21 thg 4, 2021

Mời quý bạn vào xem bài thơ Thu Nhớ của một nữ cựu giáo chức Saigon; lời bình Ngân Triều.

 Thơ Hải Vân

Lời bình Ngân Triều
Mùa Thu là một trong những đề tài có duyên nợ gắn bó với thi nhân xưa nay. Cảnh Thu se buồn, kết hợp với tâm trạng riêng… hình thành những vần thơ lai láng tình sầu. Nguyễn Du cũng có câu nửa tinh, nửa cảnh…như chia tấm lòng. [53] Khi tình cờ, đọc đoạn đầu của một bài thơ mùa Thu, tôi cảm thấy rộn ràng những cảm xúc thương đời, thương người nhất là những tình yêu phải trắc trở, phải đoạn tuyệt, phải chia lìa… thương đau:
Từ vào Thu đến nay
Gió Thu hiu hắt,
Sương Thu lạnh,
Trăng Thu bạch,
Khói Thu xây thành,
Lá Thu rơi rụng đầu ghềnh,
Sông Thu đưa lá, bao ngành biệt ly.
Cảm thu, tiễn thu, Tản Đà
Chúng ta rất dễ nhận ra. Mỗi dòng thơ đều dệt một chữ Thu, thể hiện một không gian tiêu sơ, cô quạnh, lạnh lẽo, hữu tình, chia xa… Cái hay là tác giả đã gom góp, quy nạp từng chi tiết đặc trưng… để cuối cùng hội tụ tại thành một dòng xoáy đột ngột, bất ngờ, vô cùng mạnh mẽ là biệt ly ở cuối đoạn thơ… Biệt ly là mãi mãi chia xa ngăn cách, hai người thương nhớ nhau sẽ không bao giờ còn có cơ hội gặp lại nhau nữa!
Bao ngành [54] biệt ly là có rất nhiều cảnh đời biệt ly. Rồi thì mãi mãi cách xa! Đối với những người trong cuộc thì biệt ly tình chỉ còn là những nhớ nhung, tiếc nuối….Những nhớ nhung trong mùa Thu, Thu Nhớ. Có lẽ Hải Vân chấp bút bài thơ Thu nhớ, với một tâm trạng như vậy.
[Thu Nhớ]
Thơ Hải Vân
Người ơi, xa cách nghìn trùng, (1)
Núi cao sông thẳm, mịt mùng tăm hơi.
*
Vắng ai vào ngẩn ra ngơ,
Vắng ai tóc rối bơ thờ buồn tênh.
Đêm đêm thầm nhớ gọi tên, (5)
Buồn nghe tí tách bên thềm rơi mưa.
Thẫn thờ giấy mỏng tình xưa,
Đèn lung linh, tưởng người xưa đến tìm.
Gió thu mơn trớn êm đềm,
Tưởng người năm ấy môi mềm gắn môi. (10)
Không gian thoảng chút hương trời,
Nghe chừng hơi thở một thời ai trao.
*
Tỉnh ra nào có tăm hao,
Nam Kha một giấc, tim đau dạ hờn.
Trời Xanh sao khéo bông lơn! (15)

Phần phân tích

Bài thơ có thể chia làm 3 đoạn:
(1) Đoạn đầu, 2 câu thở than về người đi xa diệu vợi, bặt tin.
Người ơi, xa cách nghìn trùng,
Núi cao sông thẳm, mịt mùng tăm hơi.
Mở đầu bài thơ là một không gian xa cách nghìn trùng, với những hình ảnh ngăn cách ngạo nghễ, thách thức sức người hữu hạn, núi cao, sông thẳm. Mịt mùng là bị bóng tối bao phủ khắp nơi, nguy hiểm, càng khó đi hơn. Tăm hơi, tổ hợp từ có tăm là những bọt nhỏ dưới nước, lâu lâu tăm mới nổi lên như tăm cá: tăm của con cá nào đã để bọt sủi lên trên mặt nước. Hơi là hơi thở mà cũng là mùi đặc trưng của sinh vật. Tăm hơi cùng nghĩa như tăm hao là tin tức. Mịt mùng tăm hơi hoặc nào có tăm hao (câu 13) tức là mất biệt, bặt tin, không biết tin tức, tung tích. Người ơi, hô ngữ, vừa nói với người xa, vừa là lời than thở, vừa là lời trách móc.
Sao ai nỡ gây chi cảnh ngăn cách, chia ly, cho đôi ta, nếu không nói là anh nỡ bạc tình bạc nghĩa, qua sông chặt cầu. Anh đã biền biệt nơi góc biển chân trời, lại giấu địa chỉ, bặt tin. Đường đi thì ngăn sông cách núi… Em không thể là nam nhi chí [55], em không thể có ý chí, nghị lực và mạo hiểm trong hoàn cảnh thân gái dặm trường. Nếu anh ở đầu sông thỉ em tìm đến gặp anh đã đành; đằng này tìm anh như thể tìm chim,[56] qua cầu gió bay [57] vô vọng, trong hoàn cảnh éo le, mịt mùng tăm hơi, làm sao có thể dấn bước tìm nhau? Thôi thì đành vậy! Ôi! Những mong nhớ xót xa!
(2) Đoạn giữa, những mong nhớ bồn chồn, với người yêu đến nao lòng:
Vắng ai vào ngẩn ra ngơ, [58] (câu 3)
Vắng ai tóc rối bơ thờ buồn tênh.
Đêm đêm thầm nhớ gọi tên, (câu 5)
Buồn nghe tí tách bên thềm rơi mưa.
Thẫn thờ giấy mỏng tình xưa,
Đèn lung linh, tưởng người xưa đến tìm.
Gió thu mơn trớn êm đềm,
Tưởng người năm ấy môi mềm gắn môi.
Không gian thoảng chút hương trời,
Nghe chừng hơi thở một thời ai trao
Câu 3 là những ngẩn ngơ trăm mối bên lòng. Với một số biện pháp tu từ kết hợp với những nhóm từ chọn lọc, với nhiều từ lái, tạo âm điệu uyển chuyển, nhịp nhàng, hài thanh, tượng hình … rất độc đáo. Cụ thể là:
Điệp từ vắng ai, nhấn mạnh người vắng xa người, để đến nổi buồn miên man, nỗi buồn mênh mông, một nỗi buồn như buồn hiu, nỗi buồn được cảm nhận bằng cả một sự thiếu vắng không tên… làm cho tâm hồn phải ngẩn ngơ.
Từ lái ngẩn ngơ được cắt đôi, đan chéo với cặp động từ vào ra cũng cắt đôi thành một cụm từ mới vào ngẩn ra ngơ để tăng cường biểu đạt một cách mượt mà. Nguyễn Du cũng đã sử dụng phong cách dân gian trong thơ, để thơ trở nên linh hoạt, gợi tả một cách thẩm mỹ, thần kỳ. Cụ thể sử dụng điệp từ trong bức tranh tâm trạng Kiều ở Lầu Ngưng Bích:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trôngngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất, một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Kiều câu 1047-1054,
phải chăng cách điệu, nâng cao từ
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi! Nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi, sao hỡi! Nhớ ai sao mờ?
Ca dao
Hoặc nghệ thuật cắt đôi cặp từ hay cụm từ, đan chéo như cách ngẩn ngơ nêu trên, để người đọc cảm thụ rất nhiều cảm xúc thẩm mỹ:
Khi sao ong bướm rũ là?
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương?
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Lúc Kiều ở lầu xanh, chợt tỉnh giấc, than thở thân phận mình, hữu thân, hữu khổ [59] câu 1235-1238. Tứ thơ càng réo rắt, véo von hơn bằng các biện pháp ghép từ như vậy. Các cặp từ đã cắt, đan chéo nguyên là (ong rũ /bướm là; dày dạn/gió sương; bướm ong/chán chường) …
Tóc rối là tóc để rối do lòng buồn nên không thiết tha chuyện trang điểm, chải tóc; cũng có thể, có người, có đối tượng mới sửa soạn, trang điểm, nếu đã vắng ai rồi thì trang điểm cho ai?
Trâm cài xiêm giắt thẹn thùng
Lệch vừng tóc rối, lỏng vòng lưng eo
CPNK-câu 191-192
hay là
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều dòi dõi nương song,
Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn, trang hồng với ai?
CPNK câu 231-236.
Bơ thờ cùng nghĩa với thẫn thờ, ngơ ngẩn là lờ đờ như mất hết vẻ nhanh nhẹn, linh hoạt, vì lòng nặng sầu tư, khiến tâm hồn thêm hụt hẫng… câu 3-4.
Tiếp theo 4 câu (Các câu 5, 6, 7, 😎 là nỗi niềm thầm nhớ gọi tên người ấy mỗi đêm, nhất là trong những đêm mưa buồn. Có khi giở lại chồng thư cũ giấy mỏng, tình xưa. Trong thư từ, thường dùng giấy mỏng hay giấy pelure. Tí tách, từ tượng thanh, chỉ giọt nước từng giọt rơi từ trên cao xuống đất. Đèn lung linh, ngọn đèn dầu khẽ lay động qua lại, rung rinh theo hơi gió nhẹ, có khi như muốn tắt mà không tắt. Khi có người di chuyển đến bên ánh đèn dầu hay nến, có thể làm cho ngọn đèn lay động, rung rinh, leo lét nhẹ … và chính những chi tiết đó đã làm cho nhân vật trữ tình lầm tưởng như có“người xưa đến tìm” (câu 9-10)
Tương tự, khi nhớ về một nụ hôn, trong làn gió Thu êm đềm, hiu hắt khẽ chạm vào đôi môi, nhân vật trữ tình liên tưởng như một nụ hôn ngày nào. Với nhóm từ thể hiện tình cảm rất Tây Phương môi mềm gắn môi, là hôn môi, rất xa lạ vì người Đông Phương thường thể hiện tình cảm âu yếm bằng mũi, hôn hít, để cảm nhận một chút hương trong gió, tưởng chừng như có sự hiện hữu của người xưa…(Câu 11-12)
Như đã nói ở trên, nội dung đoạn nầy gồm 10 dòng thơ, thể hiện một tâm trạng…vấn vương buồn nhớ, mơ ước người xưa quay lại, như một ước mơ dìu dặt, sâu lắng trong tim.

(3) Đoạn kết, 3 câu cuối: đau đớn khi trở về với hiện thực lỡ làng, cay đắng, phũ phàng và tái tê cho duyên kiếp:
Tỉnh ra nào có tăm hao
Nam Kha một giấc, tim đau dạ hờn.
Trời Xanh sao khéo bông lơn!
Khi trở về với hiện thực chính mình, tỉnh ra thì chỉ là hư không, mộng ảo, bàng hoàng như tâm trạng nhân vật trong Giấc Nam Kha. [60]
Đó là một tâm trạng đau xót, tủi lòng, tim đau dạ hờn cho số kiếp… không may. Có thể nhân vật trữ tình của Hải Vân đã tin vào mệnh số. Số phận con người trên đời nầy, đều do Trời “lập trình” ra cả:
Ngẫm hay muôn sự tại Trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Kiều, câu 3241-3244
Nếu như vậy, quả là trớ trêu và quá quắt lắm. Trời Xanh kia đã an bày mệnh số nghiệt ngã cho con người, và đời người chỉ là trò cười, bông lơn [61] cho chính ông Trời thôi. Vì số phận con người, giàu sang hay nghèo hèn, đều có nhiều điều bất cập và đau khổ.
Đặc biệt ở câu cuối, một câu lục nửa vời, như câu cuối của một bài hát nói, như ngắt ngang ý thơ dìu dặt chưa dứt, như ý thơ còn phảng phất, lắng đọng trong một âm hưởng réo rắt ngân nga trầm lắng. Điều đó, phải chăng như một lời trách móc, than thở, cam đành cho số phận, một số phận đầy bất lực về phận mình đối với Ông Xanh?!

Tóm lại,
Về nội dung, Thu nhớ là một tình khúc toàn là “tông” trầm lắng, luyến láy đầy vơi những điệu buồn muôn thuở, những cuộc tình đầy trắc trở, ngăn cách, chia xa. Đi trên những con đường định mệnh đó, chắc chắn không ai là không thổn thức, đớn đau, trong những giây phút chạnh lòng về một mối tình đầu, tơ lòng vương mãi, vẫn hằng trông đếm bước người đi [62] , vẫn còn vương vấn cạnh lòng. [63]
Về hình thức nghệ thuật, Thu nhớ được dệt bằng chất liệu thơ lục bát dân gian. Hải Vân có lẽ là một thợ dệt khéo léo, chị biết lựa chọn những chất tơ óng ả, bắt mắt, tạo nên những nét hoa văn lộng lẫy cho một tấm gấm thêu hoa…tuyệt vời.
***
Ghi chú:
[53] chia tấm lòng là mạch sầu chẳng khuây, là buồn không dứt hay buồn rười rượi.
[54] ngành: nhánh cây như ngọn ngành. Ở đây ngành được hiểu là biết bao cảnh đời nhân thế.
[55] Đường đi khó, không khó; vì ngăn sông cách núi; mà khó vì lòng người ngại núi, e sông. Nguyễn Bá Học
[56] Tìm em như thể tìm chim,
Chim bay biển Bắc đi tìm biển Đông.
Ca dao
[57] Thương nhau, cởi áo cho nhau,
Về nhà dối mẹ, qua cầu…gió bay.
Ca dao
[58] Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai, ai nhớ? Bây giờ nhớ ai?
Ca dao
[59] Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre, đẳn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai?
Miệng ăn măng trúc măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng?
Nước giếng trong, con cá nó vẫy vùng…
Ca dao
[60] Tích ông Lý Công Tá, đời Nhà Đường, một hôm nằm ngủ dưới bóng một cây Hòe cây to thuộc họ đậu, lá kép mọc cách, hoa nhỏ màu vàng, quả thắt lại từng đoạn, trông như chuỗi tràng hạt, nụ hoa phơi khô dùng làm thuốc, được vua nước Hòe gã công chúa cho, một giai nhân sắc nước hương trời và được làm Phò Mã, giữ chức Nam Kha Thái Thú…vinh hoa phú quý, ở đời, được như thế là đắc chí, thỏa lòng…Bỗng giật mình thức dậy, chỉ là hư không. Chợt nhìn lên, thấy ở cành Hòe phía Nam có một tổ kiến lớn. Vậy là một đất nước mà bé như một tổ kiến! Nàng công chúa, Phò mã Thái Thú đều nực cười như đời…con kiến! Thấm thía về kiếp nhân sinh, gia đạo, tiền tài, công danh… đều chẳng ra gì mà sao con người lại lấy điều đó làm cái mục đich bon chen ở đời, ông liền viết truyện Nam Kha ký, tức là truyện Cành cây phía Nam để thể hiện nhân sinh quan coi khinh đường danh lợi, phù du.
[61] Bông lơn: pha trò vui; nói đùa đưa duyên tạo không khí cở mở, gần gũi.
[62] Xin anh cứ tưởng bạn anh tuy,
Giam hãm thân trong cảnh nặng nề
Vẫn để hồn theo người lận đận,
Vẫn hằng trông đếm bước anh đi
Giây pgút chạnh lòng,
Thế Lữ
[63] Song le hương khói yêu đương vẫn,
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng
Giây phút chạnh lòng, Thế Lữ.
***


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét