Tại
sao xã hội trong hai triều đại Lý -Trần lại đạt được sự thịnh vượng?
Nhiều người cho rằng thời hậu
Lê (1428-1527) là triều đại mạnh nhất trong lịch sử nước ta. Nhưng nếu xét
sự thịnh vượng trên phương diện “dân giàu” chứ không phải sự tập trung quyền
lực, thì hai triều đại nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1226-1400) mới là
thịnh vượng nhất.
Triều đại nhà Lê là triều đại
mà vua đã thâu tóm được hết quyền lực về cho mình (tập quyền). Tuy nhiên,
điều đó không đồng nghĩa với đời sống xã hội đạt tới sự trù phú. Còn hai
triều đại Lý – Trần, mặc dù quyền lực của vua không bao trùm lên toàn bộ đất
nước, nhưng đời sống xã hội lại vô cùng phát triển.
A – Những biểu hiện cho sự thịnh
vượng của hai thời đại Lý – Trần
Sự thịnh vượng là đời sống người dân
phong phú cả vật chất lẫn tinh thần. Những biểu hiện cho việc hai triều đại Lý
– Trần là thịnh vượng nhất trong các thời đại của Việt Nam là:
1. Các phường nghề đã đạt tới trình
độ cao trong việc chế tác trên vật liệu.
Hai nghệ thuật gốm và nghệ thuật
điêu khắc đã đạt đến mức tinh hoa khi xem xét các bằng chứng khảo cổ.
Trước đó, năm 982 Lê Đại Hành (tiền
Lê) đã mở ra cuộc nam chinh, tiến đánh đất nước Chăm-pa, chiếm được kinh đô
Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Ông đã đưa về Đại Việt rất nhiều vũ
công, nhạc sư, thợ thủ công Chăm-pa, nhờ đó những nghề này được phát triển.
Đến thời Lý thì đã được đến
mức hoàn thiện. Nhiều mẫu vật khai thác ở hoàng thành Thăng Long xưa thể
hiện rõ điều này, như họa tiết trên các bức tượng Phật. Các nghệ nhân đã
biết thổi tinh thần Viêt vào trong các nét khắc tinh tế của người Chăm-pa.
2. Công thương nghiệp phát triển và
bắt đầu có những tuyến giao thương từ nội địa đến lân bang.
Do trình độ sản xuất của giai
đoạn Lý – Trần đạt đến trình độ cao nên lượng hàng hóa dồi dào
trong xã hội. Năm 1230, nhà Trần mở rộng Thăng Long, chia “thị” cho dân
buôn bán mở các phường nghề, lập ra chức quan Bình bạc (kinh doãn) để quản lý
họ. Điều này thể hiện tư duy bài bản trong phát triển thủ công nghiệp.
Thời Lý, các tuyến giao thương nội
địa được thiết lập và vận hành cả trên đường bộ và đường thủy. Nhà Lý cũng
thiết lập buôn bán với Trung Hoa qua đường sông, Java qua đường biển và Xiêm La
qua đường bộ. Cửa biển Vân Đồn (Quảng Nnh) là trung tâm giao thương lớn nhất cả
nước.
Đến thời Trần, các tuyến đường giao
thương càng phát triển mạnh. Thậm chí giao thương đến cả Tây
Vực. Minh chứng cho điều này là trong chính sử nhà Nguyên, vua Nguyên đòi
nhà Trần nộp những người lái buôn Hồi Hồi để hỏi thăm về tình hình Tây Vực.
3. Nhiều loại hình nghệ thuật đặc
trưng tính cách Việt phát triển và tạo thành chuẩn mực
Nghệ thuật trình diễn đặc trưng của
hai thời đại Lý – Trần là hát chèo. Hát chèo được bà Phạm Thị Trân – một ca vũ
hoàng cung – sáng tạo ra từ thời Đinh. Ban đầu các nghệ sĩ chỉ diễn
các khúc dưới dạng ngâm. Sau do tiếp xúc với văn hóa Chăm-pa, kĩ thuật biểu
diễn hoàn thiện hơn đo được đưa vào âm nhạc và vũ đạo.
Đến thời Trần, một số nghệ
sĩ chèo đi lính bị quân Nguyên bắt làm tù binh, nhờ đó học được hát Tuồng của
người phương Bắc. Từ đó chèo bắt đầu mang tính kịch (drama), có cấu trúc và
nhân vật.
Từ đó, cùng với chèo, Tuồng của
Trung Hoa cũng được Việt hóa. Hai loại hình này được biểu diễn không chỉ trong
hoàng cung, mà còn ra ngoài dân gian, tại các đình làng. Càng biểu diễn kỹ
thuật càng phát triển với âm nhạc phức tạp, cùng với độ nhấn và độ luyến
láy.
Nghệ thuật hội họa trong
hai thời Lý – Trần cũng rất phát triển, nhất là nghệ thuật điêu
khắc. Có một sự tương đồng trong hội họa của thời Lý – Trần với thời kỳ
tiền Phục Hưng của châu Âu, đó là sự vô danh của các nghệ sĩ và cảm hứng tôn
giáo. Các nghệ nhân Lý – Trần hầu như không lưu tên trong các tác phẩm của họ,
dù các tác phẩm đã đạt đến chuẩn mực của mỹ học. Hai thí dụ điển hình là
hình ảnh con rồng và hoa sen thời Lý.
Trong đời sống dân gian, lối hát
giao duyên, hát đối như hát Trống Quân làm tâm hồn thơ ca của người dân
được rộng mở. Các hình tượng đơn giản của đời sống được gọt giũa và tượng
trưng, nhờ đó thẩm mỹ dân gian được nâng cao.
4. Đời sống triết học, tâm linh
phong phú, các luận thuyết được khởi xướng
Ở hai thời đại Lý – Trần, “Tam
giáo đồng nguyên” đồng hành. Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo cùng tồn tại và
phát triển. Phật giáo vào Đại Việt qua hai đường 1. Từ Ấn Độ,
qua Chăm-pa, 2. Từ Trung Quốc. Đạo giáo, tuy ẩn mình nhưng ảnh hưởng khá sâu
sắc.
Nhà Trần, Trần Nhân Tông lên tu ở
Yên Tử, lập ra trường phái Trúc Lâm, là lúc Phật giáo lên đỉnh cao trong
lịch sử đất nước. Các thiền sư của trường phái Trúc Lâm một mặt đề cao tính
thiền, một mặt đưa ra quan điểm Phật giáo nhập thế, tức người đi tu hành cũng
“nhập thế hành đạo” giúp dân giúp nước.
Cuối thời Lý và thời Trần, ảnh hưởng
của Nho giáo bắt đầu mạnh với sự xuất hiện của các nho sĩ Tô Hiến Thành, Trương
Hán Siêu, Chu Văn An, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu… Chế độ khoa cử
của phương Bắc cũng được nhà Lý – Trần thay đổi. Thay vì thi
luận giải “Tứ Thư – Ngũ Kinh”, khoa cử ở Đại Việt luận tinh thông ba hệ thống
Nho – Phật- Lão.
5. Khả năng giữ gìn chủ quyền lãnh
thổ của hai triều đại Lý – Trần đến giờ vẫn khiến nhiều nhà nghiên cứu
kinh ngạc.
Các chiến tích của triều Lý
– Trần là hai lần chiến thắng quân Tống và ba lần đánh thắng quân
Nguyên Mông. Những chiến tích đó là minh chứng cho hệ thống “binh hùng tướng
mạnh” đoàn kết một lòng từ trên xuống dưới.
Một nước nhỏ như Đại Việt
đã thắng nhiều lần đế quốc phương Bắc với đạo quân tinh nhuệ
từng đánh sang cả châu Âu. Làm được điều này thì tướng phải thực tài, binh phải
thực mạnh người lãnh đạo phải cực kỳ thông minh, khôn khéo mới có thể làm được.
Lý Thường Kiệt sử dụng ngòi bút
khích lệ tinh thần quân sĩ và làm lung lay sĩ khí của kẻ địch. Trần
Hưng Đạo dùng “vườn không nhà trống” để đối phó với sức mạnh của quân đội
Nguyên Mông. Để khi quân địch yếu, mất tinh thần, thì mới ra tay.
B – Tại sao hai triều đại Lý – Trần
lại đạt đến được sự thịnh vượng?
1. Nguyên nhân khách quan: Sự ổn
định lãnh thổ và cơ hội tách dần khỏi văn minh người Hán.
Từ thời Tiền Lê, lãnh thổ ổn
định, kéo dài từ biên giới phía Bắc ngày nay cho đến gần Huế.
Lãnh thổ ổn định là khi triều đình
có thể đưa ra được các chính sách quản lý, phát triển ổn định cho các
vùng, tộc người hay nhóm dân cư. Khi vẫn còn chuyện xung đột giữa các
vùng, thì không thể yên ổn để đưa ra các chính sách quản lý, chưa nói đến
phát triển cho toàn đất nước.
Giai đoạn thời Lý – Trần tương
ứng với hai thời kỳ của phong kiến Trung Hoa. Triều Lý cùng thời với triều
Tống, triều Trần cùng thời kỳ với triều Nguyên.
Thời Tống, triều đình trung
ương chỉ ảnh hưởng được ở đồng bằng của hai con sông Hoàng Hà và
Trường Giang. Các vùng lãnh thổ khác bấy giờ của Trung Hoa là của các
nước Khiết Đan, Đại Kim, Tây Hạ, Thổ Phồn, Đại Lý. Bị bao vây bởi nhiều
nước nên nhà Tống không có đủ sức mạnh và tâm trí để ảnh hưởng đến Đại
Việt.
2. Nguyên nhân chủ quan: Hai
thời Lý – Trần đã đưa ra được “chiến lược phát triển dài hạn” cho
quốc gia.
Triều đình hai thời Lý
– Trần đã nhìn thấy được những điểm chung của tâm lý người dân để đưa
ra chiến lược phát triển dài hạn đúng đắn cho quốc gia.
Các đặc điểm tâm lý chung đó
là, ý thức tập thể cao do phải đoàn kết để trị thủy và chống giặc
ngoại xâm, trạng thái tâm lý dễ thay đổi do phải đánh giặc và đối phó với thiên
tai, hay nhẫn nhịn do thời gian dài phải đối đầu với phong kiến
phương Bắc, tâm lý tiểu nông do đồng bằng nhỏ hẹp, dễ hòa nhập do nằm trên
tuyến giao thương giữa các quốc gia…
Trong chính sách đất đai, nhà
Trần phong đất cho các quý tộc, công thần, giới tăng lữ. Giới này do được
cát cứ ở các vùng, được hưởng lợi trên mảnh đất của mình, nên họ chú
tâm phát triển sản xuất hàng hóa. Của cải làm ra càng nhiều thì mạng lưới
giao thương càng lớn, từ đó thuế thu về cho triều đình cũng càng nhiều.
Về thủ công nghiệp, hai thời Lý –
Trần có chính sách ưu tiên nên các xưởng thủ công phát triển rất mạnh. Các mỏ
khoán sản được giao cho các tù trưởng khai thác rồi thu thuế bằng sản
vật. Nhà nước chỉ quản lý xưởng đúc tiền, vũ khí và những vật dụng quan trọng
cho triều đình.
Các phường nghề được phát triển tự
do, các thợ thủ công được nâng cao tay nghề do học được kĩ thuật từ Trung Hoa,
Chăm-pa, nên sản phẩm hàng hóa dồi dào, giao thương phát triển. Triều đình liên
tục được tăng ngân quỹ nhờ thu thuế.
Pháp luật trong hai thời Lý – Trần
cũng được phát triển khá hoàn thiện. Thời Lý đưa ra được bộ luật Hình Thư, bộ
luật đầu tiên của nước ta, với những quy định khá văn minh, như người phạm tội
có thể chuộc tội bằng cách nộp tiền hay ruộng, cấm giết gia súc (trâu, bò,
ngựa) vì làm giảm sức sản xuất…
Vì những lẽ trên mà hai thời đại Lý
– Trần là hai thời kỳ hưng thịnh nhất trong lịch sử nước ta. Kinh tế,
văn hóa, tôn giáo phát triển. Pháp luật hoàn thiện. Chính trị, xã hội ổn định.
Quân đội vững mạnh, thiện chiến, đoàn kết một lòng, ba lần đánh thắng quân
Nguyên Mông – bấy giờ là đế quốc, bá chủ thế giới.
Nguồn bài Book Hunter
Club
(chép từ CafeKuBua)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét