Chữ nghĩa làng văn
Sai lầm vì dùng từ Hán
và Nôm trùng hợp
Không nói “sông Hồng
hà” nên nói “sông
Hồng” hoặc “Hồng hà”.
(Lưu Khôn)
Một số từ hay bị dùng sai trong tiếng Việt
Goá phụ: Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để
chỉ người đàn bà có chồng đã chết.
Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ
được. Phải gọi người đàn
bà góa (toàn Nôm) hay người quả
phụ (toàn Hán Việt) mới đúng.
(khuyết danh)
Chuyện chính tả
- Đàn bà vú lép, to hông
Đít teo bụng ỏng, cho không chẳng cầu
Một số từ hay bị dùng sai trong tiếng Việt
Tặc 感: Từ Hán
Việt nầy đang được dùng như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên
ăn trộm.
Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp:
một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ
kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊có nghĩa là
ăn cướp, đạo 盜 mới có
nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác.
(khuyết danh)
Nói
thế không phải tôi phủ nhận quan điểm làm báo của VHNN. Thế giới chữ nghĩa là
cả một rừng hoa với nhiều mầu sắc. Văn Hóa Ngày Nay đương nhiên là một tạp chí
tô điểm thêm cho sinh hoạt báo chí thời đó vốn đã vô cùng sôi nổi với nhiều tờ
báo danh tiếng khác như Đời Mới, Vấn Đề, Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Hóa Á Châu,
Quê Hương..v..v..
Tuy
nhiên, sau vài số đã phát hành, có vẻ như Văn Hóa Ngày Nay đã hiện diện như một
bông hoa tuy nhiều hương sắc nhưng lại có vẻ như lạc lõng giữa dòng đời đang
trôi đi hối hả. Đọc những trang chính Nhất Linh trả lời thư độc giả ở những số
đầu, ta thấy hầu như ông chưa nhận ra được sự lạc lõng này. Ông vẫn bộc lộ sự
chủ quan qua những lời lẽ như nhận mình là con voi nằm thù lù trong sở thú, hay
trách độc giả sao bắt ông làm việc quá nhiều trong khi ông cũng chỉ có 24 giờ
như mọi người...
Mặt
khác, Nhất Linh lại là một nhân vật nổi tiếng với nhiều thành tích văn học.
Phải chăng chính sự nổi tiếng này đã trở thành một yếu tố bất lợi cho chính ông
bởi vì các độc giả đã kỳ vọng ở nơi ông quá nhiều. Cứ nhìn số báo ra mắt Văn
Hóa Ngày Nay được đón nhận thế nào thì đủ thấy. Theo học giả Đoàn Thêm trong
cuốn “Hai Mươi Năm Qua, việc từng ngày”, thì VHNN số đầu tiên đã bán hết tới 10
ngàn số, và Thế Uyên, người cháu gọi Nhất Linh bằng bác còn tiết lộ trong cuốn
“Chân Dung Nhất Linh” do tạp chí Văn ấn hành, rằng :
“Trước
khi phát hành Văn Hoá Ngày Nay số 1, Nhất Linh dự đoán sẽ bán được năm ngàn số.
Duy Lam lạc quan hơn, đưa con số tám ngàn. Tất cả đều đoán sai. Tám ngàn là con
số bán hết trong mấy ngày đầu, sau đó phải in đi in lại nhiều lần.”
Nếu
đúng như thế thì đây là một kỷ lục mà sau đó chưa có một tạp chí văn nghệ nào
theo được bén gót. Nó cũng nói lên rằng độc giả đã quý trọng và đón chờ công
trình văn hóa mới của Nhất Linh như thế nào sau biết bao nhiêu biến cố lớn lao
của đời sống, cả chính trị lẫn văn học.
(Nhật Tiến)
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
- Những người ti hí mắt lươn
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng
người
Từ điển chính tả sai lỗi…chính
tả
“trứng: trứng quốc, trứng sáo”. (Gs
Nguyễn Văn Khang)
Trở về khách sạn tôi
quay điện thoại xin gặp nhà thơ Huy Cận.
Đó là một toà nhà quét
vôi vàng nhạt với kiến trúc cổ, trước nhà một cánh cổng sắt sơn màu xanh lá
cây. Đúng hai giờ một ông già dáng đi nặng nề từ trong nhà bước ra tay cầm chùm
chìa khóa tra vào ổ cánh cửa sắt. Cửa mở. Trước mặt tôi là Huy Cận.
(…)
Huy Cận hướng dẫn tôi
vào nhà qua một lối đi lát gạch có đặt nhiều chậu cây kiểng. Trong phòng khách
ông tiếp tôi có
treo trên tường bức tranh vẽ chân dung nhà thơ Xuân Diệu. Ngồi xuống
ghế, tôi nói ngay với ông cái mục đích rất giản dị của tôi là xin được gặp ông
để nghe ông nói về những kỷ niệm ông đã có với bố tôi. Tôi xin ông không nói
chuyện chính trị bởi vì giữa ông và bố tôi đã đi trên hai con đường khác nhau
mà cả hai bên tôi nghĩ đều rất hãnh diện về sự lựa chọn của mình. Xem ra ông
cũng đồng ý với tôi trên căn bản đó.
Bố tôi đối xử với bạn bè và những người cộng tác với ông hết sức chân tình. Huy Cận ghi nhận. Ông kể với tôi là ông không bao giờ quên được một đêm đông ông đến thăm bố tôi, thấy ông trên người chỉ có cái áo phong phanh, bố tôi đã cởi ngay chiếc áo lạnh pa-đờ-suy mà bố tôi đang mặc khoác lên người ông và tặng luôn ông chiếc áo lạnh đó.
(Cây bàng lá đỏ - Nguyễn Tường Thiết)
Tự điển chính tả sai lỗi…chính tả
Nét vẽ, câu thơ, ánh đèn, khói thuốc, bầu không khí thân mật cười đùa này chẳng mấy lâu sau mắc cho anh món nợ phù dung. Nợ càng sâu dậm hơn khi nàng tiên xuất hiện trong thân hình Bích Ngọc, một ngôi sao trên sông hồ của Hà thành hoa lệ, có nét kiều diễm theo tiêu chuẩn Tây phương, được đám phong lưu dị chủng đặt cho cái tên ôn-nhu là Angèle. Nhưng giai nhân lúc ấy đang kẻ đưa người đón dập dìu, đâu có chú ý đến một anh chàng thi sĩ ngây thơ? Nên chàng than vãn:
Hững hờ là thói thuyền quyên
Si tình thay lũ thiếu niên giang hồ!
Ngọn lửa cành non kêu lách tách
Như đùa với lạnh. Mặt em tươi
Hơi ấm, tình nồng, hai má đỏ
Nhìn em, em chúm chím môi cười...
Nhưng Angèle
không chỉ yêu Tuấn. Nên Tuấn than:
Tao phùng một chuyến rồi ly biệt
Hoa lại bay theo ngọn gió ngàn!
Không đỉnh chung với thế nhàn, anh cũng quyết không đỉnh chung nữa với phù dung. Năm 1938, một hôm anh bảo người chuẩn bị xôi gà đèn nhang, đến đêm anh trịnh trọng đem bộ khay đèn đặt trước lễ vật, lâm râm khấn vái rồi bê cả xe tẩu móc tiêm cùng khay ném choang xuống sân gạch, ly dị với tiên nâu từ đây. Nhưng lại sa vào men rượu mà anh uống như trà.
(Lãng Nhân Phùng Tất Đắc - Nhớ nơi kỳ ngộ)
Nguyễn Trọng Tạo
*: Hồi đầu những năm 90 thế kỷ trước tôi sống ở Huế và
đã gặp ở đó khá nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại về thăm đất nước. Hầu hết những
người tôi được gặp thì trước đó tôi đã được đọc được biết tên họ trên sách báo
hải ngoại hoặc trong nước. Có người tôi đã được đọc họ từ trước 1975. Những
người tôi gặp thường là những tên tuổi quen thuộc. Đỗ Khiêm cùng ông đến tư gia
thăm tôi. Thuỵ
Khuê cùng chồng con xuống ga tàu hoả Huế được tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường đón
về Khách sạn và đưa đi thăm di tích danh thắng và gặp nhiều văn nghệ
sĩ Huế.
Tôi và HPNT cũng đã đón Khánh
Trường từ sân bay Phú Bài. Du Tử Lê sau ba lần về Huế mới quyết định đến gõ cửa nhà
tôi và HPNT rồi hơn 10 năm sau lại gặp nhau ở Hà Nội. Trần Vũ tìm tôi ở Huế
không gặp chục năm sau tôi lại tìm được Vũ tại Pais và đến nhà chơi. Nhiều lần
hẹn nhau với anh Đặng Tiến mới găp được nhau tại nhà anh Dương Tường.
Những người ấy đều ghi dấu ấn sâu đậm trong tôi bằng tác phẩm và những hoạt động văn học của họ. Đấy là những người Việt muốn với những người cùng nòi giống tôn vinh văn chương tiếng Việt dù phong cách và quan niệm khác nhau.
(30 năm: khỏang cách dấu hỏi - Nguyễn Trọng Tạo)
* Nguyễn
Trọng Tạo sinh ngày 25-8-1947
trong một gia đình nho học ở làng
Trường Khê (nay là Diễn Hoa), huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1969 tham gia quân đội, rồi làm
trưởng đoàn văn công xung kích Sư đoàn 341B. Năm 1976 ông được điều về Hà Nội
tham gia Trại viết văn quân đội rồi vào học Trường viết văn Nguyễn Du khóa I. Ông đã có ý định tự tử
bằng hai khẩu súng ngắn bắn vào đầu mình vào ngày 11 tháng 11 năm 1981.
Ông là tác giả của những tập thơ: Đồng dao cho
người lớn, Nương Thân, Thế giới không còn trăng
Những điều đó hình như không quan hệ lắm đối
với giới nghiên cứu văn học Việt
Miền
Thuở nhỏ,
ông trải qua một thời gian giữ trâu, làm ruộng ở nhà quê. Lớn lên, ông đã học
xong các chương trình tú tài, cử nhân, cao học và tiến sĩ (sau năm 1975) Ông đã từng dạy ở các trường: Đại học Văn
Khoa, Sư phạm Cần Thơ, Đại học Vạn Hạnh, Đại
học Sư phạm Sài Gòn.
Tác phẩm: Văn học Việt
Trong chiều hướng
đó, hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị, tiếng nói của nhà phê bình
và nghiên cứu Vương Trí Nhàn, một trong những nhà văn miền Bắc đã không ngừng
tiếp cận với văn học miền Nam từ thời kỳ phân chia Nam Bắc đến ngày nay.
Qua những nhận định và phân tích của Vương Trí Nhàn, chúng ta sẽ thấy sự tiếp cận văn học giữa hai miền chưa bao giờ thực sự gián đoạn, và riêng ông, ông mong được đóng góp tích cực vào việc mở rộng con đường hợp nhất hai nền văn học Nam Bắc để có thể vẽ nên toàn diện bộ mặt văn học Việt Nam trong thế kỷ XX.
Thụy Khuê: Thưa
anh Vương Trí Nhàn, xin cảm ơn anh lại một lần nữa vui lòng đóng góp tiếng nói
trên đài RFI. Trước hết xin hỏi anh là hiện nay có dấu hiệu nào cho chúng ta
thấy là văn học miền Nam đã bắt đầu hiện diện lại trên địa bàn văn học ở trong
nước hay chưa?
Vương Trí Nhàn: Lâu nay, Văn học miền Nam như cứ tồn tại một cách
lấp lửng ở Hà Nội, đôi lúc nổi lên, gây ồn ào, rồi lại thôi, để ít
lâu sau lại xuất hiện dù không thành vấn đề lớn, song vẫn là vấn đề liên tục.
Năm ngoái, vì có chuyện một số sách của Dương Nghiễm Mậu được in lại, sau đó
lại bị phê phán, thành ra có người nghĩ rằng thế là thôi, từ nay nó bị đẩy lùi
hẳn.
Trong cái nắng hầm hập vào hạ cây phượng già trong sân trường bắt đầu mọc lá non, hoa phượng trổ lác đác trên cành thì đám nhỏ bắt đầu chuyển sang chơi trò đá dế. Trước buổi học hay vào giờ tan học. Xen lẫn với những người bán quà vặt, cóc ổi, cà rem trước cổng trường là những người bán dế. Dế thường được phân ra thành hai loại dế lửa và dế than.
Dế
được đựng trong một cái thùng gỗ nhẹ bằng cây thông làm khung và hai phía được
bọc bằng loại lưới kẻm nhuyễn 1-2 ly mà dân
Dế
xịn nhất là những con dế to lớn, mà người bán đựng trong cái vỏ hộp quẹt diêm.
Tụi tôi gọi là dế hộp quẹt, chỉ tụi
con nhà giàu, khá giả mới có tiền mua chơi, trước cặp mắt thèm thuồng ngưỡng mộ
của đám trò nghèo chớ không hề biết ganh ghét vì thân phận .
Chữ nghĩa làng văn
Không
phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến ba câu điệp Em không nghe:
Em không nghe mùa thu
Em không nghe rạo rực
Em không nghe rừng thu...
Em không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà không nói ra được.
Đây là cuộc
đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng. Hoặc giả em cũng
đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em. Đằng nào
thì cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào
xạc, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp
trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nôt.
Thực
tế trong bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người bình luận
còn viện cớ rằng: Thực tế Việt
Gặp gỡ
người viết trẻ “ngụ cư” ở hải ngọai
Khi tôi đọc lại người cũ, những gì đã viết và
bây giờ được viết, tôi sung sướng ghi nhận cái riêng tư của mỗi người. Như Phan
Lạc Phúc và Phan Lạc Tiếp. Họ là anh em lớn lên trong cùng một gia đình, cùng
trong quân đội Cộng Hòa, cùng trong cuộc chiến, cùng phục vụ một chính thể,
nhưng họ tiếp cận cùng một vấn đề theo tính cách riêng, theo suy nghĩ riêng của
mỗi người. Phan Lạc Phúc thấy cái giải đất chữ S của Việt
Phan Lạc Tiếp thấy mảnh đất chữ S giáp biển
giúp mình nhiều cơ hội học hỏi nhưng chiến tranh triền miên nên cái học không
thấm sâu nên nhân tài cho đất nước còn thiếu. Nói chung không chỉ có anh em nhà
họ Phan khác nhau, mà là cả thiên hạ miền
Nguyễn Văn Trung viết Ngôn Ngữ Và Thân Xác thì
Võ Phiến cười cợt Chửi (Võ Phiến, Tùy Bút 1); người ta nói Nguyễn Đình Toàn
Thanh Tâm Tuyền, Hùynh Phan Anh là hiện sinh thì Nguyễn Hiến Lê nói văn học
miền Nam không có hiện sinh (Nguyễn Hiến Lê. Hồi Ký, tập II. Nhà xuất bản Văn
Nghệ); người ta nói thuyết Việt Học gì đó thì có người hỏi khẽ đâu là bằng
chứng.
Bây giờ trong và ngoài nước hình như đồng loạt
mang tứ khoái vào văn chương, nói là hiện sinh thì đó là bước thụt lùi, nói là
thực hóa thì cũng vẫn là lui lại. Bây giờ hình như chúng ta bình văn thơ bằng kiến thức hơn là bằng tâm hồn đồng cảm
đồng điệu.
Tôi không thấy ai bình thơ như Bùi Giáng bình Tuệ Sỹ,
Võ Phiến bình Tô Thùy Yên, Huỳnh Phan Anh viết về Áo Mơ Phai. Nói đề tài hay
nói hình thức, tôi đều cho đó là sự giật lùi khi nghĩ đến điều Mai Thảo đã khêu
gợi năm xưa: Chế lấy mây và gây lấy nắng, Chế
lấy đừng vay mượn đất trời.
(Văn học miền
Lê Hoằng Mưu (1879-1941) có sách ghi là Lê Hoàng Mưu, bút hiệu Mộng Huê Lầu (đảo các mẫu tự họ tên) là nhà văn, nhà báo trong những năm đầu của thế kỷ 20.
Ông sinh năm Kỷ Mão (1879) trong một gia đình làm nông khá giả tại làng Cái Cối, tổng Bảo Hựu, tỉnh
Bến Tre. Ban đầu, ông học ở Bến Tre, sau học ở Sài Gòn[3], rồi gia nhập làng văn, làng báo ở Sài Gòn cho đến cuối đời. Ông nổi tiếng
trong làng báo Sài Gòn từ những năm 1910-1915, và là một trong số các cây bút tiểu thuyết thuộc giai đoạn phôi
thai ở miền Nam. Năm 1921,
khi tờ
Năm Tân Tỵ (1941),
ông mất tại Sài Gòn, thọ 62 tuổi.
Các tác phẩm của Lê Hoằng Mưu dưới đây, phần lớn đều đã được đăng tải nhiều kỳ trên các báo, trước khi in thành sách.
- Hà
Hương phong nguyệt (tiểu thuyết đầu tay, đăng trên báo Nông cổ mín đàm từ
năm 1912 với nhan đề Truyện nàng Hà Hương, đến năm 1914 được
nhà in Saigonnaise L. Royer xuất bản thành 6 quyển với tên là Hà Hương phong nguyệt).]
- Ba gái cầu chồng (đăng
báo năm 1915)
- Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920)
- Oán hồng quần hay Phùng Kim Huê ngoại sử (6 quyển,
nhà in L’ Union, 1920)
- Truyện người bán ngọc (4 quyển, nhà in
Lưu Đức Phương, Sài Gòn, 1931)
Còn “sẻ” trong “chia
sẻ” (cùng hưởng, cùng chịu), lại là “sẻ”
trong “chia ngọt sẻ bùi” (cùng chung hưởng với nhau, dù
ít dù nhiều).
Như vậy, “chia xẻ” và “chia sẻ” không phải
một từ với hai dạng chính tả, mà là hai từ khác nhau.
Từ huyền sử đến sự thật
Người Hy Lạp hãnh diện về Hélène thành Troie, thương cảm
cho định mệnh của giai nhân. Thế giới ngưỡng mộ Cléopatre qua khuôn mặt diễm lệ
của Liz Taylor, tin chắc rằng “nếu mũi nàng chỉ ngắn một chút xíu, cả thế giới
đã thay đổi.” Huyền thoại trong Cựu Ước cho Moses rẽ biển Hồng Hải, cứu dân Do
Thái thoát vòng nô lệ. Như C.S Lewis (1898-1963) nhận xét “Huyền thoại là một
thể loại nghệ thuật rất khác với văn học”. Dù không hội được những điều kiên
của sử học, huyền sử/huyền thoại/truyền thuyết vẫn có giá trị: ghi nhận và
chuyên chở một phần sự thật của quá khứ, thổi vào quá khứ ấy một linh hồn riêng
của mỗi tộc người.
Một đằng dựa vào cổ tích truyền miệng, văn hóa dân gian,
không gian huyền ảo, siêu nhân vật thần thánh. Một đằng dựa vào những giá trị
có thể kiểm chứng được: ở đâu/cái gì/tại sao/thế nào/bao giờ. Nhưng cũng theo
phương pháp sử hoc, một sự kiện sai vẫn là một sụ kiện và vẫn có thể dùng như
tia phản hồi giúp cho sự kiện đúng được lộ ra ngoài ánh sáng.
Tiểu sử
Quê ngoại ở Hưng Yên. Hiện ngụ
cư tại
Tác phẩm
Bao giờ cho quên, Gửi về em, mùa thu Hà Nội,
Ba sinh hương lửa
Về điểm người Lạc Việt có mặc quần hay không thì quyển Annam
chí nguyên của Cao Hùng Trưng cũng nói là trước đời
Trần Lê, người mình chưa biết mặc quần.
Nhưng sao ta có danh từ quần mà Quan-thoại nói là fủa, Quảng-đông nói là fuu, tức từ quần của ta không phải mượn của họ.
Xin nhắc lại rằng đừng tưởng rằng ta có thể
vay mượn của các nhóm khác như Mân Việt, Đông Âu, như đã nói ở bài trước, bởi
vào thuở ấy các nhóm đó cũng kém văn minh như ta và chỉ bị Tàu cai trị trước ta
một vài trăm năm thì chưa đủ khả năng làm thầy của ta đâu. Ta có vay là vay của
Tàu chánh gốc, tức Quan Thoại mà thôi.
(Gương mặt dân Lạc Việt qua
ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)
Tại chùa còn có quả
chuông đồng ghi rõ "Bảo Đài Hương Tích Sơn Hồng Chung" có niên đại vào 1655.
Bia cổ nhất là "Thiên Trù Tự Bi Ký" dựng lên năm 1686. Ngoài động Hương
Tích, du khách còn có thể rẽ qua khu rừng Mơ, để đến lễ bái chùa Hinh Bồng, rồi
từ đó men theo con suối Tuyết để vào đền Mẫu thờ bà Chúa Thượng Ngàn; từ đây
một quần thể khác gồm có: núi Con Phượng, hòn Đầu Sư Tử, vách đá Kỳ Sơn Tú
Thủy.
(Kiêm Thêm)
Để nhớ lại một thời
Trong
ký ức của những thế hệ cha anh xe thổ mộ là hình ảnh thân quen của những ngày
đi học, của những ngày ra chợ và với nhiều người nó là cả một phần đời với những buồn vui
của quá khứ.
Chuyện kể rằng hồi thập niên 1930, thỉnh thoảng vài người đàn ông rủ đi bộ ra ngồi tiệm nước Đức Thành Hưng ở Bà Chiểu hay Đa Kao.
Họ ở đó, rề rà uống cà phê, ăn tô hủ tíu, cái bánh bao. Rồi kêu ấm trà ngồi đến trưa. Khi nào mệt, đi xe ngựa về. Bà con thời đó lúc đầu ai cũng thắc mắc vì sao mấy ông chịu khó đi xa ăn sáng như vậy, đành rằng lúc đó con đường Hàng Bàng thuộc quận Bình Thạnh) mà mấy ông thả bộ còn cây cối xanh um, mát mẻ và xe cộ vắng vẻ gấp ngàn lần bây giờ. Các ông bảo nhau: “Ra đó ăn điểm tâm, ủng hộ người Nam mình!”
“Người Nam mình”, ở đây là người Việt, tất nhiên không phải Tây, hay cắc-chú, hay Chà. Câu chuyện đi ăn sáng của mấy ông trong làng Bình Hòa xảy ra trong bối cảnh miền Nam đang diễn ra phong trào người Nam hô hào dùng hàng nội hóa của người mình, tẩy chay hàng hóa của người Hoa đang nắm rất chắc, hầu như độc quyền hủ tíu cà phê ở đất Sài Gòn – Gia Định từ lớn đến nhỏ. Trong bối cảnh đó, một tên tuổi người Việt làm ăn giỏi đã xuất hiện trên thương trường, hình thành một chuỗi nhà hàng ăn uống, lúc đó gọi là tiệm nước, hay cụ thể hơn, “tiệm hủ tíu cà phê”. Đó là bà Lê Thị Ngọc, với chuỗi tiệm phục vụ điểm tâm mang tên Đức Thành Hưng. Chuỗi tiệm này cạnh trang ngang ngửa, phá thế độc quyền của người Hoa lúc đó và đã đứng vững trong một thời gian khá dài trên dưới hai thập kỷ từ khi thành lập.
Cây bần không cao, rậm,
xanh mướt quanh năm mọc đầm mình dọc những bờ sông nước mặn. Trái bần hình bong
vụ (con quay) hơi dẹp, dáng giông giống như trái hồng dẹp còn xanh. Lần
nào đo tắm sông gần cầu Bính lợi cũng hái Bần sống ăn với muối ớt đem theo, có vị chua
và chát, lúc chin thì ngọt lờ lợ.
Từ Hoa được
thay bằng từ Ba, nhưng gọi người Hoa thì ai cũng
hiểu, trái lại gọi người Ba thì vừa lạ hoắc vừa vô nghĩa,
chẳng ai biết đó là gì. Họ vốn là người Tàu. Thế thì gọi luôn Ba Tàu, mà không cần giải thích gì
thêm, ai cũng biết.
Trong khi bạn già Nguyễn Thị Cỏ May “điện” cho đồng hương Gò Công luận loạn cào cào châu chấu về con ba khía của xứ bạn ta…Bèn len lén chui vào thăm ông Google. Mặc dù ông Google không hẳn lúc nào cũng đúng và chuyện là thế này:
Ba khía là
một loài cua nhỏ
ở vùng Nam bộ, sống tập trung ở vùng nước lợ, mặn, trải từ Cần Thơ đến Sóc
Trăng, Cà Mau, nhiều nhất ở U Minh. Ba khía sống dưới những tán đước, mắm rậm rạp,
có mặt nhiều ở các vùng Cần Giờ, Gò Công, nhưng nhiều người thích ba khía Rạch
Gốc (Cà Mau) vì ngon hơn các nơi kia.
Ba khía có họ với cua
nên có càng to, là loại còng biển, do
trên mai có ba
gạch (khía)
nên được đặt tên ba
khía (xem 2 kỳ nữa). Kích thước
nhỏ, gạch nhiều, thịt chắc (ngắt càng ra thịt không dính lại). Ba khía ngon
nhất là loại đang ôm trứng.
Hằng năm vào mùa con
nước lên (khoảng tháng 8 đến 10 âm lịch), khi những hang ổ ba khía dày đặc dưới
gốc cây đước, cây mắm bị chìm trong nước, chúng phải bò lên thân và rễ cây để
trú ẩn và giao phối (cua giao phối: xem ở những khúc sau). Vì trời
mưa nên ba khía có nguồn thức ăn dồi dào, nên chúng có nhiều và chắc thịt.
(xem tiếp kỳ tới – con ba khía - 2)
(Nghĩa đen: Trong ba người cùng đi, chắc có
người là thầy ta) Như nghĩa câu trên”.
Còn câu khác là “Tam ngu thành hiền,
ba người ngu họp lại thành một người giỏ” đề cao sức mạnh trí tuệ của tập thể.
Tôi là gã cao bồi nghèo đơn độc, rong ruổi trên đường dài xa quê
hương, mà đường về nhà còn xa.
Một bài hát thấm đượm nỗi đơn độc!
Tác phẩm: Di
dân về miền Viễn Tây - Tìm thấy vàng ở
Trò chơi “oẳn tù tì” không biết du nhập vào nước ta khi nào.
Nhưng theo truyền ngôn có dấu tích của tiếng
Anh : one, two, three
được Việt hóa thành…oẳn tù tì.
Người Anh không thể vừa vung tay vừa nói:
Oẳn tù tì ra cái gì
Ra cái này
Cối xay ông cụ
Tú hụ đầu đình
………………..
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Quả đúng vậy, và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô...
Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài
thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu
máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng,
tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ Đầu Ngô mình Sở. Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng
về, tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tí nào, nó như câu
văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông:
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
(Trần Đăng Khoa)
60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954 - Vĩnh biệt Hải Phòng
Nếu trong cuộc Di cư 1975 và sau đó, câu hỏi của hầu hết người Việt ở Miền Nam, trong một cái xã hội vô vọng mà “đến cả cái cột đèn nếu biết đi thì cũng tìm cách đi”, là làm sao để đi; thì ởthời điểm 1954 tình thế phức tạp hơn nhiều, và câu hỏi lớn nhất của họ là nên đi hay ở. Trước hết, một trong những điều khoản của Hiệp định Genève là hai năm nữa, vào năm 1956, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước và người dân hai miền Nam Bắc tự định đọat lấy thể chế chính trị thích hợp. Đây chính là điều đã, theo tôi, khiến nhiều người dân miền Bắc quyết định ở lại để chờ cái ngày không bao giờ đến đó, một phần cũng vì quá mệt mỏi với chiến tranh và muốn thấy hoà bình bằng mọi giá, và cũng vì tiếc của, bên cạnh ảnh hưởng bởi một chiến dịch tuyên truyền ráo riết của Việt Minh. Tuyên truyền và cả dọa nạt, nhất là đối với dân quê, rằng tầu “há mồm” của Mỹ sẽ đưa họ ra biển rồi mở cái cổng mồm đó và trút họ xuống biển, hoặc thủy thủ Mỹ sẽ nướng con nít ăn thịt nếu đến với họ, vv. Và thứ hai là dạo ấy chỉ có một số ít nghe biết, chứng nhân thì lại càng ít hơn, được những cuộc tàn sát giết hại và đầy đọa những người không cùng chính kiến của người cộng sản Việt Nam.
Cha tôi, tôi nghĩ, thuộc loại người đã quá mệt
mỏi với chiến tranh, muốn tin vào cái viễn ảnh tổng tuyển cử năm 1956, và nhất
là tiếc của, của do ông đã tốn bao mồ hôi nước mắt tạo dựng nên và đất đai mà
ông tưởng là sẽ được thừa hưởng của bà tôi. Tuy vậy, ông cũng còn bán tín bán
nghi, chưa quyết sẽ có di cư hay không. Và có lẽ để cho dễ dàng quyết định vào
phút chót, cha tôi bảo anh Cả đem gia đình anh và một số các em vào Nam, trong
đó có chị Ba, chị Năm, anh Sáu và tôi.
(Trùng Dương)
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều
nguồn)
Võ Phiến
(1925-2015)
Võ Phiến tên thật là Đoàn Thế Nhơn, sinh ngày
20-10-1925 tại huyện Phù Mỹ, Bình Định; Ông là tác giả của 4 tiểu thuyết, 9 tập
tuỳ bút, nhiều tập truyện ngắn, một tập thơ và nhiều tác phẩm phê bình tiểu
luận.
Năm 1933 Ông theo học trường làng và sau đó học trung học ở Quy
Nhơn. Năm 1942, ông ra Huế học trường Thuận Hóa và bắt đầu viết văn. Năm 1948,
ông kết hôn với bà Võ Thị Viễn Phố.
Sau đó ông vào làm việc tại Sài Gòn và cộng tác với các báo Sáng
Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Khởi Hành, Mai, Tân Văn, Bách Khoa…Năm 1962, lập nhà xuất
bản Thời Mới.
Sau 30-4-1975, ông định cư tại Los Angeles rồi Orange County,
California Hoa Kỳ. Ông qua đời ngày 28-9-2015 tại Santa Ana, California, Hoa
Kỳ, hưởng thọ 90 tuổi.
Chữ tình (Quy Nhơn, 1956)
Thư nhà (Sài Gòn, 1963)
Hăm bốn giờ trong đời một người đàn bà
(dịch Stefan Zweig)
Các trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại
(dịch Andre Mourois)
Tạp bút 1 – 2 & 3 (Sài Gòn, 1965)
Văn học Miền Nam, tổng quan (Hoa Kỳ,
1987)
Truyện thật ngắn (Hoa Kỳ, 1991)
Quê (Hoa Kỳ, 1992)
Văn học Miền Nam, truyện 1 – 2 & 3
(Hoa Kỳ, 1999)**
Phụ đính II
Lần họp thứ hai
cũng ở nhà tôi, có nhiều anh em văn nghệ hơn, nhưng tựu trung có hai ý kiến:
Một là tìm cách quy tụ hết tất cả những cây viết thành danh, bầy hàng tất cả
những người hiện đang sống bên ngoài đất nước trên trang bìa tờ báo. Ý kiến thứ
hai dường như thiểu số tuyệt đối, vì chỉ có mình tôi cho là không cần các tên
tuổi lớn, chỉ cần trong vài số đầu chứng tỏ cho độc giả thấy đây là một tờ báo
văn học thuần túy. Ban đầu với những cây viết mới có thể không gây được tiếng
vang, nhưng đó là tờ báo, mà những người chủ trương trân trọng từng bài thơ,
từng mẩu chuyện. Tôi chủ trương tin vào chính mình, viết cho tới không sớm thì
muộn độc giả cũng mở vòng tay đón nhận tờ báo.
(Hòang Khởi Phong)
Chữ nghĩa làng văn
Chỉ sau vài số báo, Văn Học Nghệ Thuật được các cây bút hải ngoại tới tấp gửi bài tham dự, cũng như sự trợ giúp tài chánh của những người coi văn chương như là một ăn tinh thần. Khoa học gia Trương Vũ, là một thí dụ điển hình. Nói tóm lại sau khi chiến tranh tàn được hai chục năm, đây là một tác phẩm quy tụ nhà văn của ba phe tham chiến, đã từng tận lực bắn giết nhau ngoài mặt trận. Không riêng gì Văn Học nhận được sự trợ giúp hết lòng của Trương Vũ, sau này khi tờ Hợp Lưu ra đời, anh cũng là một người lúc nào cũng mở hầu bao cứu cấp, mỗi khi hai tờ Văn Học và Hợp Lưu gặp phải những cơn khủng hoảng tài chánh.
Ga Hàng Cỏ 1927
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét