà hình bóng xe thổ mộ vẫn hiện diện. Dễ thấy nhất là những tường rào gắn bánh xe, không chỉ là vật trang trí, tạo điểm nhấn, bánh xe thổ mộ còn tạo phong cách đặc biệt cho tường rào. Nhưng đó là những bánh xe thổ mộ còn nguyên vẹn.

Trong ký ức của những thế hệ cha anh xe thổ mộ là hình ảnh thân quen của những ngày đi học, của những ngày ra chợ và với nhiều người nó là cả một phần đời với những buồn vui của quá khứ.

 (Khuyết danh)

 Văn hóa...hủ tíu cà phê

Chuyện kể rằng hồi thập niên 1930, thỉnh thoảng vài người đàn ông rủ đi bộ ra ngồi tiệm nước Đức Thành Hưng ở Bà Chiểu hay Đa Kao.

 (Quán ăn ở Sài Gòn thập niên 1930)


Họ ở đó, rề rà uống cà phê, ăn tô hủ tíu, cái bánh bao. Rồi  kêu ấm trà ngồi đến trưa. Khi nào mệt, đi xe ngựa về. Bà con thời đó lúc đầu ai cũng thắc mắc vì sao mấy ông chịu khó đi xa ăn sáng như vậy, đành rằng lúc đó con đường Hàng Bàng thuộc quận Bình Thạnh) mà mấy ông thả bộ còn cây cối xanh um, mát mẻ và xe cộ vắng vẻ gấp ngàn lần bây giờ. Các ông bảo nhau: “Ra đó ăn điểm tâm, ủng hộ người Nam mình!”

“Người Nam mình”, ở đây là người Việt, tất nhiên không phải Tây, hay cắc-chú, hay Chà. Câu chuyện đi ăn sáng của mấy ông trong làng Bình Hòa xảy ra trong bối cảnh miền Nam đang diễn ra phong trào người Nam hô hào dùng hàng nội hóa của người mình, tẩy chay hàng hóa của người Hoa đang nắm rất chắc, hầu như độc quyền hủ tíu cà phê ở đất Sài Gòn – Gia Định từ lớn đến nhỏ. Trong bối cảnh đó, một tên tuổi người Việt làm ăn giỏi đã xuất hiện trên thương trường, hình thành một chuỗi nhà hàng ăn uống, lúc đó gọi là tiệm nước, hay cụ thể hơn, “tiệm hủ tíu cà phê”. Đó là bà Lê Thị Ngọc, với chuỗi tiệm phục vụ điểm tâm mang tên Đức Thành Hưng. Chuỗi tiệm này cạnh trang ngang ngửa, phá thế độc quyền của người Hoa lúc đó và đã đứng vững trong một thời gian khá dài trên dưới hai thập kỷ từ khi thành lập. 

 (Phạm Công Luận)

 Văn hóa…cây cỏ

 Trái bần


Cây bần không cao, rậm, xanh mướt quanh năm mọc đầm mình dọc những bờ sông nước mặn. Trái bần hình bong vụ (con quay) hơi dẹp, dáng  giông giống như trái hồng dẹp còn xanh. Lần nào đo tắm sông gần cầu Bính lợi cũng hái Bần sống ăn với muối ớt đem theo, có vị chua và chát, lúc chin thì ngọt lờ lợ.

 (Mai/Y Nguyên)

 “Ba Tàu” huyễn sử

 Sự việc khiến người Việt gọi người Hoa là Ba Tàu xảy ra vào khoảng năm 1807, (hoặc chậm lắm là vào năm 1820, khi vua Minh Mạng lên ngôi). Đó là kết quả một lệnh dụ kỵ húy do vua Gia Long ban ra: cấm cả nước nói từ Hoa. Hoa là tên bà Hồ Thị Hoa, là vợ vua Minh Mạng. Một năm sau, bà sinh ra vua Thiệu Trị. Sau khi sinh con được 13 ngày, bà qua đởi. Vua Gia Long rất thương tiếc đứa con dâu yểu mệnh, bèn ban chỉ dụ cho quan lại và bá tánh trong nước kiêng tên Hoa của bà. Theo lệnh kỵ húy này, cửa Đông Hoa của Huế đổi thành cửa Đông Ba..

 Ba là thay cho từ Hoa trong sự kỵ húy đó.

Từ Hoa được thay bằng từ Ba, nhưng gọi người Hoa thì ai cũng hiểu, trái lại gọi người Ba thì vừa lạ hoắc vừa vô nghĩa, chẳng ai biết đó là gì. Họ vốn là người Tàu. Thế thì gọi luôn Ba Tàu, mà không cần giải thích gì thêm, ai cũng biết.

 (Thiếu Khanh)

 Cua cáy phiếm lược - con ba khía - 1

Trong khi bạn già Nguyễn Thị Cỏ May “điện” cho đồng hương Gò Công luận loạn cào cào châu chấu về con ba khía của xứ bạn ta…Bèn len lén chui vào thăm ông Google. Mặc dù ông Google không hẳn lúc nào cũng đúng và chuyện là thế này:

Ba khía là một loài cua nhỏ ở vùng Nam bộ, sống tập trung ở vùng nước lợ, mặn, trải từ Cần Thơ đến Sóc Trăng, Cà Mau, nhiều nhất ở U Minh. Ba khía sống dưới những tán đước, mắm rậm rạp, có mặt nhiều ở các vùng Cần Giờ, Gò Công, nhưng nhiều người thích ba khía Rạch Gốc (Cà Mau) vì ngon hơn các nơi kia.

 

    


 

Ba khía có họ với cua nên có càng to, là loại còng biển, do trên mai có ba gạch (khía) nên được đặt tên ba khía (xem 2 kỳ nữa). Kích thước nhỏ, gạch nhiều, thịt chắc (ngắt càng ra thịt không dính lại). Ba khía ngon nhất là loại đang ôm trứng.

 

    


 

Hằng năm vào mùa con nước lên (khoảng tháng 8 đến 10 âm lịch), khi những hang ổ ba khía dày đặc dưới gốc cây đước, cây mắm bị chìm trong nước, chúng phải bò lên thân và rễ cây để trú ẩn và giao phối (cua giao phối: xem ở những khúc sau). Vì trời mưa nên ba khía có nguồn thức ăn dồi dào, nên chúng có nhiều và chắc thịt.

 

(xem tiếp kỳ tới – con ba khía - 2)

 Lucky Luke rong ruổi miền Viễn Tây

 Tuy nói về miền Tây, nhưng Lucky Luke rất ít bạo lực. Các sự kiện được thể hiện một cách hài hước theo kiểu truyện tranh. Ví dụ như kết thúc vụ đấu súng O.K Corral mà không có ai chết hay bị thương. Tên cướp Billy the Kid cũng chỉ bị Lucky Luke phạt đánh vào mông và tiếp tục xuất hiện trong những tập khác.



 Chú chó Rantanplan cùng với cặp bài trùng Lucky Luke xuất hiện trên những trang truyện tranh màu thật sự đã đi vào tiềm thức của biết bao thế hệ tuổi trẻ Việt Nam. Những ký ức ấy thật sự khó quên và luôn khiến bất cứ ai phải bồi hồi khi chợt nhớ về. Tuy nhiên, thật đáng tiếc khi những hình ảnh ấy đang dần trôi vào quên lãng. Giờ mà đi hỏi những ai thuộc thế hệ 8x về cái tên Lucky Luke thì chắc cũng chỉ nhận về một câu trả lời: "A! Hồi đó mình có đọc truyện này nè. Lâu rồi không thấy ai nhắc nữa nhỉ"

 (Sean Bảo)

 Thành ngữ tục ngữ…sai

 Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư 

(Nghĩa đen: Trong ba người cùng đi, chắc có người là thầy ta) Như nghĩa câu trên”.

 

Còn câu khác là “Tam ngu thành hiền, ba người ngu họp lại thành một người giỏ” đề cao sức mạnh trí tuệ của tập thể.

 (Hoàng Tuấn Công)

 Lucky Luke rong ruổi miền Viễn Tây

 Có thể nói vào thời điểm lúc tựa truyện Lucky Luke được phát hành ở Việt Nam cũng là lúc mô típ hình tượng anh hùng cao bồi đang dần suy thoái. Ấy vậy mà Lucky Luke lại có một sự thành công rực rỡ tại Việt Nam. Một phần có lẽ vì những nét vẽ dí dỏm của tác giả,kết hợp cùng những câu truyện, hình ảnh đậm chất miền Viễn Tây nước Mỹ đã gợi nên trí tò mò của bao thanh niên Việt Nam. Đó là sự tài tình mà biên kịch và tác giả Lucky Luke mang lại.

 Chúng ta có thể vô tình đánh mất đi một phần kỷ niệm của tuổi thơ, nhưng hãy cứ để nó đi vào tiềm thức của mỗi người. Để mỗi khi nhắc lại, nó sẽ lại gợi nhớ cho chúng ta về một thời cắp sách đến trường mà trong chiếc cặp lúc nào cũng có sự hiện diện của anh chàng cao bồi Lucky Luke. Để rồi mỗi khi cầm trên tay những trang truyện ấy, chúng ta sẽ lại nhớ đên cái cảm giác mong chờ một hình ảnh quen thuộc luôn xuất hiện ở trang cuối. Đó chính là hình ảnh chàng cao bồi cô đơn với chiếc mũ trắng cùng áo gile đen đi về phía cuối chân trời, và cất lên bài ca:

Tôi là gã cao bồi nghèo đơn độc, rong ruổi trên đường dài xa quê hương, mà đường về nhà còn xa.

Một bài hát thấm đượm nỗi đơn độc!

 (Sean Bảo)

 Tác giả: Sean Bảo nguyên quán ở Huế, hiện đang ở Austin, Texas

Tác phẩm: Di dân về miền Viễn Tây - Tìm thấy vàng ở California

 Oẳn tù tì

Trò chơi “oẳn tù tì” không biết du nhập vào nước ta khi nào.

Nhưng theo truyền ngôn có dấu tích của tiếng Anh : one, two, three

được Việt hóa thành…oẳn tù tì.

Người Anh không thể vừa vung tay vừa nói:

Oẳn tù tì ra cái gì

Ra cái này

Cối xay ông cụ

Tú hụ đầu đình

………………..

 

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)

 Chân dung và đối thoại : Lưu Trọng Lư


Quả đúng vậy, và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại: 
Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức? 
Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ 
Em không nghe rừng thu 
Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác, 
Đạp trên lá vàng khô...
 

Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ Đầu Ngô mình Sở. Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng về, tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tí nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông: 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ 

(Trần Đăng Khoa)

60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954 - Vĩnh biệt Hải Phòng

Nếu trong cuộc Di cư 1975 và sau đó, câu hỏi của hầu hết người Việt ở Miền Nam, trong một cái xã hội vô vọng mà “đến cả cái cột đèn nếu biết đi thì cũng tìm cách đi”, là làm sao để đi; thì ởthời điểm 1954 tình thế phức tạp hơn nhiều, và câu hỏi lớn nhất của họ là nên đi hay ở. Trước hết, một trong những điều khoản của Hiệp định Genève là hai năm nữa, vào năm 1956, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước và người dân hai miền Nam Bắc tự định đọat lấy thể chế chính trị thích hợp. Đây chính là điều đã, theo tôi, khiến nhiều người dân miền Bắc quyết định ở lại để chờ cái ngày không bao giờ đến đó, một phần cũng vì quá mệt mỏi với chiến tranh và muốn thấy hoà bình bằng mọi giá, và cũng vì tiếc của, bên cạnh ảnh hưởng bởi một chiến dịch tuyên truyền ráo riết của Việt Minh. Tuyên truyền và cả dọa nạt, nhất là đối với dân quê, rằng tầu “há mồm” của Mỹ sẽ đưa họ ra biển rồi mở cái cổng mồm đó và trút họ xuống biển, hoặc thủy thủ Mỹ sẽ nướng con nít ăn thịt nếu đến với họ, vv. Và thứ hai là dạo ấy chỉ có một số ít nghe biết, chứng nhân thì lại càng ít hơn, được những cuộc tàn sát giết hại và đầy đọa những người không cùng chính kiến của người cộng sản Việt Nam. 

 

Cha tôi, tôi nghĩ, thuộc loại người đã quá mệt mỏi với chiến tranh, muốn tin vào cái viễn ảnh tổng tuyển cử năm 1956, và nhất là tiếc của, của do ông đã tốn bao mồ hôi nước mắt tạo dựng nên và đất đai mà ông tưởng là sẽ được thừa hưởng của bà tôi. Tuy vậy, ông cũng còn bán tín bán nghi, chưa quyết sẽ có di cư hay không. Và có lẽ để cho dễ dàng quyết định vào phút chót, cha tôi bảo anh Cả đem gia đình anh và một số các em vào Nam, trong đó có chị Ba, chị Năm, anh Sáu và tôi. 

 Nghe biết sẽ phải đi Nam với chúng tôi, chị Ba khóc lóc thú nhận đang yêu anh Tuấn và muốn được cha tôi chấp thuận cho lấy anh, mà gia đình anh Tuấn thì đã nhất định ở lại. Chị Ba là người đẹp nhất trong đám sáu chị em gái chúng tôi, và khá tân tiến: chị là người đầu tiên trong gia đình tôi đi uốn tóc, và chị còn học chơi đàn guitar nữa. Tôi hay ngồi xem chị gẩy đàn và hát bài “Dư âm”, có lẽ là bài chị chọn để học đánh đàn, nên tôi rất nhớ bài đó vì nghe tới nghe lui. Cha tôi tất nhiên là rất tức giận vì bị đẩy vào một trường hợp khó xử: trước khi chấp thuận cho chị Ba lấy anh Tuấn, ông lại còn phải xin từ hôn với anh Nhân, là người đã làm đám hỏi với chị Ba, chỉ chờ ngày cưới. Việc chị Ba từ hôn vậy mà cũng thành một tin trên một tờ báo địa phương, tôi còn nhớ đã đọc được. Dù vậy, chị Ba cũng được toại nguyện: lấy chồng trong một đám cưới chạy tang rất đơn sơ, vì bên gia đình chồng đang có tang. Nghe nói chị bị mẹ chồng đối xử không tốt. Nhiều năm tháng sau đó, tôi được đọc mấy cái bưu thiếp chị gửi vào xin một chiếc xe đạp. Tôi không nhớ lời của chị có được đáp ứng. Chị đã qua đời vì bệnh tiểu đường cách đây gần hai thập niên. 

(Trùng Dương)

 ***

 Phụ đính I

 40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn

nhà thơ đã khuất núi

(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn

Tổng hợp từ nhiều nguồn)

 


Võ Phiến

(1925-2015)

 

Võ Phiến tên thật là Đoàn Thế Nhơn, sinh ngày 20-10-1925 tại huyện Phù Mỹ, Bình Định; Ông là tác giả của 4 tiểu thuyết, 9 tập tuỳ bút, nhiều tập truyện ngắn, một tập thơ và nhiều tác phẩm phê bình tiểu luận.


Năm 1933 Ông theo học trường làng và sau đó học trung học ở Quy Nhơn. Năm 1942, ông ra Huế học trường Thuận Hóa và bắt đầu viết văn. Năm 1948, ông kết hôn với bà Võ Thị Viễn Phố.

Sau đó ông vào làm việc tại Sài Gòn và cộng tác với các báo Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Khởi Hành, Mai, Tân Văn, Bách Khoa…Năm 1962, lập nhà xuất bản Thời Mới.

Sau 30-4-1975, ông định cư tại Los Angeles rồi Orange County, California Hoa Kỳ. Ông qua đời ngày 28-9-2015 tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 90 tuổi.

 Tác phẩm :

Chữ tình (Quy Nhơn, 1956)
Thư nhà (Sài Gòn, 1963)
Hăm bốn giờ trong đời một người đàn bà (dịch Stefan Zweig)
Các trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại (dịch Andre Mourois)
Tạp bút 1 – 2 & 3 (Sài Gòn, 1965)
Văn học Miền Nam, tổng quan (Hoa Kỳ, 1987)
Truyện thật ngắn (Hoa Kỳ, 1991)
Quê (Hoa Kỳ, 1992)
Văn học Miền Nam, truyện 1 – 2 & 3 (Hoa Kỳ, 1999)
**

Phụ đính II

 Chữ nghĩa làng văn

 Báo Văn Học Nghệ Thuật - 1

 Trước đó hai năm tờ báo văn chương thuần túy là tờ Văn Học Nghệ Thuật do hai nhà văn Võ Phiến và Lê Tất Ðiều chủ trương sống lây lất chưa đầy mười số thì phải đình bản, và hiện nay trên thị trường chữ nghĩa của người Việt hải ngoại còn duy nhất một tờ Văn, do nhà văn Mai Thảo chủ trương.

 

Lần họp thứ hai cũng ở nhà tôi, có nhiều anh em văn nghệ hơn, nhưng tựu trung có hai ý kiến: Một là tìm cách quy tụ hết tất cả những cây viết thành danh, bầy hàng tất cả những người hiện đang sống bên ngoài đất nước trên trang bìa tờ báo. Ý kiến thứ hai dường như thiểu số tuyệt đối, vì chỉ có mình tôi cho là không cần các tên tuổi lớn, chỉ cần trong vài số đầu chứng tỏ cho độc giả thấy đây là một tờ báo văn học thuần túy. Ban đầu với những cây viết mới có thể không gây được tiếng vang, nhưng đó là tờ báo, mà những người chủ trương trân trọng từng bài thơ, từng mẩu chuyện. Tôi chủ trương tin vào chính mình, viết cho tới không sớm thì muộn độc giả cũng mở vòng tay đón nhận tờ báo.

 

(Hòang Khởi Phong)

Chữ nghĩa làng văn

 Báo Văn Học Nghệ Thuật - 2

 Rút cục tờ báo xuất hiện với sự tham dự của khá nhiều cây bút đã thành danh ở trong nước. Với sự hiện diện của nhà văn Võ Phiến ở vị trí chủ nhiệm, tờ báo là sự tiếp nối, hay khác đi là sự tục bản tờ Văn Học Nghệ Thuật, và hầu như tất cả mọi thành viên đều cho là với cái tên này, ít nhất tờ báo không mang vẻ cạnh tranh với tờ Văn của nhà văn Mai Thảo. Vị trí chủ bút do nhà văn Lê Tất Ðiều đảm nhiệm, và Nguyễn Mộng Giác là tổng thư ký.

Chỉ sau vài số báo, Văn Học Nghệ Thuật được các cây bút hải ngoại tới tấp gửi bài tham dự, cũng như sự trợ giúp tài chánh của những người coi văn chương như là một ăn tinh thần. Khoa học gia Trương Vũ, là một thí dụ điển hình. Nói tóm lại sau khi chiến tranh tàn được hai chục năm, đây là một tác phẩm quy tụ nhà văn của ba phe tham chiến, đã từng tận lực bắn giết nhau ngoài mặt trận. Không riêng gì Văn Học nhận được sự trợ giúp hết lòng của Trương Vũ, sau này khi tờ Hợp Lưu ra đời, anh cũng là một người lúc nào cũng mở hầu bao cứu cấp, mỗi khi hai tờ Văn Học và Hợp Lưu gặp phải những cơn khủng hoảng tài chánh.

 (Hòang Khởi Phong)


                     Ga Hàng  Cỏ 1927

Mời Xem :

CHỬ NGHĨA LÀNG VĂN Kỳ 1/3/2025 - Ngộ Không Phí Ngoc Hùng

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét