8 thg 9, 2024

TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 3)


Đức nhân trong chương 4 Lý Nhân

Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng

Phàm lệ

–         Dịch là của Nguyễn Hiến Lê.

–         Chú thích và Bàn thêm là của Jinsai.

–         Các mục khác là của người dịch.

CHƯƠNG 4 LÝ NHÂN

Bài 4.1 Ngoài việc chọn nơi nhân hậu để ở còn phải chọn đức nhân để làm mẫu mực sống mới là bậc trí giả.

Tử viết: “Lý nhân vi mĩ. Trạch bất xử nhân, yên đắc trí?”

子曰:里仁為美。擇不處仁,焉得知?

Dịch

Khổng tử nói: “Làng nào có đức nhân, là nơi ấy tốt. Chọn chỗ ở mà không lựa chọn nơi có đức nhân, thì sao gọi là sáng suốt được.

Chú thích

Làng có đức nhân đức sâu đậm (nhân hậu) là nơi ở tốt của con người. Khi chọn tiêu chuẩn để sống cả cuộc đời mà không lấy đức nhân làm tiêu chuẩn thì làm sao có thể gọi là bậc trí giả (người có trí tuệ).

Giải thích

Ý bài này nói khi môi trường nơi ở không tốt thì nên nhanh chóng di chuyển đến nơi khác. Những tai hại gây nên do môi trường ở xấu thì nhiều vô số không thể nào liệt kê ra hết được từng cái.

Tuy nhiên người đời ai cũng biết tuyển chọn, phán đoán nơi ở nhưng khi đến việc ứng xử cách sống trong cuộc đời của bản thân thì không biết phán đoán. Do đó không ít người trở thành con người bất nhân (con người không có đạo đức). Mức độ bất trí (không có trí tuệ) này phải nói là rất to lớn! Thành ngữ “không biết nặng nhẹ” là để chỉ loại con người này.

Nhận xét

(1) Điều nên lưu ý trước tiên là cách hiểu ý nghĩa câu cuối của bài giữa Jinsai và cụ Lê khác nhau. Cụ Lê giải thích là “lấy nơi có đức nhân làm chỗ ở” (theo cách giải thích của Chu Hy, người biên soạn Tứ thư). Còn Jinsai thì nói “lấy đức nhân làm cơ sở để làm người”. Câu nói “sai một li xa một dặm” để chỉ trường hợp này chăng?

Theo người dịch thì cách hiểu của Jinsai hợp lý hơn. Jinsai cũng đã công nhận sự quan trọng của việc tuyển chọn chỗ ở và cho rằng người đời thường quan tâm đến việc chọn chỗ ở nhưng lại không lắm quan tâm về việc chọn khuôn thước, mẫu mực để sống, điều mà Mạnh tử thường hay nhận xét về thói quen không tốt của người đời.

Lời nói của thánh nhân ngày xưa thường cô đọng và hàm xúc nên câu sau không lập lại ý của câu đầu tiên, hiểu như thế là hợp lý hơn. Đồng thời việc chọn mẫu mực sống quan trọng hơn chỗ ở thì không cần phải nói nhiều. Phu tử thường nói người quân tử dù nghèo khó khốn khổ vẫn vui vẻ với việc giữ gìn đạo đức (nghĩa là môi trường sống ít ảnh hưởng đối với người quân tử) hoặc dù ở nơi không có đạo đức, người quân tử cũng sẽ cảm hóa được những người ở dó, cũng nói lên sự hợp lý hơn về cách hiểu của Jinsai.

(2) Đối với tầm mức quan trọng của môi trường sinh sống, quý độc giả có liên tưởng đến việc mẹ của Mạnh tử đã phải dời nhà 3 lần, và nhờ vậy mà Mạnh tử mới trở thành bậc á thánh.

Fukuzawa Yukichi trong Phúc Ông Bách Thoại (Trăm Truyện) cũng thường nói “Không Cần Phải Lo Ngại Trình Độ Giáo Dục Của Một Quốc Gia Quá Cao” (Truyện 73) hoặc “Tiền Bạc Không Quý Bằng Giáo Dục” (Truyện 74) (1) v.v…

Sách “The Formula” của Ronald F. Ferguson và Tatsha Robertson (phiên bản tiếng Việt “Đại Công Thức” do Hồng Hạnh dịch, nhà xuất bản Nhã Nam) cho chúng ta thấy rất cụ thể ảnh hưởng của môi trường nơi ở đến sự thành công cả đời của con cái.

(3) Không biết ngày xưa bao có bao nhiêu người như mẹ Mạnh tử làm hoặc như Jinsai nói, là biết quan tâm và biết chọn nơi ở, nhưng theo người dịch biết phần lớn người thường phải ở nơi đã sinh trưởng và lớn lên hoặc phụ nữ khi lập gia đình phải về ở bên nhà chồng mấy ai có cơ hội để chọn lựa bởi vì thời thế hoặc tình trạng kinh tế sinh hoạt còn nhiều khó khăn.

Đến thời nay, số người có khả năng hoặc có cơ hội chọn lựa tăng nhiều hơn thời đất nước còn trong tình trạng chiến tranh và nghèo khó. Tuy nhiên khi chọn nơi ở hoặc mua nhà người ta thường lấy tiêu chuẩn là giá cả, tiện lợi, khả năng tăng giá nhà trong tương lai v.v…rất ít người nghĩ đến ảnh hưởng đến việc giáo dục của con cái. Họ quên rằng người lớn có thể tránh được các cám dỗ xa đọa, xấu xa nhưng trẻ em thì không thể như vậy. Người dịch tin rằng nếu họ biết ảnh hưởng của bạn bè ở chung quanh hoặc ở nhà trường có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của con cái như trong sách Đại Công Thức đã xem xét và đề cập thì họ sẽ cẩn thận chọn nơi ở hơn nhiều khi họ có khả năng chọn lựa nơi ở, vì bậc làm cha mẹ ai cũng mong muốn con cái mình thành đạt và sống tốt lành. Do đó, có lẽ như hiểu ý nghĩa bài này theo cả 2 cách của cụ Lê và Jinsai.

(4) Khi người dịch tra ý nghĩa của từ “Bất tri loại” trong nguyên văn của Jinsai thấy từ điển tiếng Nhật thông thường giải thích ý của từ này là “không biết nặng nhẹ” và ghi xuất xứ từ Bài 12 chương 11 Cáo Tử thượng, sách Mạnh Tử). Theo người dịch, đây là một ưu điểm lớn của các từ điển tiếng Nhật giúp biết được một phần xuất xứ của từ vựng và nếu cần thiết có thể xem xét đến cội nguồn để hiểu chính xác hơn.

Trong khi đó trong sách Tứ Thư Bình Giải của Lý Mạnh Tuần dịch là “không biết giống loài”, rất khó hiểu. Từ điển Hán Nôm trên Internet dịch là “không biết sự lý”, cũng còn hơi khó hiểu.

Xong ngày 30/6/2024

Tài liệu tham khảo

(1)  Fukuzawa Yukichi (1897 ): Phúc Ông Trăm Truyện, Truyện 73 và 74.

http://www.erct.com/2-ThoVan/N-Son-Hung/73-Khong-can-lo-ngai.htm

http://www.erct.com/2-ThoVan/N-Son-Hung/74-Tien-bac-Giao-duc.htm

Bài 4.2 Thái độ của người đạo đức, người trí tuệ và người không đạo đức đối với đức nhân: sống không rời, làm vì biết có lợi, không thể sống lâu dài.

Tử viết: “Bất nhân giả, bất khả dĩ cửu xử ước, bất khả dĩ trường xứ lạc. Nhân giả an nhân, trí giả lợi nhân.”

子曰:不仁者,不可以久處約,不可以長處樂。仁者安仁;知者利仁。

Dịch

Khổng tử nói: “Người không có đức nhân thì không thể ở lâu trong cảnh khốn cùng, cũng không thể ở lâu trong cảnh hoan lạc. Người có đức nhân vui lòng làm điều nhân, người thông minh sáng suốt biết rằng đức nhân có lợi cho mình và cho người nên làm điều nhân.”

Chú thích

1) “Ước” là “khốn”, khốn cùng, quẫn bách, mệt nhọc cực khổ. Ý câu đầu nói, người bất nhân (người không có đạo đức) khi bị khốn cùng lâu dài sẽ làm việc xấu xa, nếu được vui thích lâu ngày chắc chắn sẽ sinh ra cao ngạo và khinh rẻ người khác.

2) “An” là hài lòng thỏa mãn, không rời bỏ. “Lợi” có nghĩa là đức nhân đem đến thuận lợi tới hoặc thích hợp với (họ) nên (họ) thực hiện hoặc sống theo. Ý của câu sau như sau. Bởi vì người hài lòng sống theo đức nhân nên là bản thân họ và đạo là một, do đó dù gặp hoàn cảnh khổ cực hay vui sướng họ vốn đều có thể sống. Người thấy đức nhân thuận lợi, thích hợp với họ nên họ không rời bỏ đức nhân; do đó dù có gặp khó khăn, khốn khổ họ cũng có thể sống theo đức nhân.

Giải thích

Đối với sự khổ sở khốn khó, người bất nhân vì bắt buộc hoặc do cưỡng bách họ có thể chịu đựng một lần trong thời gian ngắn nhưng nếu thời gian khốn khổ này kéo dài họ sẽ không chịu đựng được và muốn thoát ra; và nếu ở trong môi trường vui sướng lâu ngày họ sẽ sinh ra cao ngạo khinh rẻ xem thường người khác.

Trái ngược với hạng người bất nhân, thái độ của người có đức nhân đối với đức nhân giống sự thích hợp giữa thân thể và y phục họ mặc, giữa đôi chân họ với đôi giày họ mang, nên họ không thấy vui thích khi phải xa rời đức nhân dù trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Đó là ý nghĩa của chữ “an”.

Thái độ người có trí tuệ (trí giả) đối với đức nhân giống như người bệnh sử dụng thuốc trị bệnh, người mệt dùng xe để di chuyển. Không phải lúc nào trí giả cũng thân thiết với đức nhân nhưng bởi vì trong lòng họ biết hiệu quả tốt của đức nhân nên họ không rời bỏ. Đó là ý nghĩa của chữ “lợi”.

Tại sao người “no đầy” (bằng lòng với) nhân nghĩa không nghĩ đến việc ham muốn mỹ vị tối cao, nét đẹp của nhung gấm y phục? Bởi vì “Tất cả mọi vật đều có sẵn trong con người ta (người có đức nhân)” (Bài 4 chương 13 Tận Tâm thượng, Mạnh Tử) nên phú quý, nghèo hèn của bên ngoài không thể làm dao động tâm hồn của bản thân người có đức nhân. Do đó, đối với người có đức nhân việc ứng đối với hoàn cảnh nghèo túng hoặc giàu sang nhất định không phải là vấn đề quan tâm.

Nhận xét

(1) Theo giải thích của Jinsai, thái độ của người có đức nhân (nhân giả) đối với đức nhân gần như tự nhiên hoặc như bẩm sinh hoặc như bậc thánh nhân. Thái độ của người có đức trí (trí giả, người có trí tuệ) đối với đức nhân là do lý trí, không phải do tình cảm, không phải do tự nhiên, hiểu như vậy không biết có đúng với ý của Khổng tử muốn nói không?

Sự phân biệt giữa quân tử, nhân giả và trí giả ra sao? Quân tử phải thỏa mãn tam đức: trí, nhân và dũng hoặc tứ đức: nhân, nghĩa, lễ và trí. Nhân giả là người chỉ cần có đức nhân là đủ hay phải có cả tứ đức? Trí giả là người chỉ cần có đức trí hoặc trí tuệ? Đây là vấn đề người dịch quan tâm tìm hiểu.

(2)   Là con người thật ra nếu không có đủ ăn mặc, nhà ở thì khó sống đàng hoàng, đặc biệt là trong thời đại hiện nay. Ngoài ra, còn phải nghĩ đến con cái, bởi vì con cái còn nhỏ, sức chịu đựng và đề kháng đối với ảnh hưởng từ ngoại giới, thấp nhiều hơn người lớn. Do đó, Fukuzawa Yukichi đã chủ trương muốn sống độc lập trước tiên phải có cơ sở sinh kế đầy đủ tối thiểu. Muốn sống có đạo đức cũng tương tự.

Theo nội dung của bài này thì người có đức nhân là người yêu thích đức nhân một cách tự nhiên như bẩm sinh, nếu không họ phải là người có chí, hoặc ý chí rất kiên cường.

Bài 4.3 Yêu ghét của người có đức nhân thích đáng vì họ xuất phát từ lòng yêu thương chứ không phải theo đúng sai theo phán đoán lý luận như Tống Nho giải thích.

Tử viết: “Duy nhân giả năng hiếu nhân, năng ố nhân.”

子曰:唯仁者,能好人,能惡人。

Dịch

Khổng tử nói: “Chỉ có người đức nhân mới biết yêu người, ghét người (một cách công tâm, chính đáng)

Chú thích

Bởi vì người có đức nhân lấy sự yêu thương làm tâm của họ, nên sự yêu thích và chán ghét của họ chính đáng không có sai trái.

Giải thích

Không thừa nhận đầy đủ việc làm tốt của người khác trong khi đó lại chán ghét quá đáng việc làm xấu của người khác là khuyết điểm thường có của người đời.

Do đó, khi giao tiếp với người khác với lòng yêu thương thì chúng ta sẽ thừa nhận việc làm tốt của họ thỏa đáng, và đối với việc làm xấu của họ cũng không chán ghét một cách quá đáng.

Ngược lại, giao tiếp với người khác với lòng chán ghét thì đối việc làm tốt của họ sẽ không thừa nhận một cách thỏa đáng mà đối với việc làm xấu của họ sẽ chán ghét một cách quá đáng.

Do đó, chỉ có người có đức nhân mới có thể yêu ghét người khác người khác một cách thích đáng.

Bàn thêm

Các Nho gia đời Tống lấy đức nhân làm cơ sở của lý luận học thuyết của họ (dĩ nhân vi lý). Do đó, họ giải thích đức nhân theo sự phán đoán việc yêu ghét có nhất trí với cơ sở của lý luận học thuyết của họ hay không. Nghĩa là họ xem nhân như một tấm gương sáng chói không có một điểm nhỏ lu mờ, như một mặt nước trong suốt yên tĩnh. Họ xem nhân là một thứ không có tình cảm, là một thứ không có lòng ham muốn, họ không biết nhân là một thứ đức của con người, mặc dù có sự phân biệt giữa cạn và sâu, nhỏ và lớn nhưng không có đức nhân nào mà không xuất phát từ lòng yêu thương người khác. Do đó, chỉ có người nhân ái mới yêu ghét người khác thích đáng. không sai lầm, không sợ có tai hại do sự bạc tình (không có hoặc có ít tình cảm) hoặc không công bình.

Thiên Đại Vũ Mô của kinh Thư viết “Khi tội còn có điểm nghi ngờ thì xử nhẹ, khi công lao còn có chỗ không rõ thì thưởng nhiều” (Ý nói đây là phương châm thưởng phạt của vua Thuấn khi ông thấy còn điểm không rõ ràng).

Do đó, nội dung mà các Tống Nho cho rằng việc nhân giả (người có đức nhân) yêu ghét thỏa đáng với việc sự yêu thích của nhân giả, đúng với cơ sở lý luận học thuyết (cái mà mà cho là lý) của họ, không đơn giản nhất trí với nhau như họ nghĩ. (Ý nói sự phán đoán của nhân giả do sự phán đoán xuất phát từ lòng thương yêu người khác chứ không phải do sự phán đoán đúng sai theo nguyên lý hoặc tiêu chuẩn của học thuyết Tống Nho bằng lý trí).

Nhận xét

(1)   Đây là một bài quan trọng nói về sự khác biệt về giải thích về đức nhân giữa Khổng Mạnh học và Tống Nho theo cách hiểu của Jinsai.

Người dịch chưa thật sự nắm rõ và chính xác điều kiện cần thiết và đủ của người có đức nhân là gì nhưng ở thời điểm hiện tại có cảm giác giải thích của Itô hợp lý hơn Tống Nho và thế nào là “sai một li xa một dặm”!

(2)   Giải thích của Jinsai cho bài này “chỉ có người có đức nhân mới có thể yêu ghét người khác người khác một cách thích đáng” cho chúng ta thấy được tại sao đức nhân giúp cho người ta phán đoán sáng suốt, khách quan hơn, nghĩa là đức nhân nâng cao đức trí và đức nghĩa, bởi vì phán đoán sáng suốt thì tránh được phạm điều bất nghĩa. Phải chăng do đặc tính này mà đức nhân được xếp đứng đầu không các thứ đức?

Bài 4.4 Cách suy nghĩ về đức nhân của thánh nhân: không bị người chán ghét.

Tử viết: “Cẩu chí ư nhân hĩ, vô ác dã.”

子曰:苟志於仁矣,無惡也。

Ghi chú

Theo cách hiểu của Jinsai thì chữ 惡 phải đọc là “ố” (chán ghét) chứ không phải “ác” (việc ác, việc xấu).

Dịch

Khổng tử nói: “Nếu quyết chí thực hành đức nhân thì không làm điều ác.”

Chú thích

Nếu tâm chỉ lập chí hướng về việc thực hiện đức nhân thì tự nhiên sẽ không bị người khác chán ghét.

Giải thích

Nhân là một thứ đức cụ thể (thật đức). Một khi lập chí vào (quyết định làm) đức nhân thì tâm hồn trở nên khoan dung rộng lượng, từ ái thương yêu, không tranh cãi với người khác, nên tự nhiên không bị người khác chán ghét.

Bàn thêm

Học thuyết của Tống Nho, lý luận cao siêu khó nắm bắt, có khuynh hướng xem việc hoà hoãn, khoan dung đối với việc làm xấu của người khác là bẻ cong đạo, do đó giải thích từ “vô ác” trong câu là “không làm việc xấu” (trong Luận Ngữ Tập Chú của Chu Hy. Trong khi đó Jinsai giải thích “không có người chán ghét”). Cách giải thích này không phải ý muốn nói của thánh nhân (tức Khổng tử).

Tôi nghĩ rằng nếu như có thực chất đáng để bị chán ghét thì việc bị người khác chán ghét là đạo lý đương nhiên. Tuy nhiên, trường hợp không có thực chất đáng để bị chán ghét mà bị người khác chán ghét ngay cả đối với bậc người quân tử cũng có thể xảy ra. Thế mà thánh nhân giảng dạy “không bị người khác chán ghét” là tại sao?

Bình phẩm đánh giá của người đời rất công bình, và lòng người rất ngay thẳng, nếu vì muốn lấy lòng thì chắc chắn người tiếp nhận sẽ xem đó là hành động muốn lấy lòng. Nếu là nịnh hót, không thật lòng thì chắc chắn người tiếp nhận sẽ cho đó nịnh hót và giả bộ.

Muốn lấy lòng người khác ngược lại bị khinh rẻ. Người thật sự quyết chí thực hiện đức nhân không lấy lòng người khác nên tâm hồn họ khoan dung, độ lượng, từ ái; do đó tự nhiên họ không bị người khác chán ghét. Đó là lý do mà phu tử lấy việc không bị người khác chán ghét làm quan trọng.

Kinh Thi viết “Ở chỗ kia không ai ghét, ở chỗ này không ai chán, sớm cũng như tối. Nhờ vậy được khen ngợi mãi mãi.” Nếu người quân tử không giữ được như thế, thì sao sớm được thiên hạ khen ngợi?” (“Tại bỉ vô ố; tai thử vô đố; thứ cơ túc dạ, dĩ vĩnh chung dự.” Quân tử vị hữu bất như thử, nhi tảo hữu dự ư thiên hạ giả dã.) (Chương 29 Trung Dung).

Khi Trọng Cung hỏi đức nhân, phu tử trả lời “Khi phục vụ việc nước không có oán hận, khi ở gia đình (có thể hiểu khi không ra làm quan) cũng không có hận oán” (“Tại bang vô oán, tại gia vô oán.”, Bài 2 chương 12 Nhan Uyên). Lại cũng nói “Đã vào tuổi 40 mà còn bị người chán ghét thì cuộc đời kể như hết.” (“Niên tứ thập nhi kiến ố yên, kỳ chung dã dĩ”, Bài 25 chương 17 Dương Hóa).

Từ các nội dung trên, chúng ta có thể hiểu cách suy nghĩ của thánh nhân về đức nhân.

Nhận xét

(1)   Trước hết nên lưu ý cách hiểu nghĩa của chữ惡 giữa cụ Lê (theo giải thích của Chu Hy) và Jinsai khác nhau. Theo nội dung “Giải thích” và “Bàn thêm” của Jinsai, người dịch nghĩ rằng cách hiểu của Jinsai hợp lý hơn. Đây cũng là một thí dụ của “sai một li xa một dặm”!

Trong Luận Ngữ Tập Chú, Chu Hy giảng như sau:

“Ác惡ở đây có nghĩa thông thường. “Cẩu” có nghĩa chân thành. “Chí” có nghĩa phương hướng hướng đến của tâm. Nếu lòng chân thực có nhân thì tất nhiên không có việc làm việc xấu. Dương thị nói “Dù tâm có đặt chí hướng về nhân nhưng không hẳn là việc làm không có điều sai lầm. Tuy nhiên không có việc làm việc ác”.

Nghĩa là Chu Hy (1130~1200) trích dẫn lời của họ Dương để làm căn cứ cho giải thích của ông. “Dương thị” ở đây là Dương Thời 楊時 (1053~1135), người xem trọng học thuyết của anh em họ Trình, là cao đệ của Trình môn.

(2)   Theo Thiều Chửu “ố” là ghét; “oán” là oán giận (giải nghĩa như vậy làm sao hiểu!). Theo Đào Duy Anh, “ố” là ghét hoặc chán; “oán” là giận hờn hoặc thù hằn.

Trong câu trong chương 29 của Trung Dung và Bài 17. 25 mà Jinsai dẫn chứng đúng là dùng từ “ố” nhưng trong Bài 12.2 dùng từ “oán”. Theo người dịch, nghĩa trong tiếng Việt của “oán” nặng hơn “ố” rất nhiều không biết trong tiếng Hán như thế nào. Do đó, ở bài này đã dịch “ố” là chán ghét không dùng thù ghét bởi vì nghĩ đối với người có đức nhân thì có thể chán ghét vì không hợp chứ không đến mức thù ghét.

(3)   Trong Luận Ngữ Tập Chú, Chu Hy giảng “oán” trong Bài 12.2 như sau:

“Giữ “kính” trong lòng mình, lấy “thứ” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người) ứng xử với người thì không có tư ý (ý riêng của mình) và như vậy đức của tâm được thành tựu hoàn toàn”.

Theo cách nghĩ này thì “oán” có thể hiểu là chán ghét hoặc thù ghét.

Trong Bài 17.25 Chu Hy cũng giải thích 惡 có nghĩa “ố” giống như Jinsai.

(4)   Tóm lại, theo người dịch, đúng như Jinsai nói, qua các lời trong bài này, chương 29 Trung Dung, Bài 12.2 và Bài 17.25 cho thấy cách suy nghĩ của phu tử về đức nhân, và “không bị người khác chán ghét hoặc thù ghét” là một điều kiện quan trọng để có được đức nhân. Hơn nữa, bởi vì đức nhân là thứ đức cao nhất thì làm gì có việc người có đức nhân làm chuyện ác, chuyện xấu! Nói một câu đương nhiên như vậy để làm gì? Theo cách giải thích của Jinsai thì mục đích của bài này là nói hiệu quả to lớn của đức nhân: không bị ai chán ghét hoặc thù ghét.

(5) Thiết tưởng chúng ta cũng nên lưu ý lời nhận xét của Jinsai “Bình phẩm đánh giá của người đời rất công bình” không phải luôn luôn đúng!

Bài 4.5 Người có đức nhân luôn luôn vui sống với đức nhân dù phải

nghèo khó để sống với đức nhân.

Tử viết: “Phú dữ quý, thị nhân chi sở dục dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất xử dã. Bần dữ tiện, thị nhân chi sở ố dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất khứ dã. Quân tử khứ nhân, ố hô thành danh? Quân tử, vô chung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị.”

子曰:富與貴,是人之所欲也,不以其道得之,不處也。貧與賤,是人之所惡也,不以其道得之,不去也。君子去仁,惡乎成名?君子無終食之間違仁,造次必於是,顛沛必於是。

Dịch

Khổng tử nói: “Giàu và sang, người ta ai cũng muốn, nhưng chẳng phải đạo mà được giàu sang thì người quân tử chẳng thèm. Nghèo và hèn, người ta ai cũng ghét, nhưng chẳng lỗi đạo mà phải nghèo thì người quân tử chẳng bỏ”. Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử? Người quân tử dù trong bữa ăn (một thời gian ngắn) cũng không làm trái điều nhân, dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân.

Chú thích

1) Mong muốn phú quý, chán ghét nghèo khó là thường tình của người đời. Tuy nhiên, hành động của người quân tử phải căn cứ vào đạo. Do đó, nếu không căn cứ vào đạo mà có được phú quý thì người quân tử không tiếp tục. Ngược lại nếu căn cứ vào đạo mà dù phải nghèo nàn, người quân tử cũng không rời bỏ đạo. Đạo ở đây là đức nhân. Do đó, cuối bài phu tử lập lại đức nhân để kết thúc.

Mạnh tử khen ông Y Doãn nên nói “Nếu không phải là điều hợp với đức nghĩa, không hợp với đạo đức dù có đem cả thiên hạ làm bổng lộc cho ông, ông cũng không để ý đến” (“Phi kỳ nghĩa dã, phi kỳ đạo dã, lộc chi dĩ thiên hạ, phất cố dã”, Bài 7 chương 9 Vạn Chương thượng, Mạnh Tử) là có cùng ý với bài này.

2) Người quân tử được đánh giá là quân tử là bởi vì kiên trì giữ gìn đức nhân. Nếu như rời bỏ đức nhân thì giá trị xứng đáng quân tử làm sao còn?

3) “Tháo thứ” nghĩa là vội vàng, hấp tấp. “Điên bái” nghĩa là ngã nằm xuống (phó yển仆偃). Lý do lập đi lập việc gìn giữ đức nhân, ngay cả trong lúc ăn uống cũng không trái ngược với đức nhân là muốn nói trong cuộc sống việc giữ đức nhân lúc nào cũng quan trọng chứ không phải chỉ giới hạn trong trường hợp chọn lựa giữa phú quý và nghèo nàn.

Giải thích

Bài này giảng giải ý nghĩa của việc người có đức nhân an trú (ăn ở ổn định, lúc nào cũng gìn giữ) đức nhân.

Có người hỏi “Đức nhân rất rộng lớn. Tại sao phu tử chỉ nói quan hệ giữa đức nhân và phú quý, nghèo nàn?” Tôi trả lời như sau. Từ xưa con người thường hay không sợ nguy hiểm đến sinh mạng và không sợ làm mất lòng vua nên bình thản khuyên cản vua hoặc phấn đấu không màng bản thân ra sao. Tuy nhiên, đến khi gặp trường hợp phải chọn lựa giữa phú quý và nghèo nàn thì không thể không động lòng bị vật chất quyến rũ lôi cuốn. Bởi vì tâm hồn của người quân tử luôn luôn sống yên vui với đức nhân, nên đối với phú quý không được phép tiếp tục (nghĩa là không hợp với đạo đức) thì không tiếp tục; đối với nghèo khó không được rời bỏ thì không rời bỏ. Do lý do này, nên phu tử lấy việc phú quý và nghèo khó làm điểm chính yếu để giảng giải. Đồng thời nói “Trong lúc ăn uống cũng không được trái ngược với đức nhân. Khi vội vàng cấp bách hoặc lúc hoạn nạn khó khăn nhất định cũng sống yên định với đức nhân” chính là để giảng giải trạng thái đức nhân đã được thành tựu.

Nhận xét

Giống như người dịch đã nhận xét trong Bài 4.2, theo nội dung của bài này thì người có đức nhân là người yêu thích đức nhân một cách tự nhiên như bẩm sinh, nếu không họ phải là người có chí, hoặc ý chí rất kiên cường. Thật không quá đáng khi cho họ là bậc thánh nhân!

Bài 4.6 Nội dung khác biệt giữa người yêu thích đức nhân và người chán ghét điều bất nhân. Không có việc “con người không thể thực hiện đức nhân”, chỉ do không gắng sức mà thôi. Điều kiện không thể thiếu để được gọi là “có đức nhân” là “thực hiện điều tốt một cách tự nhiên như bẩm tính”.

Tử viết: “Ngã vị kiến hiếu nhân giả, ố bất nhân giả. Hiếu nhân giả, vô dĩ thượng chi; ố bất nhân giả, kỳ vi nhân hĩ, bất sử bất nhân giả gia hồ kỳ thân. Hữu năng nhất nhật dụng kỳ lục ư nhân hồ? Ngã vị kiến lực bất túc giả. Cái hữu chi hĩ, ngã vị chi kiến dã.”

子曰:我未見好仁者,惡不仁者。好仁者,無以尚之;惡不仁者,其為仁矣,不使不仁者加乎其身。有能一日用其力於仁矣乎?我未見力不足者。蓋有之矣,我未之見也!

Dịch

Khổng tử nói: “Ta chưa thấy ai thật ham điều nhân và ai thật ghét điều bất nhân, Người thật ham điều nhân thì không cho điều gì hơn điều nhân; người thật ghét điều bất nhân thì khi làm điều nhân không để cho điều bất nhân vướng vào mình. Có ai trọn ngày tận lực làm điều nhân chăng? Ta chưa thấy ai không đủ sức làm điều nhân cả. Hoặc có chăng mà ta chưa thấy.”

Chú thích

1)      “Thượng” là thêm vào. Ý nói đức nhân là tốt nhất trên đời nên không còn việc tốt gì khác để khuyên người yêu thích đức nhân nên yêu thích thêm.

Người chán ghét điều bất nhân thì thật sự (nguyên văn: thành誠) hiểu rõ sự đáng chán ghét của điều bất nhân, giống như người ta chán ghét mùi hôi thối (ý nói việc chán ghét này là do tự nhiên chứ không phải do cố gắng hay miễn cưỡng) nên có lẽ cũng nên xem việc chán ghét điều bất nhân là đức nhân. Tuy nhiên đối với người chán ghét điều bất nhân có một điều cần nên thêm là họ không nên làm điều bất nhân dù điều bất nhân đó nhỏ như thế nào. Đây chính là khoảng cách của giữa người yêu thích đức nhân và người chán ghét điều bất nhân.

2)      (Phần “Hữu năng…bất túc giả”) “Làm điều nhân là do mình, chứ đâu có do người đâu!” (“Vi nhân do kỉ, nhi do nhân hồ tai!”, Bài 12.1), và nếu như vào lúc nào đó quyết chí cố gắng thực hiện đức nhân thì“Đức nhân sẽ đến ngay với mình” (“Ngã dục nhân, tư nhân chí hĩ”, Bài 7.29). (Ý nói việc thực hiện đức nhân là do tự bản thân mình thích làm chứ không phải do người khác cưỡng bách, bắt buộc nên một khi muốn làm thì sẽ làm được ngay). Người đời không thực hiện được đức nhân là bởi vì họ không dùng sức, không nỗ lực cố gắng mà thôi chứ không phải không có khả năng. Do đó làm sao có việc có người nỗ lực cố gắng mà không đủ khả năng?

3)      (Câu cuối) “Cái” là trợ từ chỉ sự nghi vấn. Ý nói có thể có người tinh thần suy nhược yếu đuối nên không thể thực hiện được đức nhân nhưng có thể là bản thân phu tử chưa hề gặp người như vậy. Câu “Ta chưa hề gặp” được lập lại để tỏ ý khẳng định rằng “không có việc con người không thể thực hiện được đức nhân”.

Giải thích

Người yêu thích đức nhân là người tới được đỉnh tối cao của đức. Người chán ghét điều bất nhân có điểm tốt là họ không làm việc bất nhân.

Người yêu thích đức nhân khi thấy người khác làm điều bất nhân họ cảm thấy thương hại và bản thân họ tự muốn cùng với người khác làm điều tốt, điều thiện.

Còn đối với người chán ghét điều bất nhân thì khi họ thấy người khác làm điều bất nhân họ chống đối, cự tuyệt sự bất nhân mãnh liệt như chim ưng hoặc chim cắt (chuẩn隼, falco peregrinus) công kích các loài chim nhỏ hoặc chim sẻ.

Có một khác biệt, chênh lệch rất to lớn giữa 2 hạng người này. Nếu nói cả 2 đều là đức đã thành tựu là sai lầm. (Người dịch không hiểu được ý của câu này! Cả người yêu thích đức nhân cũng không thể nói là đã thành tựu được đức? Như vậy tại sao ở đầu Giải thích lại nói “Người yêu thích đức nhân là người tới được đỉnh tối cao của đức”?) Có người hỏi “Có lúc phu tử nói “Nếu muốn thực hiện đức nhân thì đức nhân sẽ đến ngay với mình” (“Ngã dục nhân, tư nhân chí hĩ”, Bài 7.29) thế tại sao ở bài này lại nói “Ta chưa hề thấy” (“Ngã vị kiến”). Tôi (tức Jinsai) trả lời như sau.

“Đức nhân thật sự có ở trong lòng người. Không cần tìm kiếm ở đâu xa. Tuy nhiên, đức nhân lấy lòng thành làm căn bản chính yếu. Phu tử nhìn nhận có người khó thực hiện được đức nhân không phải là bởi vì đức nhân khó thực hiện mà do việc hết sức chân thành rất khó thực hiện (lòng thực sự chân thành rất khó có được). Giữa người yêu thích đức nhân với người chán ghét điều bất nhân có một khoảng cách rất lớn; tuy nhiên bên nào cũng xuất phát từ lòng chân thành, không phải chỉ do sự nỗ lực gắng sức mà có được (Nhận xét này của Jinsai rất hay!). Do đó, phu tử mới nói “Ta chưa hề thấy” là gì lý do này.

Nhận xét

(1) Qua Chú thích và Giải thích của Jinsai cho chúng ta hiểu tường tận, sâu sắc hơn ý muốn nói của phu tử hơn là chỉ đọc và hiểu qua lời dịch.

(2) Giải thích ý nghĩa bài này của Jinsai rất hay mặc dù hơi khó hiểu, vì nếu không hiểu rõ sẽ thấy có vẻ mâu thuẫn trong nội dung giải thích của ông. Cụ thể như sau. Trong mục 2) của Chú thích, Jinsai giải thích ý của phu tử trong bài 7.29: “Người đời không thực hiện được đức nhân là bởi vì họ không dùng sức, không nỗ lực cố gắng mà thôi chứ không phải không có khả năng.” Trong khi ở phần cuối của Giải thích lại nói “Giữa người yêu thích đức nhân với người chán ghét điều bất nhân có một khoảng cách rất lớn; tuy nhiên bên nào cũng xuất phát từ lòng chân thành, không phải chỉ do sự nỗ lực gắng sức mà có được.” Tại sao ban đầu trách “không dùng sức”, sau đó lại nói “xuất phát từ lòng thành, không phải chỉ do sự nỗ lực gắng sức mà có được”?

Người dịch hiểu như sau không biết có đúng không? Theo người dịch hiểu, điều quan trọng là cách hiểu thế nào là “lòng thành hoặc chân thành hoặc thực sự” (thành 誠).

Con người nếu sinh ra đã là, nghĩa là bẩm sinh là người có đức nhân thì là bậc thánh nhân, không cần phải bàn tới. Đối với người bình thường, sau khi chào đời, để trở thành người có đức nhân trước hết tự bản thân cần phải muốn sống với đức nhân và gắng sức tu dưỡng cách sống của mình theo đúng đức nhân. Thực tập nhiều lần, nếu sai thì tu sửa lại cho đúng đến mức sống thuần thục với đức nhân như bản tính tự nhiên (như bẩm tính của thánh nhân), nghĩa là phải đạt tới mức độ như thói quen tự nhiên thì mới có thể gọi là “có lòng thành”, chứ mỗi lần trước khi thực hiện điều nhân cần phải nhắn nhủ với lòng “phải cố gắng” thì chưa phải là người có đức nhân thật sự. Câu phu tử nói “Ta chưa hề gặp” là ý nói “Ta chưa từng thấy người không phải bẩm sinh là thánh nhân mà cố gắng chịu tu dưỡng cho đến mức trở thành người có đức nhân”. Phu tử than khóc khi Nhan Hồi qua đời là bởi vì ông thấy Nhan Hồi là người duy nhất mà ông từng gặp có thể trở thành nhưng lúc chưa thành được thì đã phải qua đời!

(3) Theo cách hiểu nói trên của người dịch thì từ “bản本” trong câu “đức nhân lấy lòng thành làm căn bản chính yếu” (nhân dĩ thành vi bản) của Giải thích cần phải hiểu là “điều kiện không thể thiếu” để được gọi là “có đức nhân”. Người dịch phát hiện ra một nguyên tắc học tập quan trọng trong Khổng Mạnh học như sau:

Gắng sức tu tập làm việc tốt → (Để trở thành) thói quen tốt tự nhiên → (Mới trở thành ) thành hoặc chí thành → (Mới trở thành ) có được đức

Bài 4.7 Lỗi lầm thường hay do tình cảm đối với người thân hoặc bạn bè mà phát sinh. Do đó nên xem xét kỹ nguyên nhân và khoan dung tha thứ nếu biết hối cải tu sửa.

Tử viết: “Nhân chi quá dã, các ư kì đảng. Quan quá, tư tri nhân hỹ.”

子曰:人之過也,各於其黨。觀過斯,知仁矣。

Dịch

Khổng tử nói: “Lỗi của một người thuộc về từng loại. Xét một người phạm những lỗi nào, có thể biết người đó có đức nhân hay không.”

Chú thích

“Đảng” chỉ thân thuộc và bạn bè.

Giải thích

Lời này nói ra bởi vì người đời thường làm ngơ không quan tâm đến việc kết tội người phạm lỗi lầm.

Tất cả các lỗi lầm của con người không phải vô cớ mà xảy ra, chắc chắn vì thân thuộc hoặc bạn bè mà phạm lỗi lầm. Do đó, phu tử mới nói “Hãy nên xem xét đến thân thuộc, bạn bè của người phạm tội.” (“Các ư kỳ đảng”). Tùy theo trường hợp, rõ ràng chúng ta không nên trách cứ, kết tội. Từ câu nói “Xem xét nội dung phạm tội mà biết được đức nhân”(Quan quá, tư tri nhân hỹ.” ), chúng ta có thể từ trong lỗi lầm cần nên rút ra điều gì đó. 

Mạnh tử nói “Quản Thúc là anh, Chu công là em. Việc sai lầm của Chu công là chắc chắn không sai chạy chỗ nào (bởi vì Chu công giao cho Quản Thúc giám sát vua nước Ân mà Quản Thúc lại cùng vua Ân làm phản, tạo loạn). Nhưng lỗi lầm của Chu công không phải là hợp lý sao?” (Bài 9 chương 4 Công Tôn Sửu hạ, Mạnh Tử). Đó là chỗ Chu công xứng đáng là bậc thánh hiền (vì biết lỗi lầm thì tu sửa ngay). Phu tử không nặng nề kết tội người khác là bởi vì con người còn có đạo (con đường) nếu biết tự tu sửa khi hối cải sai lầm thì chắc chắn sẽ làm được như Chu công (các học giả đời xưa, thí dụ như Khổng tử, đều xem Chu công là bậc thánh nhân).

Bàn thêm

Lỗi lầm của con người không phải sinh ra từ sự lạnh lùng của tỉnh cảm mà sinh ra từ sự ấm áp của tình cảm là tại sao?

Khi tình cảm lạnh lùng, con người phòng tránh được tai họa và tránh xa được tai hại, bởi vì khi đó con người suy tính cho bản thân của mình và kế hoạch suy tính hoàn hảo, và cũng không vội vã cấp bách để cứu người. Do đó, tránh được sai lầm. Mặc dù nói vậy nhưng đôi khi lỗi lầm do sự lạnh lùng của tình cảm cũng có xảy ra. Tuy nhiên, lỗi lầm do sự lạnh lùng của tình cảm rõ ràng là việc xấu không thể gọi là lỗi lầm. Không phải là người có đức nhân chí thượng của thánh nhân, mà lại lấy lý do lỗi lầm mà trách cứ nặng nề và không tha thứ thì ai có thể hiểu được?

Nhận xét

Nội dung bài này cảnh giác chúng ta nội dung rất hữu ích. Bởi vì đúng như Jinsai nhận xét: “Người đời thường làm ngơ không quan tâm đến việc kết tội người phạm lỗi lầm”. Thấy phạm lỗi lầm là trách phạt ít khi chịu tìm hiểu nguyên nhân do đâu. Nếu phạm lỗi vì người thân hoặc bạn bè thì họ cũng vì lòng thương yêu nhưng phạm lỗi do không đủ sáng suốt (đức trí) hoặc không biết cách xử lý cho đúng (đức nghĩa). Do đó, nếu họ biết sai lầm để tu sửa thì thiết tưởng cũng nên tha thứ.

Nguyễn Sơn Hùng, kiểm tra và bổ sung 16/8/2024


Xem thêm cùng tác giả: Những bài viết và dịch của Nguyễn Sơn Hùng

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét