Nếu như những ánh sao băng có xẹt ngang bầu trời và để lại chút dấu thời gian
Với tôi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là bậc trưởng
thượng. Khi tôi ra đời, ông đã bước vào tuổi hai mươi, đã hăm hở lên đường cứu
nước. Bởi vì năm 1943, dân tộc Việt chúng ta có tới hai cái ách ngoại bang
tròng vào cổ. Trước tiên là người Pháp, đã đặt nền bảo hộ hơn nửa thế kỷ đầy
máu. Kế đó Đệ Nhị Thế Chiến đã mang Quân Đội Nhật vào trú đóng trên đất nước
chúng ta, rêu rao chiêu bài Đại Đông Á. Nhưng mà người Nhật cũng không khác gì
Pháp, cái họ mang tới không phải nền độc lập, sự thịnh vượng, mà chỉ thêm vào
những dòng máu khác. Đó là chưa kể tới những cái ách, của chính người Việt
choàng lên cổ lẫn nhau. Nên vì đó bất cứ một thanh niên nào nhiều nhiệt huyết, thao
thức tới vận mệnh tổ quốc, đều không sớm thì muộn cũng sẽ hăm hở lên đường như
Doãn Quốc Sỹ.
Nên tôi không lấy làm lạ, nếu như nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã có một thời gian bôn
ba trong vùng kháng chiến. Khi người ta còn trẻ và lòng đầy lý tưởng, ngay cả
việc hy sinh tính mạng cũng là một điều nhỏ, thì sá gì những chặng đường rừng,
những ngọn đồi cao, những con sông rộng. Khi người ta còn trẻ và tràn đầy những
giấc mộng lớn, thì sá kể gì bụng đói, trên thân người một manh áo mỏng, một
chiếc quần vải thô. Bởi vì người ta đem thân ra đi, để sống muôn đời. Mưa và
nắng gió đường xa chỉ có thể làm cho lý tưởng vững chắc hơn, chứ không bao giờ
làm cho nhụt đi những tin tưởng mãnh liệt vào tương lai của tổ quốc. Chọn lựa
vào đời đầu tiên của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, là tham gia vào bất cứ một tổ chức
nào, đi trên bất cứ con đường nào, miễn sao cứu được tổ quốc ra khỏi cảnh khốn
cùng. Ông đã đem tuổi thanh xuân của ông, cống hiến cho cuộc chiến đấu một mất,
một còn của tổ quốc, như bất cứ một người tuổi trẻ nào, ý thức được bổn
phận của một công dân trong một xứ sở bị trị. Trước Doãn Quốc Sỹ nhiều thế hệ,
những người thanh niên đã ra đi. Sau Doãn Quốc Sỹ sẽ còn nhiều thế hệ nữa tiếp
tục lên đường.
Thế nhưng chỉ vài năm sau, Doãn Quốc Sỹ đã mơ hồ nhìn thấy con đường ông chọn,
rồi ra sẽ không đưa tổ quốc tới được một tương lai tươi sáng hơn, nếu không
muốn nói là tăm tối hơn, tàn bạo hơn so với sự cai trị của người ngoại chủng.
Chính vì đó mà ông đã trở về thành, yên tâm đến trường, hoàn tất việc học mà
ông đã bỏ dở. Ông đã phải bỏ lại đằng sau, cuộc chiến đấu ông đã chọn lựa, để
rồi năm 1954, ông đã dắt díu gia đình vào Nam, chiêm nghiệm lại sự thất bại của
thế hệ ông trước những đòi hỏi của lịch sử. Chính vì đã vào thành, bỏ dở lý
tưởng ông đã chọn trong lúc tuổi thanh xuân, ông đã phải tìm con đường khác, để
hoàn thành giấc mộng cũ. Đó là một trong những lý do khiến ông trở thành nhà
văn sau này. Bởi vì văn chương chính là một sức mạnh tiềm ẩn, người ta không
thể nhìn thấy, không thể cân đo, đong đếm được sức mạnh của văn chương. Nhưng
người ta cảm nhận được sức mạnh của văn chương, chữ nghĩa.
2- Nhiều năm sau tôi bắt đầu thích đọc sách. Biết thế nào là những cuốn
sách hay, và những cuốn sách biết hay không biết phân biệt thế nào là văn
chương và thế nào là những chuyện hoang đường tưởng tượng. Tôi đã đọc Doãn Quốc
Sỹ và mơ hồ nhận biết: Một tác phẩm lớn mở lối tới tương lai, khác với một cuốn
tiểu thuyết hay, phục vụ cho thị hiếu bình thường của người đọc. Một tác phẩm
kích thước, có thể thay đổi số phận nhiều con người, thường khi là một cuốn
sách bán không chạy.
Khi nhận biết được những điều này, tôi bước chân vào tuổi hai mươi. Tuổi của
Doãn Quốc Sỹ khi ra đi tham gia trận chiến của ông. Thế hệ tôi lớn lên có một
trận chiến khác. Nhưng rồi trận chiến nào cũng giống trận chiến nào. Cũng súng
đạn ngoại bang, cũng máu xương dân Việt. Có khác chăng giữa hai trận chiến là
diện mạo quân thù. Khi Doãn Quốc Sỹ chong mũi súng về phía đằng trước, thì
trước mặt ông là những người thực dân Pháp da trắng, cùng những người lính đánh
thuê da mầu. Phía trước mũi súng của tôi là những người đồng chủng, tệ hơn
nữa có thể là những anh em con chú, con bác đã không di cư vào Nam như gia
đình tôi. Nói một cách khác, thế hệ chúng tôi tiếp tục trận chiến bỏ dở của thế
hệ Doãn Quốc Sỹ. Riêng Doãn Quốc Sỹ, ông đã chọn trận chiến của riêng ông, là
gióng lên những thất bại của thế hệ ông, nhằm cảnh giác thế hệ chúng tôi trong
thế trận mới.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ đến với tôi có một vị trí đặc biệt. Trước tiên do những
thất bại của ông và của thế hệ ông, những thất bại vì không thể nhắm mắt đồng
lõa với sự tàn bạo của con người, dành cho con người. Ông đã bỏ lại đàng sau,
cái hàng ngũ đã reo rắc kinh hoàng, tang tóc cho một nửa nước phương Bắc. Ngay
khi đặt chân xuống miền Nam, ông ngồi
xuống bàn viết, và thế hệ chúng tôi nhận được bức thông điệp đầu tiên của ông.
Trong tư cách một nhà văn, ông cổ súy cho: "Lòng nhân ái".
Để chống lại sự tàn bạo đến phi nhân của kẻ địch, võ khí mà nhà văn sử dụng
chính là lòng thương yêu. Năm mười tám tuổi, khi đọc "Dòng sông định mệnh
- Chiếc chiếu hoa cạp điều" của ông, tôi bắt được những ý nghĩ trong lành
trong từng trang sách.
Nói một cách khác trong đời chiến đấu khá ngắn ngủi của ông, ngay khi phát giác
những người sát cánh bên cạnh mình, là những con người bạo tàn với đồng loại,
với ngay cả đồng bào của chính mình. Khi phát giác ra điều này, nhà văn phải
lập tức quay lưng lại với quyền lực, không những quay lưng lại mà còn phải lớn
tiếng tố cáo, chống lại những bạo lực này, bằng cách ghi lại những ao ước của
mọi người, thể hiện những ao ước này bằng lòng thương yêu, nơi mọi nhân vật
trong tác phẩm của mình. Tính nhân bản luôn là nét chính, trong các tác phẩm
đầu tiên của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Năm 1963, tôi hai mươi tuổi, nằm trong quân trường Thủ Đức. Tôi đọc cuốn đầu
của bộ trường thiên tiểu thuyết bốn cuốn"Khu rừng lau", của nhà văn
Doãn Quốc Sỹ. Bên ngoài hàng rào quân trường, xã hội miền Nam đang trải qua
những cơn bão tố chính trị. Thời đó ông chỉ mới hoàn tất cuốn đầu: "Ba
sinh hương lửa - 1962", để rồi những năm sau, trôi nổi trong đời quân ngũ,
lúc nào tôi cũng quan tâm đến các phần còn lại của bộ trường thiên tiểu
thuyết này: "Người đàn bà bên kia vĩ tuyến, 1964 - Tình yêu thánh hóa,
1965 và Đàm thoại độc thoại, 1966".
Cách ông đặt tên cho toàn bộ trường thiên, cũng như từng phần cho thấy trong
tác phẩm này, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã bầy trước mặt ông quá nhiều vấn đề, quá
nhiều mong ước. Éo le thay giải quyết các vấn đề này, cũng như làm đầy những
ước mơ này, không nằm trong tay các nhà văn. Đau lòng hơn thế, suốt trong hơn
hai thế kỷ cận đại, chưa bao giờ số phần của dân tộc Việt Nam, nằm trong tay dân tộc Việt Nam. Trong bộ trường thiên này,
người đọc nhận thấy những biến đổi của chính trị, xã hội bên ngoài, khiến cho
Doãn Quốc Sỹ nhìn lại chỗ đứng của ông. Ông đã chọn lầm vị trí khi rời nhà ra
đi, tham gia kháng chiến. Chẳng lẽ ông lại lầm một lần nữa?
Một đàng là những bạo tàn đến từ phương Bắc, một đàng là những ung thối của
miền Nam. Nhà văn đứng giữa cô đơn biết
dường nào. Doãn Quốc Sỹ đã ký thác tâm trạng băn khoăn của chính ông, đan những
suy nghĩ dầy dặc của ông, vào hành động của các nhân vật trong bộ trường thiên
này. Ông vẫn giữ được trọn vẹn lòng nhân ái cũ, nhưng chen vào đó là những phút
bâng khuâng, những câu hỏi về ngày mai. Giọng văn tha thiết với người, với đời
còn đó, nhưng niềm tin bạt núi vào tương lai quả có sứt mẻ khá nhiều. Trong
cung cách một nhà giáo, đào tạo những nhà giáo khác của ngành Sư Phạm, may thay
ông còn được một ngõ thoát khác: Ông đã trực tiếp chuyển những chân thành nơi ông,
sang những người học trò của ông nơi ghế nhà trường, ủy thác cho những nhà giáo
tương lai việc trao truyền lại "thông điệp nhân ái", mà ông đã dùng
những tác phẩm văn chương của ông như một phương tiện để truyền đạt.
3- Năm 1975 ập tới, thế hệ của tôi mang về cho tổ quốc một kết quả tương
tự như thế hệ Doãn Quốc Sỹ. Thế hệ của ông tuy thất bại, dẫu sao nữa vẫn còn
giữ được cho chúng tôi một khoảnh đất tự do, một chút vốn liếng cuối cùng. Thế
mà thế hệ chúng tôi nỡ lòng nào đánh mất cái vốn liếng cuối cùng này, để đến
nỗi toàn bộ xứ sở chìm trong tù ngục. Tháng Tư năm 75, khi những người
Cộng Sản ngoài Bắc tràn vô chiếm lãnh Sài Gòn, Doãn Quốc Sỹ đã không may
mắn như năm 54. Ông ở lại và nhận lấy hậu quả nơi những dòng chữ chuyên chở
lòng thương yêu của ông. Ông bị giam giữ cùng với nhiều nhà văn, nhà
thơ, nhà báo của miền Nam. Nhiều
người đã nằm xuống trong hàng rào, nhiều người được phóng thích, nhưng khi ra
khỏi cổng nhà giam, chỉ còn là một thân xác bất động, thân nhân chỉ còn một
thời gian rất ngắn kịp chạy ma chay. Tha về để trại giam tiết kiệm được một
xuất cơm mỗi ngày, vài viên thuốc hết hạn, và một vài miếng ván đóng quan tài.
Cũng như bao người khác, thoạt mới bị giam giữ Doãn Quốc Sỹ bị bao trùm bởi sự
sợ hãi. Nhưng nhờ đã có kinh nghiệm với người Cộng Sản trước kia, và nhờ ý chí
mạnh ông đã qua khỏi được giai đoạn kinh hoàng khi mới bị bắt giam. Ông tiết
kiệm từng hơi thở, gìn giữ mỗi cử chỉ, cốt để cho những người quản giáo không
có cơ hội xúc phạm tới nhân phẩm của ông. Ông hít sâu vào lồng ngực, thở ra
chậm chạp, như thở của một tu sĩ trong cơn tọa thiền. Vả lại nhà văn là những
người có khả năng phân thân, có thể nhẩy lùi lại quá khứ, sống cuộc đời trăm
năm trước, hay phóng mình tới xã hội của trăm năm sau, do đó thân tuy bị giam trong
ngục tối, nhưng hồn thì ở cuối chân trời. Tuy bị bóng tối bao phủ, nhưng trong
mắt nhìn của nhà văn, ông bắt gặp những mầu sắc tươi đẹp của ngày mai.
Doãn Quốc Sỹ là một trong những nhà văn của miền Nam được "chiếu cố" kỹ nhất. Nếu
như trước kia ông không về thành, với khả năng của ông, có thể ông đã là một
trong những người di rao giảng chiến thắng. Nhưng hơn hai chục năm trước, ông
đã chọn vị trí cho riêng ông, ông đã đứng trong hàng ngũ của kẻ hôm nay chiến
bại, nên vì thế mà những tác phẩm ông viết, đã bị những người được gọi là
"nhà văn" xăm soi từng chữ, từng dòng. Người ta dùng kính lúp chiếu
lên từng cái chấm, từng dấu phẩy trong những trang sách này, mong tìm tòi gán
ghép cho nhà văn, những tội danh không tưởng. Song song với việc khai báo trong
những lần làm việc với "chấp pháp", lúc nào ông cũng nghĩ tới việc sử
dụng ngòi bút khi ra tù. Chính vì vậy mà những năm đầu 80, sau khi ông được thả
lần đầu, độc giả hải ngoại được đọc tác phẩm "Đi" của "Hồ
Khanh", từ trong nước chuyển ra hải ngoại. Hồ Khanh chính là bút hiệu
"viết chui" của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Trước sau ông bị bắt đi thả lại
nhiều lần. Ông bị giam hơn 10 năm, và đặt chân tới Mỹ tháng Hai năm 1995.
Ông đã 72 tuổi, đủ để bước vào cái tuổi mà các cụ cho là thất thập cổ lai hy.
Ngay khi đặt chân xuống vùng đất mới, con người nhà văn trong ông sống lại, ông
làm quen với những độc giả cũ của ông với ba tác phẩm: "Mình lại soi mình,
Người vái tứ phương, Dấu chân cát xóa" mà trong đó có cuốn "Dấu chân
cát xóa" là một tác phẩm được viết vào năm 1974, chưa kịp mang đến nhà in
thì tai họa đã ập xuống đầu cả nước.
Những ai đã từng yêu Doãn Quốc Sỹ, nhận ngay ra văn phong của ông trong ba tác
phẩm này. Ông là một ngòi bút dùng để tuyên dương điều thiện, cái đẹp, thế mà
ông bị giam hãm trong một vùng đất mà tính ác và điều xấu bao trùm tới khóm cây
ngọn cỏ. Thêm vào đó gần hai chục năm đắm chìm trong suy nghĩ, không có dịp cầm
bút, nên cái nhịp của các tác phẩm này chậm chạp, các nhân vật ít linh hoạt
hơn, so với những nhân vật trong các tác phẩm trước kia của Doãn Quốc Sỹ.
4- Tác phẩm mới nhất của nhà văn Doãn Quốc Sỹ có tên là "Cò
Đùm". Đây là một tác phẩm mới mà cũ, bởi vì ông đã viết truyện ngắn này
vào năm 71. Cuốn sách được ông quyết định mang in sau khi ông đã hít thở không
khí tự do của nước Mỹ chẵn tròn một năm. Trong một năm đó, gót chân ông đã vân
du hai ba đại lục. Ông đã nhìn thấy tận mắt, đã nghe tận tai, đã thấy thế nào
là hoan hô, đả đảo. Ông có dịp quan sát từ đối cực này sang đối cực khác. Những
năm trong tù giúp ông có thời gian nghiền ngẫm lịch sử. Ông chiêm nghiệm được
một điều: Trong các cuộc biến thiên của lịch sử bất lợi cho đất nước, trong mọi
cuộc chiến tranh, đặc biệt là trong các cuộc nội chiến, lớp người thiệt thòi,
khổ đau nhất là những nông dân, mà nhân vật "Cò Đùm" là một thí dụ.
Nhưng cũng chính những người nông dân này có sức chịu đựng bền bỉ nhất. Chính
những người nông dân này, đã oằn vai sốc vác gánh nặng của lịch sử trong những
thời khoảng đen tối nhất. Họ là những mạch sống ngầm của dân tộc, hệt như những
mạch nước do địa thế không thể chẩy lộ thiên, đã ngấm xuống và chẩy ngầm trong
lòng đất. Khác với dòng nước sông Hồng đỏ ngầu máu địch, họ là những cái giếng
trong cho mỗi một ngôi làng. Trong những lũy tre xanh, mỗi một ngôi làng là một
cứ điểm tích lũy vốn sống của tổ tiên. Dưới mái ngói của mỗi ngôi đình là
một niềm tự hào riêng của từng địa phương, mà ở đó những người dân quê tuy hiền
lành, nhưng bướng bỉnh duy trì những mạch đời, liên tục từ thế hệ này sang thế
hệ khác.
Sự khôn ngoan của "Cò Đùm", không thể là cái khôn ngoan rút được từ
trong sách vở. Sự khôn ngoan đó là kinh nghiệm sống của nhiều kiếp con người.
Những kinh ngiệm đó không phải thứ kinh nghiệm ù lì. Mà trái lại đó là những
ứng dụng đầy sáng tạo. Trong những điều kiện thật khắc nghiệt của lịch sử, quân
thù giới hạn việc di chuyển, thông thương. Mỗi một ngôi làng vẫn có thể tồn tại
được, cho dù không được tiếp xúc, giao thương với các làng khác. Những cải tổ
nông nghiệp thường khởi đi từ dân chúng, thí dụ như cách làm khoán cho từng gia
đình, là sáng tạo của người nông dân Việt Nam, trước việc làm chung hợp tác xã
cái kiểu cha chung không ai khóc được ứng dụng tại Trung Cộng trong những năm
của thập niên 60. Muời năm trước Sài Gòn là một thành phố buồn thảm, như một
cái cây trụi lá trong mùa đông, hiện nay đã có những tàn lá xanh, tuy chưa phải
là mùa xuân, nhưng ít ra thành phố đã có mầu sắc. Sự thay đổi này được khởi đi
từ dân chúng, không phải bởi những sắc lệnh "đổi mới" được ban bố từ
trên xuống.
Hãy tưởng tượng những "Cò Đùm" của đất nước chúng ta, trong thời Bắc
thuộc, khi chưa có bà Trưng, bà Triệu, Phùng Hưng, Triệu Quang Phục... cho tới
khi lịch sử sản xuất một Ngô Quyền. Thế rồi trên dòng trường giang của lịch sử,
khi nòi Hán với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xâm lăng từ
bên ngoài, mà nước Việt chưa kịp có những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... Rồi gần chúng ta hơn nữa, trong thời Pháp
thuộc, cái bạo tàn của thực dân được hỗ trợ bởi sự nhu nhược của triều đình,
cộng thêm với sự nhũng lạm của các tham quan đã khiến cho dân chúng phải gầm
mặt mà sống. Phải sống mà chờ một người anh hùng áo vải của ngày mai. Để
có thể sống còn khi mà lịch sử còn đang u u, minh minh, những lũy tre làng hữu
hiệu hơn các đô thị. Mỗi một ngôi làng là một cứ điểm đơn độc lặng lẽ sống,
kiên nhẫn chờ, cho đến khi bóng dáng người anh hùng thực xuất hiện, bởi vì hơn
bao giờ hết thời đại của chúng ta có quá nhiều anh hùng giả. Khi những
người của lịch sử xuất hiện, thì ngàn vạn ngôi làng, ức triệu con người như
"Cò Đùm" ngẩng mặt lên, nhất tề đứng dậy xếp hàng sau lưng người của
muôn đời dựng lại lịch sử. Hãy tưởng tượng những "Cò Đùm" hôm nay,
đang cúi mặt xuống, sống để mà sống. Ôi những người nông dân sông Tiền, sông
Hậu, những người nông dân Nam Định, Thái Bình... Đã bao đời nay họ
sinh ra để làm nông dân, không phải để làm đảng viên. Họ có thể bị chóa mắt bởi
những lời phỉnh phờ, bởi những thủ đoạn của những người thực dân xâm lược, bởi
những ông quan khệnh khạng trong triều, bởi những người làm chính trị nhiều thủ
đoạn, và bây giờ là những người đảng viên Cộng Sản u tối đầy bạo lực. Họ có thể
bị lừa năm, mười, hai mươi năm, và rồi cái vốn sống tiềm ẩn của bao nhiêu đời
tích lũy, sẽ giúp họ giữ được bản chất hiền hòa của tiền nhân, nhẫn nhục sống
chờ một ngày mai lịch sử thăng hoa, và muôn triệu con người có một kiếp
người. Những người nông dân, những "Cò Đùm" của đất nước hiện
nay, không có phương tiện để phản đối như chúng ta tại hải ngoại, không có báo,
không có đài phát thanh, truyền hình, không có những diễn đàn cờ quạt, biểu
ngữ, bích chương, khẩu hiệu. Cũng không có quần áo đẹp trịnh trọng phát biểu
trước những dẫy micro, tuôn ra những lời nói kêu mà rỗng, hay những lời đả kích
cho sướng miệng. Đã nhiều năm nay, tôi thấy những bài diễn văn của chúng ta, chỉ
vang vang trong các hội trường, trong các góc phố, nơi các địa điểm tổ chức mít
tinh, biểu tình. Những bài diễn văn của chúng ta hệt như những viên sỏi ném
xuống một ao bèo, chỉ tạo được vài gợn sóng lăn tăn, rồi trả lại sự phẳng lặng
cho mặt nước. Đã muôn đời nay, nông dân là những lớp sóng người, nhấp nhô theo
vận nước. Họ làm nên sức mạnh chịu đựng trong mọi cơn khốn cùng của lịch sử, để
rồi khi mạch sống dân tộc vươn lên, những lớp sóng người này cũng không được
hưởng những vinh quang. Cái mà họ cần, chính là một cuộc sống ấm no hơn, con
người ăn ở với nhau tử tế hơn, nhân ái hơn. "Cò Đùm" là một tập
truyện ngắn, đã được nhà văn Doãn Quốc Sỹ viết không phải để phô diễn văn
chương, mà để nói lên những chiêm nghiệm của ông trước những cơn ba đào của
lịch sử, như hầu hết những tác phẩm cũ của ông.
Cách ông viết bây giờ, là lấy ngón tay chỉ mặt trăng
.
Hãy chú trọng tới mặt trăng, còn ngón tay chỉ là
phương tiện.
5- Ở vào tuổi thất thập cổ lai hy, những tác phẩm mới của nhà văn Doãn
Quốc Sỹ quả đúng là "Văn Dĩ Tải Đạo". Trong văn chương, ông chống lại
mọi guồng máy làm cho sức sống của dân tộc bị trì trệ. Bất kể guồng máy đó
thuộc về phía nào. Ông viết từ tốn, không khoa đại ngôn ngữ, song thái độ của
ông là một thái độ quyết liệt với bạo lực và tăm tối.
Với tôi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một bậc trưởng thượng. Trên con đường văn
nghiệp, ông đã khởi hành trước tôi 20 năm. Với tên tuổi, và những tác phẩm ông
đã đóng góp với dòng văn học gần nửa thế kỷ nay, ông không cần một bài tựa. Bài
viết này nghĩ cho cùng chỉ là những lời cám ơn, của một người khởi hành sau ông
một khoảng thời gian, cách ông một thôi đường. Trong hành trình tiến tới tương
lai, có thể ông sẽ nằm xuống trước tôi. Điều quan trọng chính là những nhát búa
mở đường của ông và của thế hệ ông để lại, đã giúp cho hậu sinh chúng tôi tiến
về phía trước thêm được một khoảng cách. Tôi tin rằng thế hệ của tôi cũng sẽ
làm những việc tương tự, phóng những nhát búa, phạt những đường dao khác tiến
tới phía trước.
Tôi cầu chúc nhà văn Doãn Quốc Sỹ sức khỏe, sống lâu trăm tuổi để có thể thấy
những "Cò Đùm" của ông nơi quê nhà, rồi ra sẽ không còn cúi
mặt.
Ngộ Không Phí Ngoc Hùng chuyển
Thầy Sỹ và Các bạn nam k.2
🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸
Mời Xem :LÒNG TỪ TRONG CÕI VĂN DOÃN QUỐC SỸ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét