3 thg 3, 2025

CHỬ NGHĨA LÀNG VĂN Kỳ 1/3/2025 - Ngộ Không Phí Ngoc Hùng

 Chữ nghĩa làng văn 


“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phi Ngọc Hùng.


***


Chữ là nghĩa


Tên gọi Già Lam từ chữ tiếng Phạn Samghàràma 

(Tăng-gìa Lam-ma) có nghĩa là tăng xá hay chùa.

Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ


Cắm sừng ai thì cắm chứ đừng cắm cơm mà quên bật nút


Tiếng nói xưa và nay


Sư ni: Đây là từ gốc Ấn Độ. 

Ở Ấn Độ, nam giới đi tu gọi là bít-sư, nữ giới đi tu gọi là bít-sư-ni.

Khi các từ này nhập vào nước ta, chỉ còn giữ các âm tiết cuối: và ni. Sau đó ta thêm cách gọi khác: sư ông, ni cô


(Trần Văn Giáp).


Nhất Linh và Văn Hóa Ngày Nay 


Năm 1958, Nhất Linh chủ trương Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay số đầu ra mắt vào ngày 17-6-1958. Văn Hóa Ngày Nay (VHNN) không được chính phủ đương thời coi là một tờ báo. Nó chỉ được gọi tên là một Giai Phẩm. Theo dịch giả Trương Bảo Sơn thì  vì  chính quyền lo ngại tên tuổi của Nhất Linh nên VHNN không được phép xuất bản như một tạp chí được phát hành có định kỳ. Ngoài ra, theo ông thì  tờ báo còn bị Cơ quan kiểm duyệt Bộ Thông Tin cố tình giữ lâu mới trả bản thảo để mang in, gây tình trạng báo ra chậm trễ nên không thể có hạn kỳ nhất định cho ngày ra báo.

 

Trong bài “Văn Hóa Ngày Nay với Văn Hóa Việt Nam” mở đầu cho số ra mắt, coi như một “tuyên ngôn về văn hóa”, nhà văn Nhất Linh nhận định: 

“Văn Nghệ Việt Nam hơn mười năm nay vẫn ở trong tình trạng ngưng đọng, chưa tìm được lối đi. Một số lớn bình luận gia và văn nghệ sĩ cho rằng văn nghệ chậm tiến vì không biết phụng sự thời đại; họ cố bắt mạch cho được  ý thức công cộng của nhất thời để khơi xúc động trong lòng độc giả. Thế rồi nhiều tác phẩm ra đời để ướm thử, thăm dò dư luận nhưng chỉ ít lâu sau đều chìm trong lãng quên !” (VHNN tập I- trang 17)


Với tình trạng bế tắc này, VHNN đề ra chủ trương: “Không đề cập đến vấn đề chính trị, kinh tế, khoa học: tập san của chúng tôi sẽ nặng về phần tìm sống hơn về phần tìm hiểu”(VHNN tập I)

Hẳn cũng đã có nhiều độc giả thấy khó nắm vững được ý tưởng của tòa soạn trong chủ trương này, vì hiểu như thế nào là tìm sống? Và tại sao lại gắn chuyện tìm sống với chuyện tìm hiểu để có chủ trương tìm sống sẽ đặt nặng hơn tìm hiểu. 


Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ thì ý nghĩa của hai chữ “tìm sống” hình như đã được giải thích thêm trong đoạn dưới của bài nhận định:

“Về tư tưởng, chúng tôi sẽ giải quyết những thắc mắc thời đại và cố đi đến một nhận định đúng đắn về vũ trụ, về đời người; đã đến lúc loài người phải giở sổ soát lại vốn tư tưởng quá khứ để định hướng đi tương lai, tìm chân lý làm kim chỉ nam cho người đời giữa biển khơi sóng gió”  (VHNN -Tập I-trang 19)

 

Đoạn văn này cho người đọc cái cảm tưởng như đấy là một chủ trương của một tổ chức tôn giáo hơn là đường lối chỉ đạo cho nội dung của một tờ báo. Nhưng ở nhiều trang  khác, nhà văn Nhất Linh lại đã luôn luôn nhấn mạnh đến quan điểm nghệ thuật của Văn Hóa Ngày Nay là: “Văn chương phải có giá trị vượt thời gian và không gian”.


(Nhật Tiến)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ


Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng nấu chung một nồi


Gặp gỡ nhà văn miền Bắc


Vị trí ngồi của tôi ở đầu bàn cho thấy hậu ý của chủ nhà muốn tôi là người nói chuyện và có lẽ là người duy nhất phát biểu trong buổi kỷ niệm này với đề tài được mọi người trông chờ là nói về ông cụ. Tôi biết nói gì đây, ở một nơi mà chỉ nội nhắc đến cái tên ông cụ không thôi đã là một điều rất cấm kỵ?. Tôi nói vắn tắt vì biết rằng hầu hết những người trong phòng này là những học giả uyên bác, họ đã nghiên cứu tác giả Nhất Linh. 


Còn về con người thứ hai của ông cụ, con người chính trị và cách mạng Nguyễn Tường Tam, thì đây mới thực sự là “điểm nóng.” Nhưng nơi này lại không phải là một chỗ thích hợp để nói tới và luận bàn. Tôi với tay lấy cuốn hồi ký của tôi trên bàn và đọc nguyên một đoạn dài trong bài “Nói chuyện với Huy Cận”  


Bài viết đó tôi tường thuật buổi gặp gỡ giữa anh em chúng tôi với Huy Cận vào mùa hạ năm 2001, bốn năm trước khi thi sĩ qua đời. Trong buổi nói chuyện ấy chúng tôi đã có một lúc tranh luận khá gay gắt khi Huy Cận bắt đầu nói về chính trị, đặc biệt khi ông tự dành quyền “phán xét” hành động chính trị của bố tôi, điều mà bố tôi không muốn: Bố tôi tự chết chỉ quyết là không để ai được quyền phán xét ông, ngoài “lịch sử.”

Buổi nói chuyện trong đó tôi là người duy nhất lên tiếng chấm dứt trong im lặng. Không một tiếng nói thứ hai, không một lời bình luận. Sự yên lặng bao trùm khiến tôi liên tưởng đến thái độ của những người trí thức trong nước mà tôi đã có dịp tiếp xúc: họ nhã nhặn, lịch sự nhưng dè dặt. Sau đó chủ nhà đứng lên chuyển lại lời mời của tôi với tất cả mọi người hiện diện đến dự buổi cơm trưa tại một nhà hàng do anh ấy lựa chọn. Rồi anh chuyển quanh bàn cuốn Từ Điển Văn Học để tất cả cùng ký tên trên trang sách anh đã viết sẵn lời đề tặng chúng tôi.


Sau khi chụp hình lưu niệm mọi người lần lượt bước xuống cầu thang. Anh Huệ Chi bảo tôi:
– Anh cứ ở trên này một lát để tôi xuống trước thu xếp xe.
Tôi hỏi anh:
– Anh đã chọn được quán ăn nào chưa?
– Rồi. Quán Ngon.
Tôi hỏi lại:
– Quán gì?
– Quán Ngon.
– Chà, cái tên lạ nhỉ... 

Anh mỉm cười bước xuống cầu thang.


Tôi ngồi xuống ghế lật trang đầu cuốn Từ Điển.  Bên dưới chữ ký của anh Nguyễn Huệ Chi có thêm chữ ký của các vị sau đây: Phan Đình Diệu, Trần Văn Thủy, Phạm Ngọc Lan, Đặng Thị Hảo, Nguyễn Bá Dũng, Phạm Thu Hương, Trương Hồng Quang, Nguyễn Đức Mậu. Phía dưới nữa là một hàng chữ lớn viết tay và chữ ký của người viết:
Với cả tấm lòng quý trọng đại văn hào Nhất Linh.
Hoàng Ngọc Hiến. (*)


(Một trăm ngọn nến – Nguyễn Tường Thiết)


(*) Nhà văn, nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến sinh ngày 21-7-1930 tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông làm nghề dạy học từ năm 1949, làm luận văn tiến sĩ văn chương tại Liên Xô, về nước giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm Vinh, và là hiệu trưởng đầu tiên của trường Viết văn Nguyễn Du, ông tham gia công tác giảng dậy ở đây cho đến khi về hưu. Ông cũng là thầy của nhà văn tên tuổi của Việt Nam như Bảo Ninh, Hữu Thỉnh, Y Ban, v…v..


Các tác phẩm văn học chính của ông gồm: Triết lý văn học và triết luận văn chương. Những năm gần đây, ông nổi tiếng với một số công trình nghiên cứu về minh triết Đông-Tây. Ngoài những cống hiến đặc biệt cho văn học, đặc biệt ở phương diện phê bình văn học, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến còn là một nhà triết học…


Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca


- Mi nhỏ như sợi chỉ mành
Tình trong chưa thắm, ngoại tình đã giao

Tướng mặt


5 - Khuôn Mặt chữ Do (由) :


Khuôn mặt chữ Do có phần ở trên nhỏ, phần dưới lớn. Mặt phần dưới hàm bạnh, phần đầu trán lại hẹp. 20 năm đầu của cuộc đời, người này thường chịu cảnh cô đơn, khổ sở, di sản tổ tiên để lại không có gì hoặc có cũng không dáng kể, tự lực cánh sinh, trên 30 tuổi mới có sự nghiệp.


Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca


Những người béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày
Những người mặt nạc đóm dầy
Mo nang trôi sấp, biết ngày nào khôn.

Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả


“trản: đĩa trản lòng. → không viết: trảng”. (Nguyễn Văn Khang)

 

Viết “trảng” mới đúng, vì “trảng lòng” có nghĩa là “cạn lòng”. “Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức): “trảng lòng, trẹt, cạn lòng, có cái đáy cạn: Dĩa (đĩa) trảng lòng.


(Hòang Tuấn Công)


Bạn tôi, Trần Đông Phong


Trần Đông Phong mê trà, cà phê, thuốc lá điếu dài Pall Mall. Thời ở Huế, chúng tôi hay ra ngồi ở Lạc Sơn. Vào Sài Gòn thì trụ ở Thái Chi và Givral. Tôi và bạn sáng chiều cà phê, phở, thuốc lá, đêm về ôm nhau nằm ngủ chèo queo trên bộ ván. Trần Đông Phong và tôi là bạn đồng song, đồng nghiệp, ngoài ra còn là bạn đồng khóa. Khóa 16 Thủ Đức năm 1963.   

Tháng Tư 1975, đang lúc hoang mang hoảng loạn, Trần Đông Phong lấy xe Honda chạy xuống đường Tự Do, rồi ra Bến Bạch Đằng, thấy có một chiếc tàu đầy người bèn xuống theo. Thế là đi ra đảo. Sang Mỹ, tôi biết bạn đang nghiên cứu lịch sử cận đại, nhưng không nghe nói chuyện viết và xuất bản sách. Năm 2006, Trần Đông Phong tổ chức cho thầy ra mắt sách ở gần đó. 

Cuốn Việt Nam Cộng Hòa: 10 Ngày Cuối Cùng.


(Nguyễn Xuân Thiệp)


Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả


“trói: trăng trói (=trăng trối)”. (Gs Nguyễn Văn Khang) 


Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức): “trăng. Gông làm bằng hai tấm ván có khoét lỗ tròn để tròng vào cổ hay vào chân người có tội: đóng trăng, mang trăng, ních trăng”; “trói là buộc, cột: Buộc trói, cột trói, trăng-trói; Trói voi bỏ rọ (tng)”; “trăng trói động từ đóng trăng hoặc trói lại.


(Hòang Tuấn Công)


Còn một chút gì để nhớ


Một buổi trưa năm 1973 trong căn phòng bề bộn ở đường Nguyễn Trãi, trong thành Ô Ma, tôi đang dọn dẹp thì có một người đi thẳng vào, dáng thấp, đậm, trán cao, cười rạng rỡ :

- Mày là Phạm Thanh Chương ? Tao Vũ hữu Định, có cơm không? Rồi ngồi xuống sàn nhà, cởi áo, ăn cơm tự nhiên :

- Mày có biết Hạc Thành Hoa nói “ làm người mà được ăn cơm thì có hạnh phúc gì bằng” chứ.


Buổi chiều tôi giao căn phòng cho Vũ Hữu Định, anh tắm giặt, viết rồi nằm lăn ra ngủ. Chiều tối trở về tôi không thấy Vũ Hữu Định đâu cả, anh đến rồi đi bất chợt như một cơn mưa giông ở Saigon.

Bẵng đi hơn tuần lễ, một buổi sáng Vũ hữu Định đến tìm tôi :

- Sáng nay mày làm gì ? Gần đây có cái quán nào không?

- Chi vậy ?

- Đi uống với tao chai bia.

- Sao hôm nay chơi“ sộp” vậy ?

- Tao vừa ghé Văn nhận nhuận bút bài thơ Hạc Thành Hoa.


Tôi với Vũ Hữu Định vào cái quán nhỏ trong khuôn viên thành Ô Ma, Vũ Hữu Định nói mỗi đứa uống một chai thôi, nhưng cứ vừa uống hết anh lại kêu thêm chai nữa…và cứ như vậy cho đến lúc nhuận bút bài thơ của Hạc Hành Hoa bay theo những chiếc vỏ chai nằm lổn ngổn dưới góc bàn anh mới chịu ra về

Chiều khó thở ta ngồi bên quán xép

Một miếng khô một xị rượu nồng

Nhai là nói với đời lận đận

Uống là nghe sầu cháy  long đong


Vũ Hữu Định mất năm 1981, 15 năm sau, năm 1996 Trần Từ Duy đứng ra quyên góp anh em trong giới văn nghệ, tập hợp bản thảo để in cuốn: Còn một chút gì để nhớ như một nén nhang tưởng nhớ anh. Sự đóng góp khiêm tốn của đông đủ bạn bè đó cũng là cách biểu hiện sự trân trọng và quí mến của tình bằng hữu những người đã một thời cùng sống hay quen biết Vũ Hữu Định.


(Phạm Thành Chương)


Chân dung Văn học Nghệ thuật & Văn hóa 


Sau cột mốc cuộc triển lãm quốc tế lần thứ nhất năm 1962 là cột mốc thứ hai, sự thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ năm 1966 với sự tham gia của hầu hết các họa sĩ tài danh lúc đó như Nguyễn Trung, Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường, Ngy Cao Nguyên, Hồ Hữu Thủ, Rừng, Đỗ Quang Em, Hồ Thành Đức, v…v…

 

Âm vang của Hội Họa Sĩ Trẻ cho đến tận ngày nay vẫn còn, chứng tỏ tầm ảnh hưởng của nó là không nhỏ. Điểm khác đáng lưu ý là, song hành với những nỗ lực cách tân với ảnh hưởng Tây phương rõ rệt, hội họa mang tính mĩ cảm truyền thống vẫn không ngừng chảy với các họa phẩm giá trị của các họa sĩ như Tú Duyên, Và đặc biệt Nguyễn Gia Trí, người được xem là tiên phong trong lĩnh vực làm mới sơn mài, chinh phục giới thưởng ngoạn bằng một cảm xúc sâu lắng, hòa phối từ hai trường phái Phục hưng và Hiện đại; hay tranh lụa Lê Văn Đệ với đường lối đặc trưng tỏa sáng hương sắc bình dị, nhẹ nhàng, sâu lắng.


Xem thế, sự lớn mạnh của nền hội họa miền Nam trong giai đoạn 54-75, như nhà văn Ngô Thế Vinh trình bày trong cuốn sách của mình và như họa sĩ Trịnh Cung xác nhận, là sự phát triển theo quy luật tự nhiên nhờ vào những điều kiện tạo thuận từ bình diện học thuật, tư tưởng cho đến chính trị. Song hành với văn học, có thể xem đó là thời đại hoàng kim của hội họa Việt Nam mà trước đó hay sau này đều không thấy.


(Trịnh Y Thư)

 

Tchya Đái Đức Tuấn


Đái Đức Tuấn quê Thanh hóa, tôi mới gặp ở nhà Đỗ-Văn mà anh gọi bằng cậu, đã có cảm tình ngay, vì cùng trang lứa tuổi đôi mươi ngây thơ mơ mộng. Anh đỗ tú tài, làm tham tá nha Học chính, hay vẽ và làm thơ ngay trên bàn giấy công chức. Nét vẽ nghệch ngoạc kiểu tây đoan Rousseau nhưng ngụ ý hài hước hơn, anh minh họa một vài câu Kiều, như câu "trải qua mặt cuộc bể dâu" vẽ theo cái nghĩa "chải" và "râư": một người đứng trong bể nước cầm bàn chải chòm râu lê thê! Thơ anh có những câu:

Thì giờ vỗ cánh bay như quạ

Bay hết đường xuân kiếm chỗ ngồi

Rượu đến gà kêu cô cuốn chiếu

Quay về, còn lại mảnh tình tôi...


Đã đành anh nhớ lại Edgar Poe, nhưng tôi thích thú những "quạ ngồi" và "gà kêu" lạ tai cũng như nét vẽ lạ mắt. Có lần tôi đến nha Học chính, thấy anh cúi trên bàn giấy, cổ quấn khăn choàng trắng, cho một "nghệ sĩ dao kéo" sửa mái tóc bồng bềnh. Tôi tưởng lúc ấy viên chủ sự Pháp ở phòng bên đi vắng, té ra không: lát sau thấy y nhẹ gót sang phòng này, nhìn tôi tủm tỉm trỏ ngón tay vào thái dương, có ý bảo "Tuấn hơi tàng tàng(cinglé).


Lần khác, cũng trong phòng này, tôi gặp Tuấn cùng anh đánh cờ tướng theo những đường kẻ lệch lạc trên giấy báo. Viên chủ sự Pháp đi qua, thản nhiên như không thấy gì. Thực ra, họ không muốn để ý đến, vì nể Tuấn ở phương diện khác: phương diện hồ sơ. Hồ sơ của nha chồng chất như núi, nhưng Tuấn xếp đặt thật ngăn nắp, theo cái ngăn nắp riêng của mình: khi cần hồ sơ nào, nếu cứ theo thứ tư abc hay 1,2,3 thì chẳng ai tìm ra nổi, mà hỏi đến Tuấn, anh chỉ quơ tay là thấy liền! 

Tài đặc biệt ấy cho phép anh tha hồ phóng túng.


(Lãng Nhân Phùng Tất Đắc - Nhớ nơi kỳ ngộ)


Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả


“tràng: tràng dịch. → không viết tràn”. (Gs Nguyễn Văn Khang)


Không hiểu “tràng dịch” đây có nghĩa là gì. Nếu “tràng dịch” với nghĩa một chứng bệnh, thì phải viết “tràn dịch” mới đúng…


(Hòang Tuấn Công)


Trần Vàng Sao: nhà thơ mê vẽ


Tháng 4-1990, Sông Hương 42 đăng 3 bài thơ của mình là Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa, Những điều có khi hôm nay bỏ qua không nhớ, Lúc đó thế này em ơi. Ối chao ôi! Mấy sáng tác nớ bị quan chức cùng báo in, đài phát thanh và truyền hình ở địa phương xỉ vả thậm tệ, có kẻ dám lăng nhục mình là chó!


(Thích Ca niêm hoa. Tranh bột màu: Trần Vàng Sao)


(Phanxipăng)


Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả


“quốc: trứng quốc”. (Gs Nguyễn Văn Khang)


Chỉ có một dạng chính tả duy nhất: “trứng cuốc(chuối trứng cuốc – chuối tiêu mùa đông khi chín vỏ chuyển sang màu vàng sẫm và lốm đốm như trứng chim cuốc.

Sở dĩ phải viết “cuốc” là để phân biệt với “quốc” 國 - yếu tố gốc Hán - nghĩa là “nước”, trong các cấu tạo từ: tổ quốc 祖國


(Hòang Tuấn Công)


Trần Vàng Sao: nhà thơ mê vẽ


Vẽ tranh thì anh lại ký Nguyễn ĐínhTrong nghệ thuật tạo hình, đề tài nào khiến anh cảm thấy thú vị nhất?

- Tranh, có những bức mình chép, có những bức mình sáng tạo ít nhiều. 10 bức tranh chăn trâu do mình chép lại Thập mục ngưu đồ từ sách Thiền. Bồ Đề Đạt Ma


(Bồ đề Đạt Ma

Tranh: Nguyễn Đính tức Trần Vàng Sao)


 Và bài tới, thoạt tiên mình chép, dần dà mình bóc tách một số hoạ tiết rồi bố cục theo ý riêng. Cuối mỗi năm âm lịch, mình vẽ con vật chuẩn bị cầm tinh năm mới để treo chơi Tết. Năm trước, Mậu Tý 2008, con chuột. Năm ngoái, Kỷ Sửu 2009, con trâu. Năm ni, Canh Dần 2010, con cọp. Năm tới, Tân Mão 2011, con mèo. Bìa và một số trang ruột sách Tuyển tập truyện cười của Hoàng Thiếu Phủ (NXB Trẻ, 1995) sử dụng tranh mình vẽ lại bộ bài tới. Với bản thân mình, thích nhất vẫn là vẽ sư tổ Đạt Ma. 


(Phanxipăng)


Một phần tuổi thơ...


Thời đó con nít nhà nghèo, sống ở vùng ven đô làm gì có chậu kiếng để nuôi cá, chỉ nuôi bằng hủ chao đủ loại, đủ cỡ. Mà hủ chao chắc làm bằng thuỷ tinh dỏm hay sao mà bọt không, màu lại không trong, đôi khi có màu xanh ve nhạt nên nhìn con cá không được nỗi trội về màu sắc cho lắm. Thỉnh thoảng xin hoặc lượm được hủ đựng xúc xích của Mỹ thì mừng lắm quý như nhặt được vàng, vì hủ thuỷ tinh của Mỹ dầy mà lại trong veo, rộng nuôi cá lia thia đã lắm. 


Cá nuôi nhiều hủ, để liền kề sát nhau, giữa các hủ lấy một tờ giấy tập ngăn lại cho tụi nó không nhìn thấy nhau. Chớ nếu mà nhìn thấy, thì nó sẽ đá bóng đến rách đuôi, toách mỏ chớ không đơn giản. Cá lia thia nuôi bằng rong vớt ở những hồ có nước mưa ứ đọn . Khi nào có tiền để dành thì cả đám lội bộ đi qua Phú Lâm, qua Xóm Giá để mua cá lia thia xịn về chơi. Cá xịn là cá phùng 2 mang ra khá to, Cá màu xanh dương đều, không có một tí đỏ xen kẻ, đám nhỏ tụi tôi gọi là cá Xiêm.(chữ Xiêm nầy hình như có liên quan đến mãng cầu xiêm , chuối xiêm và dừa xiêm), Xiêm là tên gọi nước Thái thời nhà Nguyễn .

Khi nào muốn đá, thì vớt hai con sang hủ to. Hoặc tô, tộ ăn cơm hay thau nhôm loại vừa cho tụi nó đá. Nhiều con nhát mới đá là bỏ chạy. Nhiều con lì lợm đá mình mẫy trầy trụa đuôi rách tả tơi nhưng quyết tâm không chạy.


(Trần Ngọc Hiếu)


Cái ly


Ly : để uống bằng thủy tinh, pha lê, người Quảng Đông gọi là Pò Púi (tức Pha Lê Bôi), ta nuốt hết, chỉ chừa lại và đọc là…ly.


Tức cái ly.


Chữ nghĩa làng văn


Nhớ về nhà văn Cao Xuân Huy - 2


Tôi không khỏi ngạc nhiên. Với tôi không ai là Việt kiều hết, người Việt là người Việt, nhưng, dù không có ý phân biệt, mà ai vừa " ở bển " về thoáng nhìn tôi biết. 

Còn ông này thì đã tự giới thiệu mình là như thế tôi lại chẳng thấy ra là thế. Không như tôi song cũng là như tôi thôi. Như thiên hạ. Trang phục, đầu tóc, giọng nói, cách nói. Cố nhiên, có một cái gì đó, nhưng là cái gì ?  Thư của Khánh Trường chỉ mấy dòng, hỏi han sự viết lách và mời dịp nào qua Mỹ thì tới chơi Hợp Lưu


Chót thư anh viết: ông đưa Huy dạo  phố Hà Nội,  như hồi nào  tôi với ông. 

Huy viết Tháng Ba Gãy SúngÔng đọc chưa ?


(Bảo Ninh)


Gặp gỡ người viết trẻ “ngụ cư” ở hải ngọai - 1


Ba mươi tuổi tôi đọc, cũng vẫn thấy nhàn nhạt buồn buồn. Bây giờ đọc Nguyễn Đình Toàn mấy ngàn trang, mấy mươi ngàn chữ, tôi hốt hoảng nhận ra NĐT viết để không nói cái điều mà Thanh Tâm Tuyền vẫn gầm gừ: sống. Nguyễn Đình Toàn đã sống mỗi một phút bằng cả một đời, sống không biết bao nhiêu kiếp rồi trong mỗi trang viết về một phút. Hiện sinh, Thanh Tâm Tuyền và Nguyễn Đình Toàn như nước với lửa như âm bản và dương bản của bức hình sự sống. Nguyễn Đình Toàn không dạy, nhưng tôi vỡ ra thế nào là Một Phút Một Đời. Tác giả ấy đã viết, người nào đó đã dịch, đã đem nó đến với văn học, với tôi, với chúng ta, và tôi đã lớn lên như cỏ cây hoang dại trong rối ren chữ nghĩa ấy, mang một nỗi băn khoăn thắc mắc 30 năm dài. Văn học, không phải nhiệm vụ của nó là đánh thức lương tri trí thức cảm xúc sâu thẳm của mỗi con người? Văn học, không phải chính nó cầy xới gieo mầm cho hiểu biết cảm xúc của mình lớn mạnh để tìm chính mình, thấy mình thấy người và thấy được tha nhân?


Thấy tha nhân

Thấy mình, thấy bậc đàn anh, thấy người, tôi cũng thấy ra tha nhân. Tha nhân của tôi là người miền Nam. Nhưng chính là nhờ những học giả nhà văn của miền Nam cũ, những người đã mang công sức dịch những truyện nhàn nhạt buồn buồn, dịch những tác phẩm văn học đưa những ý niệm văn triết của phương Tây đến giới thiệu với xã hội miền Nam, sáng tác những tác phẩm văn chương nhiều màu sắc dạng hình đánh thức lòng yêu thương cuộc sống, mà miền Nam đã có những thành quả văn hóa, những sinh hoạt văn hóa nhiều sắc màu.


(Văn học miền Nam, điều sót lại – Lưu Na)


Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả


“trọc: tròng trọc. → không viết: chọc”. (Gs Nguyễn Văn Khang)


Viết chuẩn là “chòng chọc”.  Từ gợi tả vẻ nhìn thẳng và lâu vào một chỗ mắt không chớp, biểu lộ sự ham muốn hoặc tò mò.


(Hòang Tuấn Công)


Gặp gỡ người viết trẻ “ngụ cư” ở hải ngọai - 2


Tôi biết thích những vần thơ Giang Nam những năm đầu ở với cộng sản. Bài thơ ấy thì chỉ giản dị thôi, thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường, yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ, nhưng nó nói với tôi người miền Bắc cũng là người, cũng yêu quê hương như mình, và nhất là, họ cũng đau khổ như mình:

Từ độ xa nhau thư không bao giờ gửi nữa

Anh vui đời sương gió

Nhọc nhằn gian khổ đã mười năm

Khăn em trao từ độ lên đường

Trải bao dãi nắng dầm sương vẫn còn


Tác giả là ai tôi không còn nhớ, nhưng tuổi mười sáu đơn sơ dẫu oán hận người cộng sản tôi vẫn thấy cảm xúc dâng đầy với bài thơ mộc mạc ấy. Máu ai không đỏ, lòng ai không mềm. Đáng ra Nam và Bắc đã có thể lại gần nhau hơn, vì rõ ràng có con đường nào có nhịp cầu nào nối được lòng người với nhau hơn nhịp cầu văn học? Đáng ra văn học Việt Nam đã có thể có nhiều những sinh hoạt văn học gắn kết người trong ngoài xưa nay với nhau hơn, có nhiều những thành quả đồng bộ hơn là những giải văn chương cá nhân và cá biệt. Tôi nghĩ rằng chúng ta không có được một sinh hoạt văn học như phải có: người sáng tác sáng tác cho mình nhưng phải với tới tha nhân làm giàu tha nhân, người làm công việc biên soạn khảo cứu làm vì lẽ thật vì điều hay để xã hội được cùng tiến, và chúng ta đến với nhau để chấp nhận nhau để cùng nhau hướng về một điều gì cao cả hơn chúng ta bây giờ, đẹp đẽ hơn những gì đang có bây giờ.


(Văn học miền Nam, điều sót lại – Lưu Na)


Tình dục trong làng văn xóm chữ


Những ràng buộc bởi truyền thống, bởi thị hiếu độc giả


Được viết trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX, Hà Hương phong nguyệt vẫn chưa vượt thoát được tính chất biền ngẫu của văn xuôi thời đó, vẫn là một lối văn xuôi có đối có vần rất du dương, thỉnh thoảng lại xen các bài thơ vào. Thí dụ cái thư như sau: 

“Kính thăm anh đôi chữ bình an, Xin quân tử nghe em phiền trách. Kể từ thuở vợ chồng xa cách, Em lần tay tính đã mấy trăng, Vì cớ chi bặt tích vắng tăm?Lời trái phải cũng không tính tới. Anh dầu có nơi nào bạn mới, Cũng cho em rõ nỗi sự tình, Làm chi em vắng vẻ một mình, Tức tối bấy đau lòng tha thiết; Nhớ bạn ngọc đoạn sầu chi xiết, Thương thầm anh tấc dạ ủ ê, Chắc mẹ cha dạy dỗ thú thê, Nên anh biệt bấy lâu không tưởng tới… Em dẫu nhớ biết làm sao được! Dẫu mấy năm cũng phải đợi trông. Em xa anh như bướm xa bông. Chàng xa thiếp như ong lạc nhuỵ. Ngày nghĩ tới dòng châu hột luỵ. Đêm đêm nằm nước mắt rưng rưng”.


Có một điều rất lạ là so với phần một có ngôn ngữ khá hiện đại, gần gũi với đời thường, phần hai của tác phẩm lại mang tính chất đăng đối đậm đặc hơn. Cách hành văn rất khác phần đầu này là lý do khiến Trần Văn Toàn cho rằng đây là một văn bản khác, của một nhà văn khác]. Theo chúng tôi, điều này có thể Lê Hoằng Mưu đã chiều theo thị hiếu của độc giả miền Nam Bộ lúc đó vốn rất ưa thích lời văn có đối có vần tự nhiên lưu loát như thế.

Hà Hương phong nguyệt ra đời vào thập niên thứ hai của thế kỷ XX, vì thế vẫn còn mang một số hạn chế của thời đại. Nhưng với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý khá đặc sắc, tác phẩm đầu tay này của Lê Hoằng Mưu xứng đáng là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của miền Nam như Bình Nguyên Lộc và Bằng Giang đã khẳng định. Nó đánh dấu một bước phát triển của tiểu thuyết miền Nam nói riêng và của tiểu thuyết hiện đại nói chung, một bước phát triển rất đáng ghi nhận và trân trọng.

(Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học – Võ Văn Nhơn)


Một số từ hay bị dùng sai trong tiếng Việt


Huyền thoai 感覺: Tôi (khuyết danh) rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pelé”. 

Nghe thực chướng tai. Tại sao nghe chướng tai? Vì huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực

Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra.

Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Pélé có thât 100% sao gọi là huyền. Và là con người sao gọi là thoại được. 


(khuyết danh)


Tống quân Nam-phố


Vùng Nam-hạ (Nam Định), hồi xưa có một ông buôn đồ cổ, sưu tầm được nhiều bộ ấm chén rất quý. Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên, song học đã sôi kinh nhưng chửa chín ... May gặp lúc Cognac tuy chỉ là giám đốc y tế nhưng có quyền to lại sành đồ cổ, ông mượn người đánh tiếng, rồi khi cái bát Khang Hy, khi đôi bình Ung Chính, chẳng bao lâu ông được vào chốn quyền môn. Ông được ân sủng đến nỗi một ngày kia có nghị định bổ đi tri huyệ miền trung dụ. Tuy ông đã được đi làm quan, nhưng vì không đổ đạt gì, nên đám sĩ phu có người gọi mỉa ông là "huyện chén", do đó thành tên gọi thường ngày. Làm quan được vài năm, ông bị chứng sốt rét ngã nước mà bỏ mình. Khi đưa linh cửu về an táng ở thành Nam, một ông bạn nhà nho viếng bốn chữ : Tống quân Nam-phố (tiễn đưa ông ở Nam-phố)

Ai đọc cũng phải chịu là hay, vì lấy chữ sẵn trong Sở-từ nói lên được lòng tha thiết tiễn bạn, lại màu được chữ Nam-phố với thành Nam. Mãi sau mới có người vạch ra cái ẩn ý của người viếng. Bốn chữ này không hàm một ý gì tiễn đưa mến tiếc, chỉ là móc cái chỗ xuất thân của ông huyện : thì trong bộ đồ chè nào chẳng có một chén tống và bốn chén quân, mà ông huyện nhà ta vốn lại có tên huyện chén ở khắp phố thành Nam.

(Chơi chữ - Lãng Nhân Phùng Tất Đắc)


Khoa trương trong ca dao của người Việt


Khoa trương thu nhỏ

Là cố ý đem số lượng, đặc trưng, tác dụng, mức độ của sự vật làm cho nhỏ đi, ít đi, chậm lại, thấp đi, ngắn lại, yếu đi.  Ví dụ:

Làm trai cho đáng nên trai

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng


Quan niệm của người xưa, đã là nam nhi thì phải bản lĩnh, có tài năng, xông pha, vượt khó, làm nên sự nghiệp khiến mọi người phải khâm phục và yêu mến. Ở đây, tác giả dân gian cố tình nói ngược thu nhỏ đối tượng để châm biếm những kẻ vô dụng. 

Hoặc bài miêu tả một đám cưới :

Cưới em có cánh con gà

Có dăm sợi bún có vài hạt xôi.

Cưới em còn nữa, anh ơi

Có một đĩa đậu, hai môi rau cần


(Nguyễn Ngọc Kiên)


Để nhớ lại một thời


Xe thổ mộ tại Sài Gòn xưa


Xe thổ mộ được trưng bày trang trọng trong Bảo tàng Bình Dương. tên gọi xe thổ mộ và xuất xứ của xe còn nhiều nguồn khác nhau như tên gọi xe thổ mộ tại vì cái mui khum khum của nó giống ngôi mộ, vì xe ban đầu được dùng để chở quan tài ra mộ để chôn. Hoặc thổ mộ là tên gọi trại từ xe thảo mã của T`u, hay thổ mộ là cách gọi tắt nói nhanh của địa danh Thủ Dầu Một. Cũng như xuất xứ của chiếc xe thổ mộ đầu tiên ở miền Nam có người cho là ở Sài Gòn nhưng cũng có ý kiến cho rằng xe thổ mộ có ở Bình Dương trước tiên.

 

Nhưng gọi xứ Bình Dương là xứ của xe thổ mộ thì không ai tranh cãi, chẳng vậy mà trong vè 47 chợ, đặc trưng này đã được khẳng định: “Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang; Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một; Chẳng lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu". 

Những thập niên 40, 50 là giai đoạn phát triển mạnh của xe thổ mộ, tại chợ Thủ Dầu Một có đến 3 bến xe thổ mộ nhộn nhịp mà lúc tập trung đông nhất cũng trên 50 chiếc. Không chỉ vậy Thủ Dầu Một còn có nhiều trại đóng xe thổ mộ có tiếng với thùng xe đẹp, trang nhã, bánh xe bền chắc.

 

Xe sản xuất tại Thủ Dầu Một còn được gọi là “xe thùng Thủ" để phân biệt với các nơi sản xuất khác và cũng để khẳng định đẳng cấp của mình. Những ngày tháng đó trên khắp nẻo đường dẫn ra chợ vào mỗi sáng tinh sương, tiếng lốc cốc, lốc cốc đều đều của vó ngựa; tiếng lục lạc ngựa vang leng keng, leng keng; tiếng hô họ,họ" điều khiển ngựa của người xà ích là những âm thanh cuộc sống trong hồi tưởng của nhiều cụ già đất Thủ Dầu.


(Khuyết danh)


Thành ngữ xuất xứ từ thơ cổ và điển cố


Chuồn chuồn đạp nước


Ông Đỗ Phủ (杜甫) là người làm thơ nổi tiếng đời Đường. Hầu hết mọi đều biết tới ông qua câu thơ nổi tiếng “人生七十古來稀” [Nhân sinh thất thập cổ lai hi] (Người thọ bảy mươi  xưa nay hiếm) trong bài “Khúc giang” (曲江) có câu thơ qua  của Khương Hữu Dụng:
Áo chầu tan buổi cởi cầm tay,
Hằng bữa đầu sông về khướt say.
Nợ rượu tầm thường đâu chẳng có,
Người đời bảy chục mấy xưa nay.
Luồn hoa bươm bướm chen chen lượn,
Điểm nước chuồn chuồn thoáng thoáng bay.
Quang cảnh, nhắn cho thường biến đổi,
Tạm vui xuân với, kẻo e hoài.


Bài thơ này là xuất xứ của thành ngữ tiếng Hán “蜻蜓點水” (chuồn chuồn đạp nước), nghĩa bóng: làm ăn hời hợt,  chiếu lệ.

(Nguyễn Ngọc Kiên)


Văn hóa…cây cỏ


Cây hoa sữa


Những loài hoa. Vốn dĩ con giống nhà dòng. Mang định mệnh từ khi mở mắt chào đời là phải tỏa hương. Không ngán ngại tung lên trời những làn hương chân thực đến vụng dại…


Chỉ còn là những gốc cây. Và rễ cây sẽ được đào bật hết. Thị xã Hội An sẽ trồng thay vào đó loài cây khác. Những loài cây đó, đương nhiên, sẽ được tính toán làm sao để đừng quá thơm. Đừng quá nồng nàn. Nồng nàn chân thực quá nhiều khi cũng là một tội vậy. Rồi mai này chẳng ai nhớ đến nơi đây đã từng là những con phố hoa sữa hết mình dâng tặng những mùa hoa đầu tiên của đời mình. Cuộc sống như nước thuỷ triều, như con sóng mãi bồi vào bờ cát. Những con sóng mới liếm láp khỏa lấp những lâu đài dã tràng cũ. Có ai nhớ đến hồn hoa oan ức không?


Cho đến bây giờ, thường ngày, tôi vẫn tự hỏi: Có cách nào khác để đối xử với 162 cây hoa sữa kia không? Đã nghĩ kỹ chưa, khi ta mang búa rìu đến đốn hạ tất cả những thân cây vô tội? Vì đường phố không chỉ là đường phố. Vì cây là linh hồn của đường phố. Một đường phố không cây trông cũng tội nghiệp những con người cằn cỗi đã bị ai đánh cắp mất tâm hồn.


(Vô danh thị)


Thành ngữ tục ngữ…sai 


Phần liên hệ câu đồng nghĩa, gần nghĩa cũng rất nhiều sai lầm. 

Ví dụ: Mặt sứa, gan lim. Như câu: Mặt rắn như sành


Hai câu trên có thể được xếp vào trái nghĩa, lại được GS coi là đồng nghĩa. Câu “Mặt rắn như sành” nhận xét khuôn mặt lộ rõ bản chất của con người rắn mày, rắn mặt, ương bướng. 

Còn câu “Mặt sứa, gan lim” lại nói mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung. “Mặt sứa” (bề ngoài) thì tỏ vẻ hiền lành, trắng bợt, mềm nhũn như con sứa (một loài động vật không xương sống ở biển, thân mềm, trắng), bên trong (gan) lại đen và rắn như gỗ lim. 

Câu này thường hay dùng để nhận xét về những người bề ngoài có vẻ hiền lành nhu mì nhưng lại dám làm những chuyện tày đình. Trái với câu “Mặt sứa gan lim” là “Miệng hùm, gan sứa”.


(Hoàng Tuấn Công)


Nhất mắm còng Gò Công - 2


Bòn mót chữ nghĩa theo một nhà văn (?) :  “…Tôi chẳng biết bà Từ Dũ khi quy định món mắm tôm chà Gò Công thành món hàng năm phải đem về kinh đô. Chứ món ấy không thể vượt qua được món mắm còng Gò Công. Mắm còng có cái vị rất riêng của nó. Tôi mới chỉ biết đến món này nhân một người bạn dân xứ Gò Công mời ăn thử. Ăn mắm tôm chà rồi ăn mắm còng, mới thấy được mắm tôm chà có sắc nhưng thiếu hương. Còn mắm còng giống nữ hoàng Xiba (Cleopatre 69-30 B.C., queen of Egy 51-30?) xứ châu Phi, tuy nâu đen, nhưng hương lại rất thắm rất đượm (vị nữ hoàng này có thời làm ngẩn ngơ vua Salomon xứ Do Thái). Bạn hãy cuốn bánh tráng cá nục hấp chấm với mắm còng xem có hơn hẳn mắm tôm chà không!...”

(nguồn: Ngữ Yên)


Buồn môi ngứa miệng, tầm khảo tôi hỏi bạn ta lý sự gì lại kêu là con…ba khía.

Bạn ta là như điếc đặc mà rằng: Khìa là một loại thịt chiên ấy mà, được ướp với tỏi, muối, đường, nhưng cần nhất là phải có ngũ vị hương”.


Bèn hỏi tới nữa, bạn ta thêm mắm thêm muối:

“Đa số người Tàu không ăn mắm, ngoại trừ ở một số địa phương gần phương Nam ta. Tàu vùng Hải Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông cũng ăn…mắm chút chút”. Hỏi tới cu ti củ tỉ cớ gì….chút chút. Người Gò Công trả lời rất bác vật: dân Tàu hơn một tỉ người ăn mắm hàng ngày thì cua cá chết mất xác, không có…đất mà sống.


Lucky Luke rong ruổi miền Viễn Tây 


Lucky Luke: Bộ truyện cực hay về chàng cao bồi thiện xạ rong ruổi khắp miền Tây - Ảnh 2.


Ngoài ra, trong truyện còn có một nhân vật cũng được các fan yêu thích, đó chính là Rantanplan - Chú chó ngốc hơn chính cái bóng của mình. Đây cũng là một cây hài ăn tiền của truyện Lucky Luke. Rantanplan là một chú chó của trại giam, và được giao cho nhiệm vụ canh giữ anh em Dalton - phản diện chính của bộ truyện.


Lucky Luke: Bộ truyện cực hay về chàng cao bồi thiện xạ rong ruổi khắp miền Tây - Ảnh 3.


Bổi cảnh chính của Lucky Luke là miền Tây nước Mỹ cuối thế kỷ 19. Cũng có khi xuất hiện những cảnh ở bờ Đông và cả bên ngoài nước Mỹ như Canada và México. Giống như các bộ phim cao bồi, hình ảnh thường thấy trong Lucky Luke là những đồng cỏ, các thị trấn, quán rượu, các chuyến xe lửa... và nhà tù, nơi trú ngụ thường xuyên của anh em nhà Dalton.



(Sean Bảo)


Dài, ngắn


Trong một bài hát khác cũng phổ từ thơ Nguyên Sa:

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn

Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh


Hình ảnh tóc ngắn, mùa thu dài được đặt ở cạnh nhau

để ghi lại hình ảnh tương phản của tóc và mùa thu.

Vậy mà có ca sĩ hát thành “mà mùa thu dài ngắn ở chung quanh”


(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)


Chân dung và đối thoại : Lưu Trọng Lư

(phụ bản tiết mục Nhà thơ Trần Đăng Khoa lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ)


Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác:Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy. 

Nhận định này dường như đã thành nỗi ám ảnh, và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng choạng, cứ bập bõm bước trong cái vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện trên thi đàn, 

Về con người Lưu Trọng Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu ông hơn Hoài Thanh: Cả đời Lư cũng là một bài thơ, nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết. 

(Trần Đăng Khoa)


Tiểu sử : Trần Đăng Khoa sinh ngày 28.4.1958 tại Nam Sách, Hải Dương – Hiện đang ở Hà Nội.

Tác phẩm: Chân dung và đối thoại (ký: Bình luận văn chương) - Đảo chìm (truyện dài) - Thơ: Từ góc sân nhà em - Biển và em - Góc sân và khoảng trời – Bên cửa sổ máy bay


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ


Có thể bạn thừa biết: Nếu như bạn nghĩ não là bộ phận quan trọng nhất thì đấy không phải ý kiến của bạn, đó là não của bạn đang tự cho nó là nhất


60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954 - Vĩnh biệt Hải Phòng 


Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, chia cắt Việt Nam làm hai, miền Bắc do Việt Minh cai trị, miền Nam sau đó trở thành một quốc gia mới. Người dân hai miền có 300 ngày để chọn nơi mình muốn sinh sống. Quê tôi là một trong những vùng được Việt Minh tiếp thu sớm nhất vào cuối năm 1954. Cha tôi quyết định gửi vợ chồng anh Cả và đứa con gái đầu lòng mới được mấy tháng về nhà quê sống. Cùng đi với anh chị Cả là anh Sáu, tôi và thằng em Chín. Như nhiều chủ gia đình Việt xưa, cha tôi ít khi giải thích lý do ông có một quyết định nào đó, hoặc có thì ông cũng chỉ bàn với anh Cả, vì khi viết bài này tôi hỏi Chị Năm, người chị kế tôi, chị cũng nói không rõ tại sao cha tôi quyết định gửi một số con về quê ngay sau khi đình chiến. Tôi suy đoán là thứ nhất, anh Cả hồi ấy bị động viên, đã mặc đồ lính (tôi còn nhớ, mặc dù hồi ấy chỉ mới 9, 10 tuổi, đã trố mắt trước vẻ đẹp trai khác thường của ông anh trong bộ quân phục mầu rêu khít khao với thân hình và cái nón chào mào cùng mầu), có lẽ là đào ngũ về quê sống, có thể là do ý muốn của cha mẹ tôi vì lo cho cậu con cả. Ngoài ra, có thể cha tôi, cũng như đa số người Việt ở thành thị hồi ấy chưa biết gì về hậu quả của các cuộc cải cách ruộng đất đã và đang diễn ra ở các làng quê nhưng chưa về tới làng tôi, nên ông gửi một số con về quê để tiện thể trông nom ruộng đất chăng. 


Chúng tôi về quê sống được vài tháng vào cuối hè và đầu thu, thì một bữa chị Năm, hồi ấy mới 14 tuổi song tính nhanh nhẹn nên được cha tôi tin cậy giao phó việc đi đi về về đem tiền bạc và thông tin, được cha tôi gửi về bảo thu xếp về Hải Phòng để đi Nam. Để tránh nghi ngờ là có ý định đi Nam và có thể bị bao vây giữ lại, khi ra tới Hànội, lúc ấy cũng đã được tiếp thu, chúng tôi phải giả bộ như sẽ sinh sống ở đó, bằng cách thuê một căn phòng nguyên là lớp học ở trong một nữ tu viện và trường học mà hầu hết nhân sự đã di cư, nằm trên đường Hai Bà Trưng, để ở ít tuần. Anh Sáu và thằng Chín thì đã theo chị Năm về Hải Phòng trước, còn tôi ở lại với gia đình anh chị Cả để giúp trông con cho chị. Để cho màn trình diễn có vẻ thực hơn, tôi còn được ghi danh đi học lớp ba ở một trường công tại đây. Tất nhiên vì là con nít nên tôi không được cho biết các mưu tính đó của các người lớn. 


Khi chúng tôi chuẩn bị đi Hải Phòng thì tôi được người lớn dặn dò là nếu có ai hỏi đi Hải Phòng làm gì thì nói là đi thăm người nhà sắp đi Nam để khuyên họ ở lại, đừng đi Nam nữa vì nước nhà đã độc lập tự do. Ngoài ra, riêng tôi còn được giao thêm một việc nữa, đó là khi các cán bộ Việt Minh khám đến chị Cả đang bế cháu bé thì tôi phải tìm cách… cấu vào đùi con bé thật mạnh để nó phải khóc ré lên và chị Cả sẽ đưa nó cho tôi bảo bế ra ngoài. Thế nhưng chính việc đó lại làm cho người nữ cán bộ khám chị Cả càng sinh nghi, túm tôi lại và lột lấy hai chiếc giầy chân con cháu, lôi ra và tịch thu cọc giấy bạc tiền Đông Dương còn mới tinh. Tuy thế, chúng tôi sau đó cũng được phép lên xe đi Hải Phòng, mớ tiền bị giữ lại. Của đi thay người, chị tôi ưá nước mắt suýt xoa tiếc của song tự an ủi. Lúc ấy chúng tôi hoàn toàn không biết tới những cảnh tìm đường vượt thoát vô cùng thương tâm của bao nhiêu ngàn con người muốn tìm đường tới Hải Phòng, một thành phố đang hấp hối song vẫn còn là nơi còn cho họ cái hy vọng tới được Đường tới Tự Do - Passage to Freedom. 


(Trùng Dương)


***


Phụ đính I


Chân dung những Nhà Văn – Nhà Thơ đã khuất núi



(Chân dung những Nhà Văn – Nhà Thơ đã khuất núi)

Từ năm 2015 tới 2017


40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn

nhà thơ đã khuất núi 

(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn 

Tổng hợp từ nhiều nguồn)


Mặc Đỗ 

(1915-2015)

Mặc Đỗ tên thật là Đỗ Quang Bình – là nhà văn, nhà báo, dịch giả, là một trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975.

Ông sinh năm 1915 tại Hà Nội. Học Luật nhưng không hành nghề và chọn viết văn.. Khởi đầu viết các truyện ngắn, kịch và dịch sách 


Sau 1954 di cư vào Nam, cùng với Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan thành lập nhóm Quan Điểm, xuất bản sách của các thành viên trong nhóm. Ông cũng đã cùng với các nhà văn Vũ Khắc Khoan, Tam Lang Vũ Đình Chí, nhà thơ Đinh Hùng, Như Phong Lê Văn Tiến, Mặc Thu Lưu Đức Sinh sáng lập tờ nhật báo Tự Do đầu tiên ở Miền Nam.

Sau 1975 ông định cư ở Mỹ và từ trần ngày 20-9-2015 tại Austin, tiểu bang Texas.


Tác phẩm:

Bốn Mươi (1956), Siu Cô Nương (1958),
Tân Truyện I (1967), Tân Truyện II (1973),
Trưa Trên Đảo San Hô (2011),

Dịch thuật:
Lão Ngư Ông và Biển Cả / Ernest Hemingway (Quan Điểm 1956);
Một Giấc Mơ / Vicki Baum (Cảo Thơm 1966);
Thời Nhỏ Trong Gia Đình Luvers / Boris Pasternak (Văn 1967);
Tâm Cảnh / André Maurois (Văn 1967);
Vùng Đất Hoang Vu / Leo Tolstoi (Đất Sống 1973);
Giờ Thứ 25 / Virgil Georghiu (Đất Sống 1973).


***


Phụ đính II


Về bài thơ Hồ Trường 


Vỗ gươm mà hát

Nghiêng bầu mà hỏi

Trời đất mang mang ai người tri kỷ

Lại đây cùng ta cạn một hồ trường


Cụ Nguyễn Bá Thụy (ông nội Nguyễn Thụy Long) là anh em đồng hao với Nguyễn Bá Trác. Bà nội Nguyễn Thụy Long kể lại: Nguyễn Bá Trác từ nước ngoài trở về sau khi chí chẳng thành danh chẳng đạt. Một buổi chiều cô đơn ngồi ở quán biên thùy ở biên giới Tàu và Việt, trong tâm trạng chán đời, nên Nguyễn Bá Trác làm bài thơ Hồ Trường...”. 


Cụ bà giải thích “Hồ trường là ống tre, là ống bương to, đổ đầy rượu cho những tay hảo hán uống ở vùng thượng du Bắc Việt. Những tay hảo hán tửu lượng rất cao, uống bao nhiêu cũng được, tu rượu ung úc như nước lã, họ thường đeo hồ rượu này trên lưng. Hồ rượu được gọi là hồ trường này chứa được vài lít rượu. 


Nhị sách và cửu vạn


Trong Thi tù tùng thoại, hồi ký của Hùynh Thúc Kháng ở Côn Đảo 1915 có ghi thú chơi tổ tôm, chắn với 120 quân bài. Trong đó có bốn quân bài: chi chi, nhị sách, bát sách và cửu vạn.


Câynhị sách  chống gậy, bị coi là quân “ăn mày”. Đó là chuyện của cụ Hùynh Thúc Khác vào năm 1915 ở Côn Đảo.

Câycửu vạn vác thùng đồ trên vai. Năm 1990 ở ngoài Bắc gọi những người hành nghề khuân vác ở bến xe, bến đò những và người buôn lậu ở biên giới được kêu là cửu vạn.



Mời Xem :

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét