30 thg 9, 2024

Thơ Cóc ĐVL : SÁ GÌ ,TỰ SỰ GIỮA TUẦN

1./ SÁ GÌ…..
 
Đội mưa tìm gặp bạn bè
Đến Lam Sơn quán cùng lê la ngồi
“Vũ y” (1) khoác vội, đi thôi
Kệ mưa bay dấm dẳng lời nỉ non
Hoá ra là khúc dự ngôn
Hồ như sắp sửa thêm cơn bão về
Mới vừa áp thấp ngoài kia
Gió xa đã vội hội thề mây mưa
Hiên ngoài, phố xá đong đưa
Mưa lâu lắc khiến nắng trưa bẽ bàng
Mong trời đất bớt oán than
Từ thinh không, “lệ” vẫn giàn giụa rơi
Cà phê cạn, mưa chẳng vơi
Cũng đành khoác “vũ y” rời quán quen
Chờ khi nỗi nhớ mon men
Điềm nhiên nhắc những cái tên bạn bè
Rồi… đến ngày, lại rủ rê
Ghé Lam Sơn quán phủ phê nói cười!
Sá gì nắng lả, mưa lơi…
SG_180924
ĐVL
Chú thích:
(1) Vũ y: cách gọi vui bằng từ Hán Việt của t/g khi đề cập đến chiếc áo mưa!
P/s Rốt cuộc mưa cứ dai dẳng đến tận cuối chiều kia đấy!

2./ TỰ SỰ GIỮA TUẦN
 
Ai nói gì mặc kệ
Vẫn ghé vào quán quen
Cà phê như thường lệ
Cùng bạn bè huyên thiên
Ừ, thì ngồi tán dóc
Chuyện thế gian ta bà
Lại trêu đùa, ghẹo chọc
Miễn không ai phiền hà
Ừ, cà phê cà pháo
Thi thoảng hẹn “lai rai”
Khi trà dư tửu hậu
Chẳng làm buồn lòng ai
Giữ thân tâm an lạc
Suốt hành trình nhân gian
Miễn về nơi nường náu
Cùng bạn đường lo toan
Cả một đời bươn chãi
Trả đủ nợ ba sinh
Chút… “hoàng hôn” còn lại
Trả treo chi với mình?
Nên khi còn có thể
Đừng để bị lãng quên
Cứ nhen… bè, nhóm… bạn
Thắp sáng một… bình minh!
Ai nói gì mặc kệ
Hãy bao dung với mình!
Ai trách gì bất kể
Hãy yêu thương chính mình./.
SG_250924
ĐVL
 
Thác Iquazu
 

 

Lò ấp trứng sùng – Truyện trào phúng Lê Văn Nghĩa

Vanvn- Trong đám bạn xuất thân từ cán bộ phường từ thời oảnh tẹc, chỉ có thằng Láu là thằng nhìn xa trông rộng. Hồi làm bên thanh niên, nó đã nhìn thấy con đường bên chính quyền là con đường có thể trường kỳ tiến tới bền vững cho bản thân. Vì thế từ cán bộ thanh niên, nó đã tìm đường chuyển sang làm cán bộ phường lèo tèo, suốt ngày chỉ ngồi đóng dấu cho các bản sao giấy tờ. Ấy vậy mà trong một thời gian nó đã nhảy lên phó chủ tịch phường. Nhiều người ngơ ngác tự hỏi “Sao thấy nó có thành tích gì đâu mà nhảy nhanh như vận dộng viên điền kinh vậy?”. Một thức giả, nhếch mép không râu cười mà rằng “Sao lại không có thành tích. Thành tích của nó là có ba làm chủ tịch quận!”

Nhà văn Lê Văn Nghĩa

Trong đợt chuẩn bị sắp xếp ghế, thằng Láu được ba nó chuyển lên quận, đảm nhiệm chức vụ nhỏ nhoi là phó chủ tịch kinh tế của quận nhà. Nhiều ý kiến trong quận phản đối quyết liệt vì nó tốt nghiệp cử nhân môn cờ người (theo thơ của Hồ Xuân Hương là ‘Chàng Cùng thiếp năm canh trằn trọc/ Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người…’), rất giỏi chiêu ‘đem pháo đầu dú dí vô cung’ các em người mẫu nội y mà làm sao có thể phụ trách kinh tế được, phụ trách mảng sinh đẻ có kế hoạch còn mặc may’. Quyết liệt quá, thơ tay rơi tới cấp trên luôn nhe. Thế là chỉ trên 10 ngày ký tầm bậy, tầm bạ mấy cái công văn xin xỏ gì đó, nó lại được chuyển qua làm công tác xã hội, ngồi chơi chờ thời.

Tôi là bạn nối khố của nó thời học sinh, không xin ơn mưa móc của nó, thuần là bạn bia, nó biết tôi là thằng không hề quan trọng nên dốc hết bầu tâm sự trong cơn say buồn mất chức. “Buồn vào hồn không tên, cái ghế của em, nó bay đi mất rồi…”. Rồi nó kể tiếp cho tôi nghe:

– Mầy biết không, bố tao nói chí ‘ní’ nhắm – thằng nầy có tật ngọng chũ ‘l’ và ‘n’ đổi chỗ cho nhau – làm lãnh đạo kinh tế thì phải có tiến sĩ kinh tế, đố thằng đ, con phò ‘lào’ ‘lói’ được mình. Bởi vậy, mầy biết không… bố tao đã có cách…

– Cách gì? Cấp cho mầy cái bằng Tiến sĩ kinh tế hả?

– Ừ, bố tao mà cấp cái đ. gì! Ổng chỉ cấp ‘củ’ cho mấy cái con lính của ổng. Cái nầy là do tao gặp mấy thằng tiến sĩ, bạn tao thời học trong trường đại học Cờ Người… Nầy, để tao kể cho nghe…

***

Thằng bạn tớ nhá, tiến sĩ với ‘nuận án’ “Hành vi, và thái độ xin xỏ của quan chức về hưu”, dựa trên nghiên cứu đơn xin cấp nhà công vụ của một ông cán bộ nguyên thứ trưởng. Trong đơn xin mua nhà công vụ ‘não’ ta than rằng chưa bao giờ mua được nhà, ‘não’ nghèo lắm, suốt đời phục vụ cách mạng trên răng dưới ‘ca tút’. Nhưng ‘não’ ta lại quên khai rằng vợ ‘não’ là chủ tịch tỉnh, con gái là phó chủ tịch tỉnh, con trai ruột là giám đốc sở. ‘Nuận’ án này được điểm tối đa của hội đồng chấm ‘nuận’ án.

Theo lời nó kể thì không cần đến ngày ra hội đồng nó cũng biết là ‘nuận’ án của nó được điểm tối đa. Tớ bối rối hỏi “Tao biết gì đâu mà làm ‘nuận án’ Tiến sĩ kinh tế”. Nó cười hăng hắc “Tao cũng biết đ. gì đâu về chuyện xin xỏ nhà cửa gì đâu. Nè tao hỏi, mầy có khoảng 500 củ không?”

“500 củ? Số tiền lớn quá. Nhưng chi vậy?” “Thì để làm tiến sĩ chứ, mầy tưởng làm TS không tốn tiền à. Càng dốt như tao với mầy thì càng phải có nhiều tiền mới có bằng Tiến sĩ nhé. Thằng nào học giỏi thật cũng phải tốn ít nhất 300 củ. Tiền bố mầy kiếm được dễ dàng, chứ có thằng tiến sĩ là con đâu phải dễ mậy. Ít nhất ổng cũng được người ta trọng vọng vì bố tiến sĩ nhá…”

Nó dẫn tôi ra Hà Nội, đất ngàn năm văn vật, đất của tiến sĩ vì có cái gọi là Viện Hầm khoai lang không học xả hơi. Cái Viện nầy hàng năm sản xuất ra chừng vài trăm tiến sĩ đủ mọi chủng loại. Thằng bạn tôi dẫn tôi gặp một vị mặt vuông, má béo chất ngất, xệ tới cằm. Đầu hói (chứng tỏ thông minh), mắt hí (chứng tỏ học nhiều), môi vẫu (chứng tỏ mím môi, mím lợi vì chữ). Trước đó, thằng bạn tớ đã bảo nhỏ: “Lão nầy một năm hướng dẫn gần 40 nghiên cứu sinh, ra lò ấp hết nhá”. “Ủa, theo tớ được biết một GS chỉ được hướng dẫn 3 nghiên cứu sinh thôi mà”. “Ủa, tao chưa cho mầy biết là lão nầy là một trong những vị lãnh đạo lò ấp này à? Dư luận bao lâu nay đã gọi nơi đây là lò ấp trứng sùng (TS) mầy không biết sao? Tao cũng thuộc loại trứng sùng nhưng kệ mẹ, có ai biết đâu. Mầy nên nhớ rằng đây là cái viện quan trọng của đất nước nầy nhé, cung cấp trứng sùng cho các ngành quan trọng như kinh tế, xã hội, ngoại giao. Mầy có cái bằng tiến sĩ của Viện nầy coi như là có dấu đỏ đó nha.”

Thằng bạn tớ và lão hói, béo thấy thương nầy thảo luận một hồi, và nhất là sau khi thằng nầy đưa cho lão một bì thư (tiền của tớ) thì tớ được biết là tớ cứ việc về nhà, an nhàn ăn chơi, nhưng ráng giữ sức khỏe đợi đến ngày ra cho hội đồng thấy mặt và nhận bằng tiến sĩ. Á, mà không quên ứng trước 300 củ, phần còn lại là 200 củ sẽ giao nộp sau khi nhận bằng tiến sĩ. Trước khi về lão hói nói với tao “Lầy, đề tài của cậu sẽ “nà” “Bước đầu nghiên cứu giá trị kinh hãi của các đề tài tiến sĩ kinh tế”.

  ***

Sau khi nó kể cho tôi nghe câu chuyện nầy thì tôi phải chuyển đi công tác tỉnh một thời gian thật dài, lấy vợ rồi sinh con luôn. Không còn quan tâm đến chuyện ở Sài Gòn nữa.

Mới đây, về Sài Gòn có chuyện liên quan đến một dự án kinh tế. Tôi cùng đi trong phái đoàn do một vị lãnh đạo tỉnh dẫn đầu, cần phải gặp cho được phó chủ tịch phụ trách kinh tế của quận. Té ra vị phó chủ tịch quận nầy là thằng bạn của tôi ngày xưa khi tôi đọc tấm danh thiếp thấy ghi rõ ‘TS. Tài Văn Láu. PCT …’

Nó thì không nhìn ra tôi vì sau bao năm đi về vùng cao tôi đã biến đổi khá nhiều cũng như nó, tôi  nhìn không ra một thằng bạn ngày xưa. Bây giờ nó cũng béo láng chất ngất…

Té ra nó đã tốt nghiệp ở cái lò ấp trứng sùng ấy và bây giờ trở thành người phát biểu chỉ đạo những nhà kinh tế thuần thành chúng tôi. Nghe nó nói về kinh tế thì tôi biết tương lai nền kinh tế của cái quận nầy sẽ đi về đâu rồi: “nền kinh tế công nghiệp chủ đạo của quận tôi sẽ tập trung chủ đạo dựa vào sản xuất mì gói, giấy vệ sinh, lời chào Whisper, Sakura… ôi, lãi lắm, lãi lắm nhé…”

Đúng là lời của nhà kinh tế của lò ấp Trứng Sùng!

LÊ VĂN NGHĨA

Xem Thêm :

 https://vnexpress.net/nha-van-le-van-nghia-qua-doi-4330415.html

29 thg 9, 2024

ÔNG TÔI - Trần Phong Vũ

 

ÔNG TÔI
 
Ngày mai, 27 tháng 8 Âm lịch là ngày giỗ ông nội tôi. Ông mất năm 1972 vì cancer phổi hưởng thọ đúng 72 tuổi luôn.
Ông nội tôi vốn là một nông dân nghèo, không có ruộng đất ở 1 làng quê ven bờ sông Nhuệ Hà Đông. Vì nghèo nên phải tha phương cầu thực, phải Nam tiến tìm đất sống noi gương những người cùng làng đi trước. Năm 1935, ông gửi ba tôi lúc đó mới 14 tuổi vào Saigon học nghề thợ giày. Sau đó đến chú tôi, cô tôi... Phải đến năm 1940, ông tôi đăng ký đi mộ phu đồn điền ở Lộc Ninh, được 1 khoản tiền ông giao cho bà nội tôi ở quê nuôi 2 người con còn lại. Gia đình ông tôi ly tán từ đây.
Làm phu đồn điền ngày xưa rất cực nên đến năm 1945, ông tôi đổ bệnh sốt rét rất nặng tưởng không qua khỏi, ba tôi hay tin, vay một số tiền lớn về Lộc Ninh nuôi ông. Khi ông tôi khỏi bệnh, ba tôi đưa ông tôi về Bà Chiểu xứ Gia Định. Ở đó ba tôi thuê đất cất một căn nhà nhỏ trên đất của ông Bá hộ Quyền. Ông này sau 1954 bỏ sang Pháp nhưng ba tôi hàng năm vẫn phải đóng tiền đất qua văn phòng thừa phát lại cho đến khi trào ông Diệm sụp đổ mới thôi (1963)
Điều khiến ông tôi tự hào và hạnh phúc nhất là ba tôi, chú và cô tôi đều xây dựng gia đình, sinh cho ông tôi một đống cháu nội, ngoại chừng 2 chục đứa hơn.
Thuở nhỏ, ông tôi cưng tôi nhất vì tôi là cháu đích tôn của ông. Người bắc quê là vậy đó. Mỗi năm, rằm Thượng ngươn ( tháng giêng) và Hạ ngươn (tháng 10). Ông tôi lại trịnh trọng khoác lên người bộ bà ba lụa trắng, bên ngoài là cái áo the đen, đội khăn đóng, chân đi hài Gia Định bóng nhoáng dẫn tôi lên chùa Pháp Vân ở Phú Nhuận dự Tế và hội làng Văn Giáp. Ở đó, ông tôi được ngồi ghế kỳ lão, được mọi người trịnh trọng gọi bằng Cụ vì ông là một trong những người già nhất của làng ở đất Saigon này...
Năm 1972 cũng là năm tôi thi đỗ Tú tài 1 hạng Bình. Làng tổ chức trao bằng tưởng lệ và khen thưởng. Tôi nhớ hoài một ông cụ già nhất làng gọi là cụ Kỳ. Khi trao bằng cho tôi, ông cụ nắm tay tôi rưng rưng : Về nói với ông Nội và bố con là ông mừng lắm vì con nhà nghèo mà học giỏi như thế này là có phúc lắm... Tôi thì buồn vì khi đó ông tôi đang vật vã đau đớn vì căn bệnh thế kỷ. Rồi ông tôi cũng mất sau bà nội tôi 3 năm. Bà tôi mất ở ngoài quê năm 1969, lúc đó giữa 2 miền vẫn còn thư tín gửi qua bưu thiếp...
Dù sao thì khi ông tôi mất, đám tang ông tôi di chuyển từ Ngả tư Bình Hòa lên chợ Bà Chiểu, khăn tang trắng đội đầu cũng rợp trời vì quê tôi có lệ con cháu trong dòng họ đều phải chít khăn....
Như vậy đó, ba má và ông bà tôi là người bắc nhưng lứa chúng tôi đều sinh ra ở đất Saigon, nói giọng Saigon, ẩm thực và sinh hoạt trong nhà vẫn còn giữ nếp Bắc nhưng ra đời đều tự hào khoe với mọi người : Tui là dân Xì gòn chánh hiệu con nai vàng
Có lần đi ra Bắc công tác, có thím trưởng buồng ngơ ngác : Ủa thầy Hai là người Bắc à ? Tôi vỗ ngực : không, tôi là Bắc kỳ lai, gấp 2 Bắc kỳ thật đấy...
 
TRẦN PHONG VŨ
28.09.24


 Mời Xem : LẤY VỢ -Trần Phong Vũ

28 thg 9, 2024

BUỔI SÁNG Ở VÙNG CAO, KHÚC MƯA TRƯA - Thơ Hathuthuy

1./ BUỔI SÁNG Ở VÙNG CAO
 
Rừng hào phóng cho măng tre củ nấm
Núi chở che tầng đá dựng chập chùng
Mây ngàn năm như dải khăn ấm áp
Trên đỉnh ngàn mờ sương khói mông lưng.
Cha lặn lội thân cò trên rẫy vắng
Mẹ miệt mài kiếp vạc chốn nương xa
Đường đến trường bạt ngàn bông lau trắng
Chim Nộc Thua buông tiếng hót mượt mà.
Lá trung quân tròn như vầng trăng nhỏ
Học trò cầm tay che gió đến trường
Khe suối trong veo lay lay hoa cỏ
Tiếng cười vang vang suốt mọi ngõ đường.
hathuthuy

2./ KHÚC MƯA TRƯA
 
Trưa ngồi nghe mưa rơi
Buồn tựa tiếng thở dài
Nhìn giọt mưa chơi vơi
Nghiêng trắng trời tê tái.
Suy tư một chút mưa trưa
Làm sao sống để cho vừa lòng nhau
Trái lòng sẽ rất đớn đau
Vừa lòng cũng giống mưa rào đổ qua
Ai rồi cũng phải..."Đi Xa"
Đời vô thường lắm... chan hòa... an yên.
hathuthuy

Cố Định Một Đám Mây - Nguyễn Ngọc Tư

 


Chỉ người chết mới chịu ở lại cái đất này”,

Ái nói. Như nói với bụi cỏ gà giập ngọn dưới lưng mình. Chuyển động của cơ cổ Ái bên dưới tay Biền rõ đến nỗi nó nghĩ có thể đoán chính xác từng lời mà không cần nghe bằng tai. Chếch phải hay sang trái hoặc phủ lên hố sâu giữa hai xương đòn, bàn tay Biền áp vào những nhịp mạch, tiếng nuốt nước bọt, luồng khí nóng trào ngược, dõi theo mọi chuyển động của sự sống bên trong Ái. Chỗ mạch ẩn bên dưới lớp da xanh đang đập từng nhịp mịn màng. Khoảng thời gian gần đây, nhịp đập bình thản ấy làm Biền tuyệt vọng. Phải Ái chửa, đôi mạch cổ đã nhảy múa loạn lên, và cô sẽ mắc kẹt lại bìa Nước Mặn cùng đứa trẻ.
Nắng lịm nhanh, vừa mới nãy thôi vẫn còn rình mò khu tha ma, làm nên những mảng bóng chao động trên thân thể đứa con gái khi thằng Biền rập rờn phủ lên người. Hơi lạnh và bóng tối không một chút do dự, chiếm lấy những thứ nắng vừa bỏ lại. Ở nhị tì suốt nhiều buổi chiều, Biền nhận ra đêm của bìa Nước Mặn khởi phát từ đây, từ những khe nứt của hàng trăm ngôi mộ, bóng tối tuôn ra lênh láng. Những khe gạch bơ phờ cỏ dại, còn là cánh cửa cho linh hồn dưới ấy ra vào, hình dung đó khiến Biền thường nằm lên, dùng lưng bịt kín, mắc cười nghĩ tới cảnh con ma bên dưới đang giậm cẳng tức mình. Vài con ma ở khu mộ đá Biền quen lúc họ còn là người sống.
Biền không còn làm mấy trò ghẹo ma đó trong những chiều gần đây. Nó nghĩ về những người chết thì không thể bỏ đi. Như Ái cứa đi cứa lại. Với sự phụ họa bằng sự im lặng tuyệt đối của thằng Thản, nằm ngay bên dưới chỗ tụi Biền quấn nhau. Bảy năm nay Thản ở yên một chỗ này. Nó giàu, chết vì u não. Mười bốn tuổi, Thản làm nên mớ nghịch lý mà dân Nước Mặn không làm sao chấp nhận được: giàu và chết, trẻ và chết, con nít và mộ lớn. Bù đắp cho cuộc đời ngắn ngủi của nó, người ta xây cho nó ngôi mộ tráng lệ, ngói lợp mái che, xung quanh ốp gạch men, bia đục từ đá hoa cương, nền mộ rộng đủ cho chục ngoài người ngồi bày tiệc.
Trạc tuổi Biền, Thản là đứa duy nhất tỉnh bơ, không cồn cào tính chuyện rời khỏi mảnh đất hình ụ mối nằm tách biệt bởi một cửa sông, nhìn như bị thất lạc khỏi lục địa, trong tư thế sẵn sàng hiến thân cho biển. Đám thanh niên còn lại mỗi đêm nằm nghe tiếng còi xe ướt mèm quốc lộ, nghĩ một nơi chốn xa lạ nào đó, mà tụi nó nay mai sẽ văng mình vào.
Nhưng Ái sắp bị nuốt sống bởi một xứ sở xa đến nỗi chỉ nghĩ thôi, cũng vô vọng.
“Đừng đi”.
Biền không chắc mình có thốt thành lời hay chỉ là ý nghĩ nhọn lên. Ái chẳng vẻ gì nghe thấy. Giả dụ có nghe, thì chuyện đó đã được định đoạt rồi, rất sớm, ở trong một cuộc tính toán mà Biền chẳng có cơ hội can dự vào. Sau đó, đơn giản chỉ là báo tin.
“Đàn ông ở đó ăn trầu”, giọng Ái vô vị, ngón chân cái gại vào gan bàn chân cậu bạn.
Biền nghĩ tới những cái lưỡi đỏ, hàng răng đỏ, vòm miệng đỏ. Một ngày nào đó, chúng sẽ sục khắp người Ái, làm ố thịt da cô bằng vị cay và chát của cốt trầu.
“Đi chung đi”, Biền nói, mắt ngó nhanh về phía cuối nhị tì, nơi má nó nằm, lùm lùm mộ đất. Khó mà nhìn thấy chòm mộ nghèo khuất giữa những bụi xương khô. Vào giây phút cuối cùng của người đàn bà cả đời túng thiếu, bàn tay nắm chéo áo Biền lỏng dần, bà thì thào: “Đừng bỏ má”. Biền thường cho rằng má nói trong mê sảng, và nó chẳng chịu trách nhiệm với cái gọi là di ngôn đó, vào mỗi lần rủ Ái trốn đi. Nhưng cô bạn gái chưa bao giờ nghĩ ý tưởng ra đi cùng nhau là nghiêm túc, cô không trề môi thì cũng cười khan,
“Đi đâu?”.
“Tính sau. Đâu cũng được”.
Biền không có kế hoạch nào.
“Phải đi, mới biết”, nó cố khống chế sự ê chề chát đặc ở chân răng.
Nhưng chẳng phải ở cùng nhau thì mọi chuyện sẽ ổn sao, Biền nghĩ vậy, lúc áp mặt vào cổ Ái, nơi duy nhất nó không cắn xé trong những khoảnh khắc tuyệt vọng. Thấy mình có cố vào sâu đến mức nào cũng không sao nhập hai đứa thành một khối. Dải da thịt non xanh của con nhỏ cứ rời ra, trôi đi. Ngờ là do nền đá hoa cương dát trên mộ nọ quá trơn, thử quắp nhau ở những ngôi mộ trơ bêtông hoặc gạch dán đã nứt lở, giữ Ái bằng mọi cách nhưng Biền vẫn cảm giác cô đang chuội khỏi nó.
Suốt cả tuổi mười chín, Biền chỉ loay hoay mỗi một việc: cố định Ái vào mình. Xúi những đứa trẻ rao dài xóm chuyện nó và Ái cặp nhau, Biền đánh dấu lãnh thổ bằng những câu giả như vô tình tiết lộ lúc ngà say, về cái rún thơm, nốt ruồi cuối xương cụt cô bạn gái. Đám trai xóm dần dạt ra khỏi Ái. Nhưng ý nghĩ cô bạn là của mình, chỉ ẩn hiện những lúc Biền đặt bàn tay cục cằn chiếm hữu cánh cổ muốt của cô bạn. Bàn tay không bao giờ ngủ, canh giữ đứa con gái với sự si mê gần như độc lập với Biền.
Và bàn tay cũng nuôi giấu nỗi tuyệt vọng riêng, khi làm rơi cái vali đỏ bầm mà Ái nhờ nó đỡ lấy khi ở chợ về.
“Không biết xếp gì cho đầy”, đứa con gái thở hắt.
Đội vali lên đầu, Biền thấy mọi thứ thật rõ ràng, chuyện Ái trôi đi không còn là cảm giác.
“Đừng đi”.
“Cũng phải sắm đôi giày coi được”, Ái rướn cổ ngó khối hình chữ nhật đỏ thẫm nằm trên nền mộ trong lúc Biền hối hả lột vỏ cô ra. Tụi nó không kịp ghé nhà.
Nghĩ có thể kịp gieo vào bụng Ái một đứa trẻ, Điền quắp cô nhiều hơn một lần. Như mọi khi, chính nó là người kiệt sức trước. Ái vẫn một sắc xanh bình thản, dù có thêm mấy vết cắn còn nguyên dấu răng trên người. Sau cuộc mệt nhoài, cô cứ để mình trần nằm xoãi ra, mắt nhắm nghiền như đợi âm thanh nào đó từ phía xóm có thể chui thủng xuyên qua cái chạng vạng lặng ngắt của nhị tì. Cái thời khắc mà tiếng một đứa trẻ khóc vẳng lại cũng quá sức. Khoảng cổ ngó sen, cô mặc cho tay Biền bồn chồn.
“Không được sao?”.
“Gì?”.
“Ở lại”.
Ái im lặng, uể oải duỗi người, đổi tư thế nghiêng sang trái. Bóng tối ở những bụi cây xương khô đậm đặc hơn, thành khối. Thứ cây tẻ nhạt đến mức phi thường. Không tiếng động nào khi gió qua, lá hoa nghèo nàn không dễ nhận ra, bốn mùa chỉ mỗi mang độc cái dáng vẻ vô cảm, thảm hại. Hồi đầu thì người ta trồng làm rào, giờ thì có vẻ chúng mọc tung tóe khắp nơi. Đi qua một hàng rào xương khô bao quanh bãi cát mọc đầy cỏ lông gà, người ta biết ở đó từng có một ngôi nhà. Họ đã dời đi, chỉ còn rào bọc lấy trống không.
Từ bãi sụt, cát lở, nghêu biến mất, khách du lịch không còn xuất hiện ở bến thuyền, sóng hung bạo vỗ vào dải bờ Đông hẳm đứng. Người Nước Mặn lần lượt rời đi. Như là một cách sống sót. Những chuyến xe đêm đón khách ở cầu Rượu quá quen với cảnh hành khách lút trong đống hành lý chuyển dời. Không thể nhổ ngôi nhà theo, họ mặc kệ nó cho bầy gió mặn và khùng. Người ở lại, với chút tôn trọng những kẻ trốn chạy, nán chờ cho đám mối tràn lên chân vách mới xông vào tháo dỡ căn nhà bỏ hoang, đem về làm củi chụm.
Thỉnh thoảng trong đám đào thoát có người quay lại, mang theo những viễn cảnh huy hoàng, tiếp sức mạnh cho tụi nhỏ hãy còn sợ hãi và do dự. Và một chị đàn bà xóm giữa biệt dạng cũng lâu, cuối mùa mưa bất ngờ hiện nguyên hình, lôi kéo cô gái của Biền tới một nơi mà nó không thể đi cùng. Không cần nói gì, chị ta thuyết phục Ái bằng sự lấp lánh của mình.
“Qua đó kiếm tiền dễ như không”, chị cười trong tiếng trang sức khua.
Dân Nước Mặn chỉ biết xứ sở nọ qua một bộ phim cũ nhèo chiếu trên truyền hình, về một xóm vắng nơi người đàn ông mù sống cùng với đứa trẻ bị dì ghẻ bạo hành, một người đàn bà bị xua đuổi trong quá khứ, cùng với cô gái dở dại dở điên. Cả bài hát trong phim cũng không có chút sinh khí, rặt hắt hiu.
“Đừng đi”.
“Chỉ người chết mới ở lì cái xứ này”, Ái thở dài. Nghe được một luồng khí chảy qua vùng họng con bạn, Biền muốn cãi nhưng cảm thấy đơn độc. Những ngôi mộ trong khu nhị tì đã đứng về phía cô gái, lúc này đã mặc áo vào, buộc lại mớ tóc xổ tung.
“Biết lấy gì nhét cho đầy?”.
Ái nói, khẩy chân vào cạnh vali, thõng tay bỏ đi trước. Biền sẽ là người vác khối trống rỗng đó, lút cút đưa đến tận đầu rào. Liều lắm thì chỉ tới cổng. Nó không được chào đón trong nhà Ái, họ chưa quên những vụ ẩu đả giành nghêu của bìa Nước Mặn thời hoàng kim, mà cha Biền đã gây không nể tình cắm lên người họ vài ba vết sẹo.
Đêm đã no căng đến phía bên kia trảng cát. Đi sau Ái, Biền không còn thấy rõ vùng gáy cô bạn với mớ tóc con dã dượi và nốt ruồi son mọc ngay đầu hõm lưng. Ái cũng như những cây xương khô đã ẩn mình hoàn hảo vào đêm tối, đến nỗi khó phân biệt. Không nhờ mùi mồ hôi Ái đậm nhạt theo gió, Biền nghĩ cô đi lạc rồi.
Vượt qua khỏi vùng tối thẫm này, là ngày mai. Thời hạn Ái bỏ đi gần lại. Mai Biền vẫn ra bến đò ngồi chờ khách, nghe ông già bán nước mía than vãn giờ không còn nhớ khách du lịch trông như thế nào, họ có bốn hay ba chân. Suốt năm nay Biền lì lợm ngồi đó với chiếc đò máy bạc đi, thuyết phục Ái cùng người nhà cô và cả chính mình, rằng nó có một công việc khá ổn. Thêm cả chục ngoài giồng khoai lang ngoài vườn đang xuống củ, và nhà của nó trụ được giông gió phải đến chục năm nữa, mới phải sửa sang.
Giờ Biền biết ra bến đò ngồi còn ý nghĩa gì, bởi sự thật, chỉ người chết mới chịu ở lại bìa cát mặn này. Biền bắt đầu nghĩ về chuyện đó, hết sức nghiêm túc.

Xem Thêm :

Giải Thưởng "Văn học Đông Nam Á xuất sắc nhất năm 2024”. Cùa TC.Văn Học Điền Trì (Vân Nam-TQ )
 

27 thg 9, 2024

Thơ XH : Vườn Thơ Mới Kỳ 155 ,Bài Xướng : TRĂNG KHUYA -Hương Lệ Oanh VA

Tranh Hứa Xuân Trường

 Bài Xướng :

Trăng Khuya


Trăng khuya vằng vặc sáng lung linh
Cảnh vật xung quanh thật hữu tình
Thanh vắng chơi vơi hồn lạc lỏng
Bao la rộng lớn khắp hành tinh
Dạt dào thấu hiểu lòng nhân thế
Trong sáng mơ màng thệ chứng minh
Ngày ấy xa rồi lòng rộn rã
Dưới trăng đẹp lắm thuở thanh bình

Hương Lệ Oanh VA

Họa 1:

Trăng xưa 

Rừng rậm âm u cảnh hiển linh
Tường đông lửa lựu ngát hương tình
Hồn quê quạnh quẽ đời dâu bể
Xuân sắc đong đầy nắng thủy tinh
Cầu Thệ Thủy, đêm trăng bóng rũ
Bến Vân Lâu đợi, tiết thanh minh
Hương xưa một thoáng còn lưu luyến
Núi Ngự tròn trăng đẹp thái bình.

Nguyễn Cang

Sept. 16, 2024

Họa 2:

Chim chìa vôi

Văng vẳng đâu đây tiếng tích linh
Chim kêu báo hiệu rất vô tình
Trăng khuya ẩn hiện nơi đầu ngõ
Tuyết trãi sân nhà chiếu trắng tinh
Động vật trời sinh ai biết được
Bản năng thiên phú rất thông minh
Chìa vôi tên gọi nơi dân dã
Nhảy nhót vui chơi cảnh thái bình

PTL
tích linh 鶺鴒: chim chìa vôi. Người ta còn gọi nó là Tuyết cô 雪姑 vì khi nó kêu thì tuyết rơi và nó thich ăn tuyết


Họa 3:

Mạt Pháp

Đại Đức Ba Vàng dựng chuyện linh
Cúng dường bá tánh quá thâm tình
Phước sương tràn ngập Thầy vô đạo
Biến chất sãi sư thái hoá tinh
Mạt Pháp nhiễu nhương sầu biến chất
Mãn Thời hỗn loạn kiếp vô minh
Kẻ còn tim óc lòng tơi tả
Phép lạ ban cho tựa thủy bình

THT

Phước sương 福 : thùng chứa đựng phước.

Mạc Pháp: Mạc  là cái ngọn, pháp là giáo lý của 1tôn giáo. Mạc Pháp là thời kỳ cuối cùng của chính pháp, còn gọi là mạc thế末世

Thủy bình 水平 nước phẳng

Đại Đức Ba Vàng:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch_Tr%C3%BAc_Th%C3%A1i_Minh

Họa 4:

Trung thu thuở ấy


Tiếng trống múa lân đón phước linh,
Đêm rằm tháng tám đượm bao tình.
Hoa đăng dưới phố đầy kim tú,
Nguyệt tỏ tầng không mãn thủy tinh.
Trẻ nhỏ rước đèn trong bóng tối,
Tao nhân phó hội tới bình minh.
Trà thơm bánh mứt bình thơ phú,
Trai gái đàn ca cảnh thái bình.

Mỹ Ngọc.

Sept. 17, 2024.

Họa 5:

Trăng nhớ

Vằng vặc đường trăng bóng diệu linh
Dáng in bến cũ đượm thâm tình
Bâng khuâng rảo bước trên đường vắng
Khắc khoải thả hồn trước lối tinh
Nhớ mãi vòng tay thời thiện mỹ
Thương hoài nụ thắm thủa anh minh
Miên man chợt tĩnh dừng chân hỏi
Đêm đã tàn canh bóng nguyệt bình

Sept. 16, 2024

TQ


Họa 6:

Vịnh trăng

Chú cuội ôm cành đa hiển linh,
Lên chơi trăng sáng biết bao tình.
Địa cầu xoay chuyển xuân - thu - hạ…
Vũ trụ giao hoà nhật - nguyệt - tinh.
Vầng ngọc khuyết tròn luôn trác tuyệt,
Máy trời đặt để quá thông minh.
Che rèm ẩn mặt khi mưa bão,
Gợi hứng thi nhân mộng thái bình.

Minh Tâm


 Mời Xem :

Vườn Thơ Mới Kỳ 154 : Bài Xướng : ĐỌC SÁCH -PTL

NÓI LÁI: -GS.Nguyễn Hừu Phươc

Một dạng đặc biệt trong tiếng Việt
Ts. Nguyễn Hữu Phước
Nguyên Hiệu Trưởng Trường Sư Phạm Saigon
 
Dẫn nhập
 
Buổi hội ngộ hiếm có
Vào đầu thập niên 1990, Tiến Sĩ Lê Văn, lúc đó là Cố Vấn cho Bộ Giáo Dục California, có tổ chức một buổi hội thảo về “Những chuyện vui trên đường hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ (HK)”. Diễn giả gồm nhiều giáo chức Việt Nam cư ngụ rải rác nhiều nơi ở HK và Canada. Tôi được tham dự với tư cách một thuyết trình viên. Sau một ngày hội thảo, chia xẻ những mẩu chuyện vui với các hội thảo viên, chúng tôi có dịp dùng cơm tối chung do ban tổ chức khoản đãi. Tôi ngồi cạnh Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa. Thật là một buổi hội ngộ hiếm có của một số đồng nghiệp cũ.
Câu chuyện trong bàn ăn là những chuyện hàn huyên xen lẫn với nhiều chuyện vui trên đường định cư. Tôi kể ra một số những tiếng lái, câu lái và những lối nói lái gọi là góp phần trong một buổi tiệc hiếm có. Lẽ dĩ nhiên là có một vài tiếng lái và một vài câu lái không được thanh tao lắm. Nhưng các đồng nghiệp trong bàn có vẻ vui vẻ vì câu chuyện nói lái. Điều đặc biệt là GS Hòa có vẻ cũng thích những câu nói lái. Ông lấy bút, giấy ra, bảo tôi “bớt ga xăng” để ông ghi chép. Tôi nói với ông là còn nhiều câu khác mà tôi có nghe đến, có vẻ kém lịch sự hơn vì trắng trợn hơn. Ông nói không sao, chúng ta đang học hỏi, chia xẻ những chuyện vui, ghi lại những gì mình biết là điều tốt trong việc lượm lặt những mẩu chuyện do dân chúng truyền khẩu. Tôi nổi hứng hứa liều: GS khỏi ghi chép, tôi sẽ viết thành một bài gởi đến GS để đăng báo nào cũng được. Ông nói gởi đến cho Ông hay gởi cho báo nào cũng chẳng sao, miễn là nhớ ghi lại và phổ biến để góp phần cho vui.
Rồi thời gian trôi qua, cuộc sống quá bận rộn, và rồi tháng nầy chầy tháng khác, năm nọ kéo năm kia, và nghề nghiệp lại không dính dáng gì tới khung cảnh nghiên cứu, tôi đành tự nhủ là khi nào rảnh rổi sẽ viết. Rồi tôi lại nghe nói GS về California. Cùng với một số giáo sư khác như GS Lê Văn, GS Nguyễn Khắc Hoạch v.v., ông mở Viện Việt Học. Và sau đó tôi đọc tin GS Hòa qua đời. Tôi cầm tờ báo có cáo phó, ngẩn ngơ. Món nợ tinh thần nầy làm sao trả được.
Cách đây vài năm (2000), tôi về hưu, rời vùng South Pasadena, và định cư ở Orange County. Giờ đây tôi có một số giờ nhàn rổi nên tôi cố gắng viết lại bài “nói lái” nầy và giao nó cho GS Lê Văn*, cố vấn của Viện Việt Học. Người anh khả kính nầy đã là “xếp” của tôi, và nhà tôi, trong nhiều năm ở Đại Học Sư Phạm Saigon. Hơn nữa, Tiến Sĩ Nguyễn thị Bảo Xuyến (bà Lê Văn) lại là Phó Viện Trưởng Viện Việt Học. Như vậy tôi đã có dịp làm tròn lời hứa với GS Hòa một cách gián tiếp, và cũng để góp chút xíu những điều lượm lặt nói lên sự phong phú và tính cách đa dạng của tiếng Việt.
(*Gs Lê Văn qua đời vào cuối năm 2009, khi chúng tôi edit lại bài nầy để gởi đến Web NKLT)
 
Nói lái và văn tiếng lái
Không biết văn nói lái hoặc việc dùng tiếng lái trong văn nói và văn viết có từ bao giờ. Riêng tôi, tôi đã nghe, bắt chước và dùng nói lái từ lúc còn học tiểu học vào thập niên 1940. Sau nầy đọc sách mới biết rằng lối nói lái đã được dùng từ lâu hơn tôi tưởng. Người ta nói lái để chơi chữ, để bông đùa giữa bạn bè với nhau, để châm biếm vô hại một sự việc gì đó cho vui, hoặc châm biếm một người khác mà không dám nói trực tiếp. Ngay cả trong việc đặt tên hiệu hoạêc thương hiệu cũng có dùng tiếng lái như trường hợp của nhà thơ Thế Lử với tên thật là Nguyễn Thứ Lể. Thế Lử là tiếng lái của Thứ Lể.
Tôi xin thưa trước: Những chuyện cười thì phải có người nói và người nghe. Người nói phải có tài nói chuyện vui. Phải lựa chuyện cho đúng với thành phần thính hay khán giả thì câu chuyện mới được thưởng thức. Còn nến viết chuyện cười để cho thiên hạ đọc thì chưa chắc tất cả người đọc đều cười và đôi khi còn nghe chê là chuyện cười nầy hay chuyện cười kia “dở ẹt”. Nhưng cũng câu chuyện dở ẹt đó mà do một người có tài kể, và kể đúng lúc, đúng trường hợp thì lại là chuyện hay.
Cũng y vậy, đã gọi là “nói lái” thì phải nói đúng chuyện, đúng lúc, đúng nơi, đúng với thành phần thính giả thì may ra mới được thưởng thức. Nhưng vì đây là bài sưu khảo nên tôi phải viết tất cả những chuyện gì mà tôi có thể ghi lại theo trí nhớ, hoặc ghi ra từ những tài liệu khác. Đọc bài nói lái chắc chắn là dể nhàm chán hơn là nghe nói lái. Xin quý vị chịu khó đọc hết để thấy nhiều dạng khác nhau của việc nói lái.
 
Nói lái trong một số sách vở
Từ đoạn nầy trở về sau, “chữ” (còn gọi là “từ” hay “nhóm chữ” (cụm từ)”, hoặc câu thơ nào có thể viết tiếng lái ra, tôi sẽ viết. Nếu cảm thấy bất tiện vì tiếng lái có vẻ quá “tả chân” hay gọi là không được thanh tao, tôi xin miễn viết ra để gọi là tôn trọng cả những người cho rằng không nên viết những từ có vẻ… quá trớn. Tôi chỉ tô đậm, hoặc gạch dưới những từ có thể hiểu theo nghĩa lái, hoặc không gạch dưới gì cả.
 
Nói lái tiếng Pháp
Ông Lãng Nhân, trong quyển Chơi Chữ (5) có nhắc chuyện nói lái bằng tiếng Pháp. Chuyện rằng, có một cặp vợ Việt, chồng Pháp vào hàng tranh sơn mài. Vì chủ nhân nói thách quá nên vợ rỉ tai chồng: “très chaud, très chaud (nghĩa đen: nóng quá, nóng quá). Chồng lật đật chọn tranh, trả tiền nhanh để ra ngoài cho bà vợ được mát hơn. Vợ trách chồng khi ra khỏi cửa “ Đã bảo đắt quá mà còn mua”. Chồng nói là có thấy vợ kêu đắt đâu. Vợ bảo có nói rồi “très chaud” là “trop cher” (mắc quá). Bà ấy đã nói lái theo kiểu VN, chắc chắn là “bố” của anh chồng cũng không hiểu được.
 
Nói lái cho vui về nguồn gốc của một người
Ông Nguyễn Ngọc Huy, trong quyển Tên Họ Người Việt Nam (😎, có thuật câu chuyện đại khái như sau:
Ngày xưa có nhiều người VN từ miền Trung tiếp tục vào Nam lập nghiệp. Dân Nam, vì không biết rõ địa lý miền Trung, gọi chung những người mới vào sau là “người Huế”. Có nhiều người Huế làm nghề thầy lang lưu động. Một thầy lang nọ tuy còn trẻ, nhưng mát tay đã chữa lành cho một phú hộ. Ông phú hộ cảm ơn thầy lang bằng cách gã con cho thầy. Ông lại giúp vốn cho mở tiệm thuốc bắc. Chú rể nhờ cha vợ đặt tên cho hiệu thuốc của mình. Ông cha vợ đặt tên tiệm là “Thế Hoằng Dược Phòng”. Ông giải thích cho rể đại ý là nó làm việc cứu người nên đời mở rộng ra (thế = đời; hoằng = rộng). Chú rể rất hài lòng.
Khi có người khác hỏi ý nghĩa của hai chữ đó, ông cười và nói : Rể tôi là người Huế, tôi đặt hiệu tiệm Thế Hoằng là để nhắc cho nó nhớ gốc gác nó là Thằng Huế. (Trong trường hợp nầy nguyên âm “o” trong chữ “hoằng” đã được thay thế bằng nguyên âm “u” trong chữ “Huế”. Đây chỉ là đọc cho thuận tai mà thôi, chớ lúc nói lái không ai nghĩ đến việc thay đổi nguyên âm hay phụ âm, hoặc thay đổi “dấu” gì cả.
 
Nói lái vì tục cữ tên
Cũng trong quyển sách trên, GS Huy còn nhắc đến một câu chuyện “nói lái” khác do tục cữ tên mà có. Ngày xưa, thời chữ nho còn thịnh, dân Việt có tục cữ tên hay còn gọi là kỵ húy. Thí sinh của các kỳ thi trước năm 1920 là những nạn nhân đầu tiên. Nếu bài làm không tránh những tên cấm kỵ thì chẳng những bị đánh rớt mà còn có thể bị các biện pháp chế tài khác. Nạn nhơn thứ hai là những người cầm bút. Và nạn nhân thứ ba là các gánh hát. Tục cữ tên ảnh hưởng sâu rộng trong dân chúng. Theo GS Huy thì dân chúng đã phản ứng lại bằng cách dùng tiếng lái.
Số là vào những thập niên 1940-50 có những đoàn hát bội lưu động đi hát ở các miền thuộc “Lục Tỉnh”. Trước khi đến một vùng nào thì bầu gánh phải lấy danh sách của các chức sắc nơi đó để khi hát, những diễn viên phải tránh tên trong danh sách đó hay đọc trại đi. Thí dụ tên của ông cai tổng là Nguyên thì khi hát, tất cả những chữ “nguyên” đều được đổi ra “ngươn” vì tên Nguyên phải cữ để tỏ sự kính trọng.
Có một gánh hát đến một làng nọ để hát trong dịp lễ “kỳ yên.” Các vị hương chức trong xã họp bàn về việc cữ tên. Hội đồng xã đồng ý là để cho tuồng hát được hay, miễn cho đoàn hát khỏi cữ tên các chức sắc, trừ tên hai anh em của hai vị hào mục tên Hòa và tên Hóa. Hai ông nầy rất hách dịch, nhứt định là đoàn hát phải cữ tên của hai ông. Những người trong gánh đồng ý.
Nhưng để chơi xỏ hai ông này, họ thêm một màn diễu. Trong màn nầy có hai người đối đáp, một người đóng vai lính. Người kia hỏi là trong quân ngũ, lính được ăn món gì thường xuyên. Anh lính đáp: “Hoặc ăn cà, hoặc ăn cá.” “Những người lanh trí hiểu đó là câu nói lái để móc họng ông Hòa và ông Hóa đều ôm bụng cười, trong khi hai ông này giận muốn hộc máu mà không làm gì được gánh hát.” (😎 (Xin thưa thêm cho rõ nghĩa: hoặc ăn cà = Hòa ăn c.t; hoặc ăn cá = Hóa ăn c.t.)
 
Tiếng lái có nghĩa riêng
Trong một video mà ông Nam Lộc và cô Nguyễn cao Kỳ Duyên là MC (rất tiếc không nhớ video tên gì), ông Nam Lộc phỏng vấn ca sĩ Chế Linh. Ông có hỏi ca sĩ rằng hồi ở Saigòn, những người ngưỡng mộ có gọi đùa ca sĩ Chế Linh là ca sĩ “Lính Chê”, ca sĩ Chế Linh có giận không?” Ca sĩ Chế Linh trả lời là ông được miễn dịch (lính chê) vì là thuộc sắc tộc thiểu số Chàm, và không phiền hà gì với tên riêng đó. Tôi chắc là ông Nam Lộc cũng thừa biết là từ “lính chê” là tiếng lái của Chế Linh. Tiếng lái nầy lại trùng hợp với tình trạng quân dịch của ca sĩ Chế Linh.
 
Nói lái đơn giản về người, thú vật và những chuyện hằng ngày
Trong video Vân Sơn số 3, trong hài kịch Ông Ninh Ông Nang (12) (không thấy để tên tác giả) có một phần đối đáp sau đây giữa các hài kịch viên toàn là câu lái, rất đơn giản và rất dể hiểu về thú vật (cá, chim, chó, mèo), về người (bà già, ông già, trẻ em, cô dâu, chú rể ) và các điều khác.
Con cá đối nằm trên cối đá;
Mèo đuôi cụt nằm mụt đuôi kèo
Chim mỏ kiến nằm trên miếng cỏ;
Chim vàng long đá tại vòng lang
Chim sáo sọc chê anh sóc sạo;
Con chó què chân bị cái quần che
Cô bé mập ú là nhờ mụ ấp;
Thằng nhỏ ốm tong vác cái ống tôm
Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ;
Sáng sớm bà Hạt đi bán bạc hà
Cô nàng dâu hứa đi mua dưa hấu;
Chàng rể bảnh trai ngồi tại bãi tranh
Người mặc áo xanh chính là anh sáu;
Miếng thịt băm nát trong bụng bác năm
Anh chàng sức môi ngồi ăn xôi mức ;
Cô gái mồm to lặn lội mò tôm
Nhờ cái búa đỏ chẻ thành bó đủa;
Cái nồi cơm thiêu lại dám kêu thơm
Tấm hình lộng kiến ai đem liệng cống;
Cô gái muốn chồng ngó cái mống chuồn.”
Đến đây đã hết những câu lái trong Video Vân Sơn, nhưng câu chót làm tôi liên tưởng đến câu lái khác cùng ý nghĩa: “Mống chuồng mọc giữa đồng chòi. Cái mống mọc ở giữa đồng bình thường như chuyện “muốn chồng” thì “đòi chồng” phải không quý vị ?
 
Các nhà văn (hiện đã già, hoặc đã ra đi rồi) viết lái
Trong quyển “Hơn Nửa Đời Hư” (13) ông Vuơng Hồng Sển dùng tiếng lái nhiều lần. Thí dụ “bất quá là bá quốc” (trang 465); “ủ tờ” (tiếng lái của từ ở tù, trang 477); và “mống chuồng” (tiếng lái của “muốn chồng” trang 519) v.v... Ngoài ra, ở một đoạn khác, để nhắc lại kỷ niệm chuyến Đông du thăm Đài Loan và Nhật của ông cùng vài người bạn Pháp, cũng trong sách nầy, ông có ghi lại chuyện ở khách sạn Nhật. Ông và người bạn Pháp không quen mặc áo kimono đã để sẵn trong tủ cho khách trọ. Ông có dùng hai tiếng lái, với vẻ đùa cợt mà tôi xin miễn “thông dịch”, như đã hứa; trừ gạch dưới hai tiếng lái là do tôi thêm, nguyên văn câu ông viết như sau:
“Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẵn cho khách mượn, Meken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa “lù coi” đứa “lắc cọ”, áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười” (trang 590).
Công Tử Hà Đông (CTHĐ), báo Người Việt (1), dùng tựa đề “Saigòn Tạp Pín Lù” (tên một cuốn sách của ông Vương Hồng Sển), để phê bình nội dung của cuốn “Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam” của ông Sển. Bài báo nầy đã kể ra nhiều tiếng lái. Có tiếng từ sách của ông Sển, đã được tác giả bài báo trích dẫn như “xe u mê”:
“Xe u mê: tiếng lóng để gọi xe thổ mộ, vì sàn xe bằng gỗ cứng, khách ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ đều phải ê mu, nói lái cho bớt tục.”
Có nhiều tiếng lái khác, và những tiếng đặc biệt được dùng thời tác giả CTHĐ sống ở Saigòn. Ông đặt câu hỏi cho chính ông là:
“Tại sao tôi không ghi lại với lời giải thích những tiếng, những thành ngữ sinh động, rung rinh âm thanh, lung linh màu sắc trong tiếng nói của dân tộc tôi, trong thời đại tôi?”
Ý kiến của ông rất hay vì những từ mà ông kể ra rất độc đáo, vì có tính cách rất là Sàigòn. Trong số những tiếng đặc biệt đó, có một số là tiếng lái như: liệng cống, dấm sủ, chai hia, chà đồ nhôm. Xin được trích dẫn sau đây cụm từ lái chà đồ nhôm, một thành ngữ lái có tính cách lịch sử, tả cảnh nghèo đói của dân Sàigòn, sau khi được phỏng dái (giải phóng), phải đem bán bất cứ vật gì có thể chôm (lấy) được trong nhà.
“Chà đồ nhôm: chôm đồ nhà, tiếng Sàigòn những năm sau 1975, ... Thời ấy Sàigòn có câu phong dao:
Đi đâu bỏ con ở nhà?
Hỏi em em nói: Đi chà đồ nhôm
Đi đâu tay xách, nách ôm?
Hỏi em em nói đi chôm đồ nhà.” (1)
 
Giai thoại về nói lái của Trạng Quỳnh
Trong một số sách khác, tôi nhớ là có đọc một số chuyện vui liên quan đến “Trạng Quỳnh”. Ông hay nghịch ngợm, chọc phá nhiều vị chức sắc trong triều, kể cả con vua và vua nữa. Đại ý chuyện truyền rằng một hôm nghe công chúa đi dạo ngoài thành. Trạng Quỳnh đứng đón công chúa ở gần bên một cây cầu. Khi công chúa đi ngang qua cầu thấy ông Trạng nhà ta lấy chân đá nước văng tung tóe. Công chúa hỏi ông đang làm gì đó? Ông trả lời là ông đá bèo cho vui.
 
Nhà thơ Hồ Xuân Hương nói lái
Tôi cũng nhớ có đọc nhiều lần trong các sách nào đó, thơ của Hồ Xuân Hương (HXH). Nữ sĩ họ Hồ nầy là vua về thơ lái. Thơ lái của bà được ghi lại trong nhiều sách vở về văn chương Việt Nam. Gần đây đọc quyển “100 Năm Phát Triển Tiếng Việt” (9), tác giả Phụng Nghi có ghi lại bài thơ “Kiếp Tu Hành” của nữ sĩ họ Hồ:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền tình cũng muốn về tây trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
Ngoài ra tôi còn nhớ vài câu sau đây của HXH: (nhưng không nhớ tựa bài thơ)
Đang cơn nắng cực chửa mưa hè
Rủ chị em ra tát nước khe…
Hoặc:
Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
 
Các nhà thơ khác dùng tiếng lái
Theo sách vừa dẫn (9) thi sĩ Thảo Am Nguyễn Khoa Vy ở Huế có bài thơ như sau:
Nực cổi chi ra nổi cực lòng,
Dòng châu lai láng dĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó,
Công khó nhờ ai biết có không
Ông Huy Phương (3) trong bài “Nói Lái Mà Chơi” cũng có ghi một bài thơ nói lái nổi tiếng khác của thi sĩ Nguyễn Khoa Vy:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vãi
Dầu sãi không tu cũng giải sầu
(Ông Huy Phương chú thích: Na bường bát tới = mang bình bát tới, nói giọng Huế)Ngoài ra trong bài “Nói Lái Mà Chơi” còn có một bài thơ rất hay tựa đề “Trông Trời” mà Ông Huy Phương nói không biết tác giả là ai.
“Cô kia sao cứ trông trời
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì!
Đọc xong bài trên, các bạn có tìm thấy ý nghĩa của tiếng lái không? Nếu không xin các bạn đọc câu chú thích của ông Huy Phương. Ông có ghi rõ là bài thơ nầy muốn nói lái phải đọc theo giọng Bắc hai chữ “trông trời” = “chông chời”.
 
Nói lái bằng câu đối
Trong sách Miền Đất Hứa (10) anh Trà Lũ (tôi gọi anh vì Trà Lũ là bạn dạy học cùng trường với tôi trước 1975) có ghi câu đối sau đây, câu đối vừa chơi chữ cách đối vừa chơi chữ bằng cách dùng tiếng lái:
“Gái Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi”.
Khi nghe câu đối trên, anh Trà Lũ đã kêu cứu “xin các cụ giúp tôi với”? Quý bạn thừa hiểu là từ Củ Chi đầu là một địa danh gần Saigòn; củ chi thứ hai ở cuối là câu hỏi (củ nầy là củ chi vậy?) Còn từ chỉ cu vừa là một động từ, vừa là tiếng lái của cả hai từ cùng âm “củ chi”.
Cũng trong sách đó, ở một đoạn sau, Trà Lũ có nói rằng một số đọc giả viết thư “gà” cho anh 2 câu như sau gọi là đối lại với câu trên:
“Trai Thủ Đức thức đủ xin thủ đức” và
“Trai Bắc cực, bú c., than Bắc cực” .
Anh Trà Lũ cho là câu đối sau nghe “khiếp quá, nhưng phải viết ra trình cho các cụ chấm cho”. Hai câu nầy đại khái, không được chỉnh lắm về phương diện đối. Hơn nữa chắc bạn tôi vì tính tình xề xòa nên không để ý rằng tiếng lái của “Bắc cực” là “bức c.” chớ không như ông đọc giả nào đó đã viết. Và nếu dùng từ “bức” thì chắc không có gì “khiếp quá” mà chỉ hơi hơi táo bạo tí thôi. Chỉ ghi nhận cho vui chớ nào dám chỉ trích bạn mình, vì tôi cũng bí như bạn.
Mười năm qua rồi, trên con đường học hỏi về lái tiếu lâm, chưa tìm thấy câu nào hay hơn câu Củ Chi mà bạn đã kể.
Gần đây đọc bài của Ông Nguyễn Đại Hùng (7) thấy câu Củ Chi được ghi như sau: “Đến Củ Chi, chỉ cu anh, hỏi củ chi.” và câu sau ghi là:
“Về Cù Mông, còng mu em, đòi Cù Mông”.
 
Giai thoại về nói lái để hẹn hò qua câu đối
Gần đây hơn, vào mấy tháng đầu năm 2002, kể cả tháng bảy, đọc trong báo hằng ngày tôi thường thấy những tiếng lái, nhưng chỉ là những tiếng rời rạc, cũng vui, nhưng không lồng trong câu chuyện nào đặc biệt, nên tôi không ghi chép.
Tuy nhiên, trong một buổi tiệc sinh nhật tôi có nghe câu đối có tiếng lái. Câu chuyện rằng ở miền đồng quê sông Hậu nhân có buổi gặp gỡ của các thân hào trong làng, rồi trong câu chuyện qua lại, người ta nói về thời sự, đồng án, và văn chương.
Có một chàng nọ, trong câu chuyện về văn chương với một cô, đã nói:
Nguyệt Lão xe tơ, chỉ vàng tốt mối
Nàng đã trả lời là:
Đế Thích nhấp chén rượu trắng tái môi.
Mới nghe qua, tưởng là chuyện câu đối với các điển tích. Nhưng thực sự Nguyệt Lão và Đế Thích chẳng “ăn nhậu” (liên quan) gì đến hai người nầy. Họ chỉ hẹn ngày gặp nhau mà thôi. Chàng hẹn nàng tối mốt (tốt mối). Nàng không chịu, bảo là tối mai (tái môi.)
 
Nói lái qua câu hò đối đáp giữa trái gái
Miền đồng bằng sông Cửu long, vào mùa cấy các thợ cấy nam nữ vừa làm việc vừa vui đùa qua chuyện tiếu lâm, hoặc qua những câu hò đối đáp giữa hai nhóm nam nữ. Ông Nam San (6) có ghi lại một số câu hò có tính cách rất “tả chân” sau đây, trong đó có luôn cả câu có tiếng lái.
Phe Nam:
Thấy em gò má ửng hồng
Phải chi em đừng mắc cở thì anh bồng em hun.
Hoặc:
Nước Tân Ba chảy ra Trà Cú
Em cấy khum lòi vú anh muốn hun
Phe nữ đáp:
….
Phú Điền có chị Tám Hai
Thuyền quyên hò mí, đối trai anh hung.
Tân Ba, Trà Cú, Phú Điền là những địa danh ở vùng đồng bằng Cửu Long. Mới đọc câu chót ít ai để ý đến tiếng lái vì gái thuyền quyên mà đối “trai anh hùng” thì rất là thuận tai và thuận nghĩa. Nhưng “đối trai” nói lái là đái trôi, vừa có nghĩa đen rõ ràng, khỏi giải thích, vừa có nghĩa bóng là phe nữ có cách hò thắng phe nam một cách dễ dàng. (Ông Nam San chú thích rằng: “Hò mí hay hò mép là hò đối đáp, thách thức, vòng vo xuôi ngược, nói lái úp mở nói lên cái ẩn dụ của mình, miễn xuống câu ăn vận, đúng điệu là được.)
 
Giai thoại về học sinh “Văn Bình”
Trong chuyện chơi chữ của các học sinh và những nhà nho mà tôi đã đọc, thì chuyện sau đây (tôi nhớ không được rõ ràng về chi tiết và tên tuổi) nói lên sự đùa cợt bằng tiếng lái. Chuyện rằng có một nhà nho nọ văn hay, chữ tốt, thi đậu cao, nhưng không chịu ra làm quan mà chỉ về vườn vui thú việc dạy học. Có một anh học trò nọ rất hay chữ và tự cao về tài của mình. Anh ta tên là Văn Bình. Anh đi tìm nhà nho nọ để thi thố tài đối đáp của mình.
Trong lúc đi trên các con đường quê quanh co, anh ta gặp một ông câu cá, anh ta hỏi thăm lối đi. Ông câu hỏi tìm gặp nhà nho làm gì? Anh sinh viên đáp là để đối đáp văn chương. Ngư ông nói nếu anh sinh viên đối được câu đối của ông thì ông sẽ dẫn đến nhà của nhà nho. Ông giao điều kiện là khi ra câu đối, ông chỉ nói ra từng chữ một và anh sinh viên phải đối lại từng chữ một. Anh sinh viên bằng lòng. Những chữ của câu đối là:
“Võ trắc đáo nam cô”.
Anh sinh viên đối từng chữ là:
“Văn bình lai bắc cụ”
Vì khi đối là đối từng chữ một nên anh sinh viên không thể biết nội dung của cả câu. Khi xong, ngư ông bảo anh sinh viên đọc cả hai câu xem nghĩa là gì và giải thích cho ông nghe. Đọc lại, thấy câu đầu vô nghĩa. Nhưng đọc câu thư hai xong, Văn Bình vốn rất thông minh, biết ông câu dùng lối chơi chữ lái để nhạo anh ta. Anh ta cũng nhận ngay ra rằng chính ông câu là nhà nho mà anh đang tìm. Tôi không nhớ đoạn kết của câu chuyện nầy ra sao, và cũng không nhớ đã đọc ở sách nào.
 
Giai thoại Mã Qui – Qui Mã
Phần cuối của việc trích dẫn sách, có hai tiếng lái đã thành giai thoại rất hay. Trong giai phẩm Xuân Nhâm Ngọ Người Việt, Công Tử Hà Đông (1) có viết bài Mã Qui và Qui Mã . Năm Ngọ nói chuyện mã là đúng quá rồi. Tác giả cho biết là hai từ nầy và câu chuyện liên hệ là do một “cây cười nhân dân nào đó ở Hà Nội” viết ra để làm chuyện tiếu lâm.
Chuyện đại ý là vào đầu thập niên 1980, kinh tế VN xuống dốc phi mã, thê thảm. Người cầm đầu đảng và nhà nước vì lo lắng quá nên đến đền Ngọc Sơn ăn chay xin thần linh báo mộng giúp biện pháp cứu nước. Hai người đều được thần báo mộng. Người đầu thấy con ngựa và con rùa, người kia thì thấy con rùa và con ngựa. Tuy vô thần, nhưng tin mộng và tin .. thầy giải mộng. Hai người bèn nhờ thầy giải thích hộ.
Thầy giảng rằng rùa là qui, ngựa là mã. Ông đầu thấy rùa và ngựa tức thấy qui mã, ông sau thấy ngựa và rùa tức thấy mã qui. Vậy theo điềm mộng thì thần có ý cho hai ông biết là: “muốn cứu vãn nước nhà hai ông phải qua Mĩ xin Mĩ (a) nó giúp, bao giờ Mĩ (a) nó qua nước mình thì tình hình nước mình mới khá được”.
Tác giả bài báo cũng có viết rằng là chuyện tiếu lâm (nói lái) nầy đã ra đời từ những năm đầu của thập niên 1980, khi chưa có dấu hiệu nào cho biết rằng Mỹ sẽ bang giao với VN. Tác giả bài báo đó viết tiếp là: “Hai mươi năm sau, chuyện mã qui qui mã thành sự thật.” Chú thích ( a) do tôi thêm: các từ Mĩ nầy dùng “ ĩ ” vì tiếng lái của qui mã = qua mĩ, và mã qui = mĩ qua).
Với những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy văn chương, văn thơ, trong sách báo hay video đều có nói lái, rải rác đó đây từ Bắc chí Nam, từ quốc nội đến hải ngoại.
 
Những lối nói lái qua tiếu lâm
truyền khẩu, hoặc được ghi chép lại.
Phần tiếp theo đây tôi sẽ ghi thêm những tiếng lái hay câu lái do tôi học hỏi hay lượm lặt trên con đường “tiếu lâm lái”. Ngoài ra nơi nào cần, tôi sẽ trích dẫn sách.
Nói lái trong câu đố
Lúc tôi còn nhỏ, tôi biết được những tiếng lái đầu tiên qua các câu đố. Thí dụ các câu đố sau đây:
a) – Ông cố ngoài Huế ông cố ai? (xuất vật)
b) – Ông đánh cái chen, bà bảo đừng? (xuất vật dụng) Hoặc c) – Ghe chày chìm giữa biển đông, cái nốc nó mất cái công nó còn. (xuất vật) .
Câu a) là “cái ô”; vì cố ai = cái ô. Câu b) là cái “chân đèn”; vì “chen…đừng = chưng đèn. Câu c) là “con còng”, vì “công còn = con còng.
 
Nói lái tên thú vật
Các câu sau đây nói lái về thú vật, thức ăn, địa danh, hay nói đùa cho vui:
Con óc con nhện , con ếch con nhọng;
Con cò con sóc, con cóc con sò;
Con công con rùa, con cua con rồng;
Con cáo con bò, con cò con báo.
Hoặc:
Con cá đối nằm trên cối đá;
Ông cò Lửa đứng ở cửa lò.
Bên trên trong phần trích dẫn video đã có rất nhiều tiếng lái về thú vật.
Nói lái về các loại canh
Về thức ăn, trong bữa cơm của VN thường có ba món chánh: món mặn, món xào và món canh. Sau đây là câu lái đùa về canh:
“Anh Câu Bành đánh lộn với anh Kí Banh, ông Cai Cảnh làm biên bản, giải lên ông Cai Khoanh để thụ lý.”
Các câu trên thật ra là tên của bốn loại canh: canh bầu, canh bí, canh cải và canh khoai.
Nói lái về các địa danh
Về địa danh chúng ta có một số câu sau đây:
Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ;
Chợ Đồng Tranh năm canh đành trông
Hoặc: Ra Thủ Đức năm năm thức đủ
Về Giồng Trôm tháng tháng dòm trông (4)
Hay các câu sau:
Đi chợ Búng coi chừng chúng bợ
Đến Hạ Long rát cổ họng la
Lên Bắc cạn, nghèo đành bán c. t
Vào Ba Thê cuộc sống bê tha
Vượt sông Đuống, xuống Đông lên bắc
Trèo Đèo Ngang trong lúc đang nghèo
Ngoài ra còn có câu sau đây liên quan đến địa danh và nói lái, và có thể dùng câu nầy làm vế đầu của câu đối. Vị nào đối hay xin ban cho một câu đối để chuyện thêm phong phú:
“Nếu chịu Bà Chở , Bà Chở sẽ chở xuống Chợ Bà Chiểu”
“Chở” vừa là tên của một bà, vừa có nghĩa là đem đi bằng một phương tiện giao thông (chuyên chở ). “Chịu Bà Chở” cũng có hai nghĩa: Thích bà có tên Chở hoặc, “đồng ý cho bà đó chở đi”. Tiếng lái của chịu Bà Chở là chợ Bà Chiểu một địa danh rất quen thuộc ở vùng Sàigòn.
Vùng Đồng Nai Cửu Long có hai câu đối rất độc đáo, và nổi danh sau đây để chỉ một chàng trai người Hốc Môn, và một cô gái người Gò Công đang tình tự:
Trai Hốc Môn miệng hôn tay móc,
Gái Gò Công chân gồng cẳng co.
 
Giai thoại nói lái về con Rồng Air VN
Trước năm 1975, hàng không Air VN có dấu hiệu con rồng uốn khúc. Có một thời gian, không biết các cô tiếp viên phi hành có tư cách hống hách với khách hàng thế nào mà các vị viết báo đã cho Air VN một cái nick name (tên riêng hay biệt danh) để đời là Air rồng lộn. Các cô tiếp viên hống hách cũng bị gọi là các cô rồng lộn. Tưởng một thời gian ngắn rồi mọi sự kiện sẽ bị quên lãng. Nhưng khốn nỗi cứ 12 năm thì có một năm thìn, tức năm con rồng, cái nick name nầy lại được viết ra trên báo xuân, thành ra có thể nói đây là tiếng lái được các báo nhắc đến nhiều nhất, một tiếng lái để đời.
Những câu nói lái khác liên hệ đến con rồng.
Ông Đại Ngu (2) có ghi hai câu đối sau đây:
“Con Tiên Cháu Rồng, Lộn xuống hồng trần sung sướng nhỉ.
Mộng hùm thơ Rắn, Sai đâu con tạo đở đần cho”
(Tác giả Đại Ngu có chú thích là chữ lái của “rắn sai” là “Rái săn”, đọc theo giọng Hà Nội âm R thành âm D.
Ông cũng có ghi thêm về giai thoại Tú Mỡ đùa thi sĩ Ngọc Hồ như sau: “Tú Mỡ viết bài thơ trào phúng có hai câu khá tục, chắc đã làm nữ sĩ Ngọc-Hồ phải căm giận:
Hồ tù ngán nổi con rồng lộn
Ngọc vết thương tình kẻ cố đeo”
(Tôi tò mò: Có lẽ bút hiệu Đại Ngu cũng là tiếng lái?)
 
Nói lái để tuyên truyền
Tôi nhớ, có một hôm, theo thường lệ, tôi chỉ đọc lướt qua những tựa của các bài báo. Có một tựa có tên đại khái là: “Không phải thầy tu nhưng rất thù Tây”. Vì chưa đọc bài báo, nên không biết nội dung ra sao. Nhưng vì méo mó nghề nghiệp, tôi nhận ngay chữ thầy tu là tiếng lái của thù tây hay ngược lại. Chữ này làm tôi nhớ đến chữ thầy tăng vì đó là tiếng lái của chữ thằng tây. Số là trong thời kháng chiến chống Pháp giữa thập niên 1940, người ta truyền miệng trong dân chúng hai câu sau đây:
Chừng nào lúa mọc trên chì,
Voi đi trên giấy, rồi đời thầy tăng
Nói lái để cho mật thám không biết. Họ đồn đó là hai câu sấm “Trạng Trình”. Hai câu sấm nầy được truyền miệng giống như ý sấm đã bắt đầu linh nghiệm vì lúa đã mọc trên chì: Pháp cho sản xuất tiền đồng xu và cắc bạc có hình cây lúa; và cho lưu hành giấy bạc một trăm đồng có hình con voi (hình trang 126. Ai có tờ giấy “con voi” trong túi là dân khá giả vì $100.00 đồng lúc đó bằng 5 tháng lương của thầy giáo.
 
nguồn :FB SPSG Xưa
 


 Mời Xem :