25 thg 12, 2025

ĐÊM HUYỀN NHIỆM

 ĐÊM HUYỀN NHIỆM

Em ngồi khấn bồi hồi chờ đêm Thánh
Nghinh đón “Hài nhi” linh hiển vô cùng
Ta, cho dẫu vẫn lả tên ngoại đạo
Trước giáo đường cũng đứng đợi khiêm cung
Cũng náo nức ngóng hồi chuông gióng giả
Mong được nghe những khúc hát thiên thần
Không biết “đó” nguyện cầu gì với Chúa
“Đây” chỉ ước làm một gã chiên ngoan
Được hoan hỉ giong chiếc “xe-tuần-lộc”
Đưa nhau đi tìm hang đá Bê Lem
Khi em ngắm “Hài đồng” nơi máng cỏ
Ta cũng thì thầm xác tín: “A men”
Và hứa sẽ làm Sainta Claus (1)
Đêm nhiệm màu nhất định tậng quà em
Không từ mái nhà qua đường thông gió
Mà đường hoàng vào bẳng ngõ trái tim!
Noel đến - ôi, Noel huyền nhiệm
Người giáng trần với lượng cả bao dung
Ta lại cùng em chờ ơn cứu rỗi
Cùng lắng lòng nghe Đêm Thánh Vô Cùng
P/s
(1) Ông già Noel

NOEL ĐẶC BIỆT CỦA LÃO PANOV - Trần Mạnh Trác dịch

 

NOEL ĐẶC BIỆT CỦA LÃO PANOV
Trần Mạnh Trác dịch
Truyện ngắn hay nhứt trong mùa Giáng Sinh do Leo Tolstoy phóng tác thành văn xuôi từ vở thoại kịch có tựa đề là ‘Le père Martin’ của Ruben Saillens. Từ câu chuyện Ông Panov này, ngày nay đã có hàng ngàn phiên bản bằng văn, thơ, kịch khác phổ biến trong văn học thế giới như một thông điệp về nhân ái và hạnh phúc, nhất là trong dịp Lễ Giáng Sinh hàng năm.
NOEL ĐẶC BIỆT CỦA LÃO PANOV
✒️ Leo Tolstoy
Hôm đó là ngày vọng (trước) Giáng sinh, Mặc dù chỉ mới có xế chiều mà đèn đã được thắp lên khắp cả, từ nhà ở cho đến các cửa tiệm trong ngôi làng nhỏ của nước Nga này, bởi vì những ngày mùa đông thì ngắn ngủi và rất chóng tàn. Những đứa bé vốn lúc nào cũng hớn hở đã chạy nhẩy lon ton ở bên trong và bây giờ, thoát ra từ những khung cửa chớp khép kín, là những âm thanh giống như bị bóp nghẹt cuả những cuộc trò chuyện và những tiếng cười đùa.
Lão Panov, ông thợ giày cuả làng, bước ra bên ngoài để có một cái nhìn rảo khắp. Những âm thanh của hạnh phúc, những ánh đèn rực rỡ và mùi vị thoang thoảng cuả những món ăn ngon mùa Giáng sinh làm cho ông nhớ tới những mùa Giáng sinh đã qua khi người vợ của ông vẫn còn sống và những đứa con vẫn còn bé bỏng. Bây giờ thì mọi người đã đi xa rồi. Khuôn mặt tươi vui tự nhiên của ông, thường đi đôi với một cặp mắt se lại vì nếp cười, ẩn nấp sau cặp kính tròn, bây giờ trông buồn rời rợi. Tuy nhiên, ông đã bước vào trong nhà một cách dứt khoát, kéo cửa chớp xuống và đặt bình cà phê lên bếp than. Sau đó, với một tiếng thở dài, ông ngả người lên chiếc ghế bành lớn.
Lão Panov thường không đọc sách, nhưng tối nay, ông với lấy cuốn sách Kinh Thánh cũ của gia đình, và từ từ dùng ngón tay trỏ lân lê theo dòng chữ, ông đọc lại câu chuyện Giáng sinh. Ông đọc tới đoạn Bà Maria và Ông Giuse, mệt mỏi sau cuộc hành trình đi Bêlem, không tìm được một chỗ nào tại nhà trọ, phải sinh đứa con nhỏ trong một chuồng bò.
“Trời đất ơi, Trời đất ơi!” Lão Panov kêu lên, “nếu mà họ đến đây! Tôi sẽ nhường chiếc giường của tôi cho họ và tôi bảo đảm sẽ lấy tấm chăn bông của tôi để bao bọc cho đưá bé.”
Khi ông đọc tiếp tới đoạn các nhà đạo sĩ đến thăm em bé Giêsu, tặng cho em nhiều món quà tuyệt vời. Thì sắc mặt của Lão Panov xụ xuống. “Tôi chẳng có món quà nào cho em cả” ông buồn bã nghĩ thế.
Rồi gương mặt cuả ông lại tươi lên. Ông bỏ cuốn Kinh Thánh xuống, đứng dậy và vươn cánh tay dài lên một ngăn tủ ở trên cao trong căn phòng nhỏ. Ông lấy xuống một chiếc hộp nhỏ đã phủ đầy bụi và mở ra. Bên trong là một cặp giày nhỏ bằng da hoàn hảo. Lão Panov mỉm cười hài lòng. Vâng, đôi giầy vẫn còn tốt như trước - đôi giày tốt nhất mà ông từng làm ra. “Tôi phải cho em đôi giầy này” ông định bụng như thế, rồi nhẹ nhàng cất chúng đi và ngồi xuống một lần nữa.
Ông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, và càng đọc thì càng buồn ngủ hơn. Những giòng chữ bắt đầu nhảy múa trước mắt cho đến khi ông phải nhắm mắt lại, để nghỉ thêm một phút. Nhưng chẳng bao lâu thì Lão Panov ngủ vùi.
Trong giấc ngủ, ông thấy một giấc mơ. Ông nằm mơ một người nào đó đang ở trong phòng của mình và ông nhận biết, giống như mọi người đều nhận biết khi ở trong những giấc mơ cuả họ, ông nhận ra ngay người đó là ai. Là Chúa Giêsu.
“Panov, nếu con muốn gặp Ta” Chúa nói một cách dịu dàng “thì hãy tìm Ta vào ngày mai. Đúng ngày Giáng Sinh Ta sẽ đến thăm con. Nhưng hãy chú ý cẩn thận, Ta sẽ không tỏ cho con biết rõ Ta là ai.”
Cuối cùng thì Lão Panov tỉnh dậy, khi chuông nhà thờ reo vang và một luồng sáng mỏng manh luồn lọc qua khung cửa chớp. “Chao ôi, vui quá là vui!” Lão Panov reo lên. “Đây là ngày Giáng sinh rồi!”
Ông đứng dậy và duỗi mình cho qua cơn nhức mỏi. Rồi thì khuôn mặt của ông rực lên một niềm vui hạnh phúc vì hồi tưởng lại giấc mơ vừa qua. Đây sẽ là một ngày Giáng sinh đặc biệt hơn tất cả, vì Chúa Giêsu đến thăm ông. Ngài sẽ trông giống như thế nào nhỉ? sẽ còn là một em bé như lúc Giáng sinh đầu tiên? Hay sẽ là một người trưởng thành, một anh thợ mộc - hay là một vị vua huy hoàng, xứng đáng với danh phận là Con Đức Chúa Trời? Ông tự nghĩ phải cẩn thận canh chừng từng giây phút cuả ngày để có thể nhận ra Ngài khi Ngài ngự đến.
Lão Panov pha một bình cà phê đặc biệt cho bữa ăn sáng Giáng Sinh, kéo cửa chớp của cửa sổ lên và nhìn ra ngoài. Đường phố còn vắng tanh, không ai cả. Không ai ngoại trừ ông quét đường. Ông ta có vẻ khổ sở và bẩn thỉu hơn bao giờ hết, và cũng là đáng kiếp! Ai mà đi làm việc vào ngày Giáng sinh bao giờ - và lại làm việc trong cái lạnh cay đắng cuả lớp sương muối trong một buổi sáng như thế này?
Lão Panov mở cửa ra, một làn khí lạnh mỏng lùa vào. “Vào đây!" ông hô to qua phiá bên kia đường bằng một giọng vui vẻ. “Vào đây uống một chút cà phê cho ấm bụng!”
Ông quét đường nhìn lên, gần như không tin vào tai mình. Rõ ràng ông ta đã quá sức vui mừng khi được đặt cây chổi xuống và đi vào căn phòng ấm áp. Quần áo của ông bay phất phới nhẹ nhàng trong cái hơi nóng từ bếp lò thoát ra và ông siết chặt cả hai bàn tay đỏ như gấc vì lạnh vào cái ly ấm áp và đầy an ủi.
Lão Panov hài lòng nhìn ông ta, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc mắt qua khung cửa sổ. Ông không muốn bỏ lỡ người khách đặc biệt của mình.
“Ông đợi ai đó?” ông quét đường sau cùng phải hỏi như thế và Lão Panov kể cho ông ta về giấc mơ của mình.
“Vâng, tôi hy vọng ông ta tới" ông quét đường nói, “ông vừa tặng cho tôi một chút niềm vui Giáng sinh mà tôi đã không bao giờ mong đợi. Tôi cũng muốn nói rằng ông xứng đáng có được một giấc mơ trở thành sự thật.” Và ông ta đã mỉm cười một cách thực lòng.
Khi ông ta đi rồi, Lão Panov cắt nhỏ bắp cải đưa vào nồi súp để dọn bữa ăn, sau đó đi ra cửa nữa, quét mắt nhìn quanh đường phố. Ông vẫn không thấy ai. Nhưng thực sự ông đã nhầm. Có người đang đi đến.
Cô gái bước đi rất chậm chạp và lặng lẽ, dựa sát vào bờ tường của các cửa hàng và nhà ở, phải mất một thời gian dài trước khi ông nhận ra cô nàng. Cô ta trông thật mệt mỏi và đang mang một cái gì đó. Khi cô gái tiến gần ông hơn, ông nhận ra rằng 'cái gì đó' là một đứa bé, bọc trong một chiếc khăn choàng mỏng. Có một nỗi buồn u uẩn phảng phất trong khuôn mặt của cô gái và trong khuôn mặt bị ép chặt của đứa bé, đến nỗi trái tim của Lão Panov muốn rơi ra vì họ.
“Xin mời vào nhà” ông bước ra ngoài để gặp họ. “Cô và em bé cần có chút lửa ấm và chút nghỉ ngơi.”
Bà mẹ trẻ để cho ông ta dẫn cô vào nhà và tới với sự thoải mái của chiếc ghế bành. Cô thở dài nhẹ nhõm.
“Tôi sẽ hâm nóng một chút sữa cho em bé” Lão Panov nói, “Tôi cũng đã có con - tôi có thể cho con bé bú.” Ông lấy sữa từ bếp lò và cẩn thận cho đứa con gái nhỏ bú bằng muỗng, đồng thời hơ ấm đôi bàn chân nhỏ của nó lên bếp.
“Con bé cần có giày”, ông thợ đóng giày nói.
Nhưng bà mẹ trẻ trả lời: “Tôi không có tiền mua giày đâu, tôi không có chồng để lo chu cấp cho chúng tôi. Tôi phải đi đến làng bên cạnh để tìm việc làm.”
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong trí của Lão Panov. Ông nhớ lại đôi giày nhỏ ông đã coi lại đêm qua. Nhưng ông muốn giữ đôi giầy ấy cho Chúa Giêsu. Ông nhìn xuống đôi chân lạnh của đưa bé một lần nữa và rồi làm một quyết tâm.
“Thử đôi giầy này cho con bé” ông vừa nói vừa đưa trả đứa bé cùng với đôi giày cho người mẹ. Đôi giày nhỏ xinh đẹp đi vào vừa vặn. Cô gái mỉm cười hạnh phúc và con bé cũng riú rít lên vì vui sướng.
“Ông tốt với chúng tôi quá”, cô gái nói, và bế đứa bé lên mà đi ra. “Mong rằng tất cả những ước mơ Giáng sinh của ông trở thành sự thật!”
Nhưng đến lúc này thì Lão Panov đã bắt đầu nghi ngờ cái ước mơ Giáng sinh đặc biệt của mình có thể trở thành sự thật không. Có lẽ ông đã bỏ lỡ người khách của mình? Ông lo lắng nhìn lên các đường phố cả trên lẫn dưới. Vẫn có nhiều người đi qua nhưng toàn là những gương mặt mà ông từng quen biết. Có nhiều người hàng xóm đi gọi người nhà về. Họ gật đầu chào và mỉm cười chúc ông Giáng sinh vui vẻ! Hoặc nhửng tên hành khất - và Lão Panov vội vã gọi họ vào nhà để biếu họ một tô súp nóng và một ổ bánh mì kha khá, rồi cũng vội vã chạy ra cửa để đề phòng ông không bỏ lỡ Ngừơi Lạ Mặt Quan Trọng.
Rồi thì chẳng mấy chốc mà cảnh hoàng hôn của mùa đông lại rơi xuống. Khi Lão Panov đi ra cửa một lần nữa và dù có căng đôi mắt của mình ra đến mấy, ông cũng không còn nhìn thấy một ai trên đường. Mọi người đều đã về nhà. Ông chậm rãi đi vào phòng, đóng cửa chớp xuống, và ngồi xuống một cách mệt mỏi trên chiếc ghế bành.
Chỉ là một giấc mơ thôi. Chúa Giêsu nào có đến.
Nhưng bỗng nhiên ông cảm thấy ông không ở một mình trong phòng.
Điều xảy ra không phải là một giấc mơ vì ông hoàn toàn tỉnh táo. Đầu tiên, ông thấy trước mắt một hàng dài những người đã đến với ông ngày hôm đó. Ông già quét đường, người mẹ trẻ và đứa con và những người hành khất mà ông đã cho ăn.
Khi họ đi qua, họ đều thì thầm một câu: “Ông không thấy tôi à, Ông Panov?”
“Bạn là ai?” ông kêu lên, hoang mang.
Lập tức, một giọng nói khác trả lời ông. Đó là giọng nói từ giấc mơ - giọng của Chúa Giêsu.
“Ta đã đói, ngươi đã cho ăn,” Chúa nói. “Ta trần chuồng và ngươi đã cho mặc. Ta lạnh và ngươi sưởi ấm cho Ta. Hôm nay Ta đến thăm ngươi qua tất cả những người mà ngươi đã mời vào mà cứu giúp.”
Rồi sau đó, là một sự tĩnh mịch. Chỉ còn tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ lớn. Một sự bình an và hạnh phúc lớn lao lấp đầy căn phòng nhỏ, tràn ngập trái tim của Lão Panov đến nỗi Lão phải phá lên cười, hát vang và nhảy múa hân hoan.
“Ngài đến thật rồi!” ông chỉ nói được như thế mà thôi.
✍️ TMT dịch 22/12/2014
Tố Ngọc Trần Sưu tầm

24 thg 12, 2025

NHỚ MÃI DÒNG SÔNG , NHỚ CHỊ- Nguyễn Thị Châu

 

NHỚ MÃI DÒNG SÔNG

🌷🌷
Đứng trên cầu mới Bến Đình
Dòng sông êm ả lung linh nắng vàng
Sông quê nước chảy xuôi dòng
Tìm con đò nhỏ ngóng trông lâu rồi
Người con ly loạn ra đi
Bến Đình ngày ấy sầu bi lặng thầm
Thế rồi người ấy biệt tâm
Nước sông róc rách khóc thầm cho ai?
Chiến tranh gieo rắt ai hoài
Người đi kẻ ở mắt cay xé lòng
Dòng sông nước chảy mênh mông
Hàng dừa phe phẩy tay dang đón chào
Người con xa xứ hôm nào
Trở về quê cũ lòng nao nao buồn
Bến Cầu nhiều lắm tang thương
Dòng sông Vàm Cỏ còn thương dân lành
Nước sông nay vẫn còn xanh
Lòng người xa xứ không đành rời đi
Bến Cầu nhớ mãi người ơi!
Dòng sông êm ả! Người đi không về ..
10-12-2025
Nguyễn thị Châu
NHỚ CHỊ
🌷🌷
Lặng lẽ chiều nay nhớ mênh mông
Nhớ hàng hoa trắng cài bên song
Là lúc tiễn đưa người chị mến
Cả đời vất vả với chồng con
Hôm nay tuổi hạc đã cao rồi
Trở về cát bụi theo gió trôi
Đã biết trần gian là cõi tạm
Sao lòng ray rức mãi không thôi
Bao ngày em đến để viếng thăm
Hàn huyên tâm sự chuyện xa xăm
Chị cười em nói trong vui vẻ
Hồng trần bỏ lại với tình thân
Suốt đời tận tuỵ với gia đường
Ra đi để lại bao tiếc thương
Kiếp sống phù du là thế đó
Sắc sắc không không nghĩa cuộc đời…!!!
17-12-2025
Nguyễn thị Châu
Bài thơ dâng chị tôi
Cầu nguyện hương hồn chị thảnh thơi nơi cửa Phật

MỜI ĐOC - ST Trên Mạng

 



23 thg 12, 2025

NOEL CUỐI CÙNG Ở ĐỨC LINH- Pham văn Bắc- Sư pham Saigom

 NOEL CUỐI CÙNG Ở ĐỨC LINH

Thị trấn đất đỏ Võ Đắt chiều 24/12/1981, sau buổi dạy, mình về phòng, tìm một bộ quần áo chỉnh tề để đến tối sẽ dự lễ đêm Giáng Sinh tại nhà thờ Võ Đắt. Đó là Giáng Sinh cuối cùng của mình ở Đức Linh, vì sau đó không lâu nữa mình sẽ trở về Saigon.
Đêm ấy cũng là cuối tháng âm lịch không trăng, trời tối mịt. Trên con đường từ trường A Đức Hạnh đến nhà thờ khoảng gần 1km, chỉ có những ánh đèn dầu thấp thoáng trong các căn nhà hai bên đường. Trời cao nguyên lạnh giá, từng nhóm vài ba người âm thầm đi đến nhà thờ dự lễ. Mình cũng một mình đi trong dòng người đó, vừa đi trong lòng vừa suy nghĩ miên man. Mình đến nơi này khi là một thanh niên vừa tròn 19 tuổi với một tâm hồn trai trẻ vô tư. Từ đó, bước chân mình đã in dấu khắp nơi, tâm hồn mình đã dậy lên biết bao cung bậc cảm xúc trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ và nên thơ ở vùng đất này. Rồi có một ngày, trái tim mình cũng vương vấn một bóng hình nào đó, lòng cũng xao xuyến trước một ánh mắt buồn vời vợi và một bờ môi xinh xắn, cung đàn ngày ấy cũng hoà quyện với một giọng hát u hoài... nhưng tất cả chỉ là cơn gió thoảng qua. Thôi "trả hết về người, chuyện cũ đẹp ngời, chuyện ngắn chuyện dài, trả hết cho người" để tâm hồn thanh thản, để tìm được bình an trong Chúa Giáng Sinh.
Vậy mà gần nửa thế kỷ đã qua đi từ đêm Noel cuối cùng ấy. "Thời gian qua mau quá, tôi ngỡ như ngày nào, đôi mắt em như sao, soi chiếu tâm hồn nhau..."

Phạm văn Bắc

Giáng Sinh Lệ - Thuyên Huy

 Mượn một số địa danh thật, chuyện viết bằng bối cảnh tự dựng, tình tiết và nhân vật tưởng tượng.



Trận bão lớn, bất thần cuồn cuộn kéo về từ hướng Kiến Phong, Cao Lảnh, xuôi xuống miệt nam, mưa cuồng như thác đổ rồi giông gió giăng trời, càn qua mấy xã phía trong Định Yên, Hội An Đông, Long Hưng, biến cả đồng ruộng, nhà cửa, vườn tược chợ búa thành một vùng trời nước mênh mông, lụt ngập lên che khuất khỏi ngọn cây, không khác gì mùa lụt hàng năm, gần hết nhà cửa của dân mấy xã này, mấy xã nghèo nhất trong quận, bị cuốn trôi, mái tranh đầu này, phên liếp đầu kia, lưa thưa, lác đác năm ba tấm vách đất đứng trơ mình giữa trời chịu nạn, nơi ăn chốn ở từ bao nhiêu năm qua giờ đây người dân đành chịu cảnh màn trời chiếu đất.


Vì chuyện của quận, lo quá, sáng nay chẳng màn cà phê cà pháo, Hiển đã xuống Bình Thạnh Trung từ sớm, quên cả chuyện chờ lính mở đường, sau khi nhận vật liệu, lều vải từ trên tỉnh đem xuống, lo đôn đốc nhân viên xã ấp, thầy cô giáo, đoàn cán bộ Xây dựng nông thôn cùng mấy tiểu đội nghĩa quân, ra sức dựng cái trại cho người dân tạm trú, thúc hối lập danh sách gấp cho họ nhận đồ cứu trợ, mùng mền, gạo mắm, áo quần sớm, chờ cho nước rút rồi có trợ cấp chính thức tái dựng lại nhà cửa, thấy công việc đâu đó tạm êm xuôi, Hiển giao lại cho bác Lên, xã trưởng xã Bình Thạnh Trung lo tiếp, trở về lại văn phòng quận trên Bình Thạnh Đông.


Lưng lửng giữa trưa, nắng không nắng mưa không mưa, trời cứ âm u như từ mấy ngày qua, mưa lâm râm từng đợt, lúc ngưng lúc tạnh, xe về tới ngã ba, trên đường quẹo vào văn phòng, kéo nón trùm đầu của cái “bông – sô” che mưa xuống, từ xa nhìn vào, Hiển ngó qua người lính nghĩa quân lái xe ngồi bên cạnh lấy làm lạ “cha chuyện gì đây”, người lính trố mắt nhìn theo lắc đầu, khi thấy thiếu tá Trọng, quận trưởng đang đứng nói qua nói lại gì đó với một nhóm chừng sáy bảy người, trong đó thấp thoáng có hai dì phước áo trắng của dòng “Good Shepherd Sisters”ở nữ chủng viện Vĩnh Long ngoài hành lang, trước cửa vào, xe dừng lại không xa bậc thềm xi măng lắm, Hiển cởi bỏ cái “bông – sô” để lại trên ghế, bước nhanh xuống thì thiếu tá Trọng cũng vừa đi ra, ông cười, cũng nụ cười thân thiện đàn anh hàng ngày, làm dấu lẹ lên, rồi chỉ ra xe ông, đám lính đang chờ, vừa nói vừa bước ra sân “khách chờ trong văn phòng, chuyện này ông lo, tôi đi qua chi khu một chút, có gì anh em mình bàn lại sau”, Hiển đưa tay quẹt mớ nước mưa đọng hờ trên tóc, gật đầu, đứng ngó theo, chờ ông lên xe chạy đi, đẩy cửa vào, mưa bất chợt lất phất trở lại, hình như có chút nắng thập thò ở phía ngoài khu chợ quận, chợ vắng tanh không người.


Hiển bước vào, cùng lúc mấy người khách cũng từ trong đi ra, chú tư Tân, trưởng ban hành chánh, nép qua một bên bàn viết phía trong, lớn tiếng “dạ ông phó đây”, mấy người khách lớn tuổi, có ông có bà trố mắt, mĩm cười gật đầu, đứng phía sau, một lần nữa chị thư ký nhìn hai dì phước nói nhỏ “ông phó đó”, hai người bước tới nhỏ nhẹ “dạ chào ông phó”, Hiển chào đáp lễ, bỗng ngờ ngợ nhìn phớt người di phước trẻ, bất chợt hình ảnh của cô học trò tên Nhật An, lớp đệ Nhị, trường tư thục Đồng Nai của hơn năm năm trước, thoáng chốc hiện về, cái nốt ruồi duyên đen màu sương sớm trên mí mắt trái, cái nốt ruồi mà Hiển thương không biết bao nhiêu nhưng không dám nói ra, nhìn thấy rõ trên khuôn mặt được che bởi cái khăn choàng trắng phủ quanh đầu, trong khi đó, người dì phước trẻ, Nhật An cũng bối rối, ngạc nhiên như Hiển, cũng hai tiếng “chẳng lẽ” thầy Hiển dạy đại số năm đó đây sao, Hiển khựng lại chốc lát, định thần rồi mời vào phòng làm việc của mình, chị thư ký cầm sấp giấy ghi chép theo sau.

Câu chuyện xoay quanh việc nữ chủng viện Vĩnh Long muốn tổ chức cứu trợ cho người dân quận Lấp Vò bị cơn bão vừa qua, phụ với chính quyền tỉnh Sa Đéc một phần, vì họ vừa nhận được vật dụng cũng như tiền tặng dữ từ một số mạnh thường quân quen của chủng viện từ trên Sài Gòn cũng như ở Vĩnh Long, nhờ quận sắp xếp giùm và theo như lời của ông quận trưởng thì người lo đó chính là Hiển, suốt buổi, người dì phước bề trên lớn tuổi, xem ra nói gần hết, dì Nhật An lặng thinh nghe, thỉnh thoảng gật đầu như chính mình đang nghe cả tiếng lòng run rẫy.

Ra về, mưa dứt, trời có chút nắng muộn, Hiển đưa mọi người tới tận cổng văn phòng quận, nơi chiếc xe đò lỡ nhỏ đậu ở đó chờ, là người sau cùng, trước khi lên xe dì Nhật An quay lại nhìn Hiển cười, bỗng dưng hai người cùng nói một lượt “không ngờ là có ngày mình gặp lại nhau”. Chiếc xe chầm chậm ra đường lộ, qua khung cửa sau, dì Nhật An vẫn còn quay đầu nhìn lại, nói gì đó với người dì phước bề trên lớn tuổi, Hiển đứng nhìn theo đến khi xe khuất đâu đó đàng sau khu nhà lồng chợ quận mới trở vào, anh lính nghĩa quân gát cổng, ngồi trong lô cốt canh, đứng dậy “chào ông phó”, Hiển vu vơ nhìn lên trời cao, cười với đám mây xám lãng đãng quyện hình đôi cánh thiên thần. Vào văn phòng, Hiển ngồi thừ ở bàn, mớ công văn chưa đọc chưa ký vẫn nằm nguyên, không màng đụng tới, đêm đó một đêm nữa không ngủ, Hiển cứ trằn trọc trở mình, mong cho trời mau sáng ngày mai, ngày phát quà cứu trợ cho người dân mấy xã bị nạn bão lụt.


Vào học đầu năm thứ ba, tình cờ gặp chị Thủy, chị của Hòa, thằng bạn cùng lớp đệ Nhất trường tỉnh, con nhà khá giả nên đã đi du học đâu đó bên trời Tây, chị Thủy đang dạy Pháp văn ở trường tư thục Bác Ái, đối diện bên này trường Sư phạm Sài Gòn, chị biết rành gia cảnh nghèo của Hiển từ khi còn ở tỉnh nhà, cũng như Hiển vốn giỏi toán từ trung học và đã đi dạy kèm cho một số con nhà người quen của chị luyện thi ở Sài Gòn từ năm đầu đại học, hôm lang thang tìm mua sách cũ ở chợ trời Hàm Nghi, trời chiều nóng, hai chị em kéo vào cái xe nước mía bên đường tránh nắng, hỏi thăm chuyện nhà chuyện học hành, rồi sau đó nhờ chị giới thiệu, Hiển đến nhận dạy môn đại số, một tuần hai ngày, một ngày hai giờ, kỳ đệ nhị lục cá nguyệt, lớp đệ Nhị của trường tư thục Đồng Nai, thay cho người thầy môn này bị động viên nhập ngủ, nằm không xa bồn binh đường Hậu Giang, ngã ra Phú Lâm.

Vốn tính có chút máu “văn nghệ văn gừng” trong người nên thường khi anh chàng cũng hơi “méo mó nghề nghiệp”, nhưng cũng vì đó mà Hiển đã được cả lớp, trai cũng như gái thích học và tỏ ra hâm mộ ông thầy đại số, ông thầy không hơn họ bao nhiêu tuổi, hiệu trưởng, thầy cô không ai than phiền mà còn ủng hộ là khác. Cứ sau khi xong bài học, còn dư giờ trong khoảng thời gian hai giờ dạy, Hiển nói về thơ về nhạc cho vui, nào là “Áo lụa Hà Đông, Ngày xưa Hoàng Thị, Bài không tên cuối cùng” hay “Nếu biết rằng tôi đã có chồng, Người đi một nửa hồn tôi chết...”, cả lớp, nhất là đang ở “tuổi biết buồn” nghe không chịu ra về, dù chuông tan trường reo từng hồi hối thúc, đám con gái thì lăng xăng, háo hức hỏi này hỏi nọ, trở lại tuần sau, chưa bắt đầu bài đã nhắc tiếp theo lần trước.


Vì dạy giờ cuối trong ngày nên Hiển thường đón xe buýt về chung với ba bốn cô của lớp đệ Nhị, trên đường Trần Quốc Toản ra hướng Sài Gòn, thân thiện gọi nhau “thầy thầy em em” rân trời, trong mấy cô này, cô nào cô nấy nhanh tay lẹ chân không ai bằng, thường xuống ở vài trạm trước, còn lại Hiển và Nhật An đi tiếp, hai thầy trò ngồi nhìn đường phố, hỏi qua nói lại chuyện không đầu không đuôi, ngược lại với ba người kia, Nhật An, ít nói, chỉ cười nhẹ, bẽn lẽn hơn, có cái nốt ruồi duyên màu sương sáng trên mí mắt mà Hiển đã để ý ngay từ giờ dạy đầu tiên, Nhật An xuống xe ở góc đường Lê Đại Hành, con đường nằm dọc theo trường đua ngựa Phú Thọ, ngồi một mình về Cao Thắng, Hiển cứ nhớ quanh nhớ quẩn cái nốt ruồi duyên và cũng từ ngày đó Hiển thấy hồn mình là lạ khó tả.



Chiều thứ bảy, Hiển đến ăn cơm chiều như đã hứa, nhà Nhật An, một căn nhà gạch nhỏ có cái gác cây lững phía trên, ở gần cuối đường Lê Đại Hành, xế ngang ngã ba đường qua cư xá Lữ Gia, nhà có hai mẹ con, có cái sạp bán quần áo, giày dép bên chợ Thiếc, theo lời bác, sau khi sinh Nhật An ra, chừng hơn một năm, chồng bác bỏ đi biền biệt không về từ ngày đó, cho đến giờ bác cũng không nghe tin tức gì về ông, lúc đầu còn mong còn chờ nhưng ngày qua ngày, hơn mười mấy năm rồi, cũng đã đủ, càng xa càng biệt, xem như ông đã chết, mọi thứ nguội lạnh từ lâu, hai mẹ con vui với nhau mà sống.

Quen dần, Hiển thỉnh thoảng đến thăm Nhật An, hai tiếng thầy bỗng dưng không còn gọi, anh Hiển, Nhật An vậy đó, được bác đồng ý, Hiển đôi ba lần, có khi cùng với mấy cô bạn cùng lớp cùng chuyến xe buýt, có khi chỉ có hai người, đưa nhau lên xuống phố phường, hết ngõ qua Duy Tân cây dài bóng mát về Lê Thánh Tôn đuổi lá me bay, cười ngã nghiêng với ly kem Mai Hương, mắt cay mắt xé với tô bún bò Tam Đa giữa giòng người của Sài Gòn chiều cuối tuần, nắng mưa bất chợt, rồi từ đó, cũng giữa những lần bên nhau nắng mưa bất chợt cả hai, Hiển và Nhật An biết mình đã thương người rồi.


Gần cuối giữa năm học, Hiển thôi không còn dạy nữa vì trường đã tìm được thầy khác, trước tết vài hôm, Hiển ghé nhà Nhật An chào từ giã về tỉnh ăn tết, mẹ Nhật An gởi theo gói quà nhỏ cho gia đình anh, gọi là chút quà lấy thảo. Mùng một tết Mậu Thân, Bắc Việt tung quân tổng tấn công hầu hết các tỉnh thành, luôn cả Sài Gòn, trận chiến kéo dài một thời gian, đường xá bị kẹt cứng, xe đò xe hàng không chạy được, nhất là mấy ngã từ các tỉnh về Sài Gòn, nhưng cuối cùng rồi cũng ngưng, Hiển cũng kẹt lại dưới tỉnh, hơn mười mấy ngày mới trở xuống Sài Gòn, trường cũng vừa vào học lại, từ ngã tư Bảy Hiền xuống, từ ngã tư Hàng Xanh qua, nhà cửa cái còn cái mất, cái loang lỡ cháy đen cái trơ vơ gạch nám.


Sáng thứ bảy hôm sau ngày xuống Sài Gòn, Hiển đón xe xích lô đạp tới tìm Nhật An thì không còn ai đó nữa, một dãy nhà trên đường Lê Đại Hành, khúc này đã bị sụp đổ gần hết vì đạn pháo, hỏi người quen chung quanh, mới hay là mẹ của Nhật An cùng gia đình bên cạnh đã chết vì nhà bị trúng đạn pháo ngay trái đầu trưa mùng một tết, nghe nói bà con đem bà chôn ở nghĩa trang Phú Thọ Hòa, đám tang xong, không thấy Nhật An về đây nữa, miếng đất phủ đầy than bụi, gạch ngói nằm nám đen miếng lành miếng bể, không thấy ai tới lui, mặt khác chợ Thiếc cũng bị cháy rụi từ đầu tới cuối, nên sạp áo quần của nhà Nhật An không còn gì hết, Hiển bàng hoàng thờ thẩn hết mấy ngày, ngồi trong giảng đường như người mất hồn, xót xa buồn, xót xa nhớ.

Hiển trở lại trường Đồng Nai, nhà trường cũng như đám học trò cũ, bạn của Nhật An cho biết, chôn cất mẹ xong, Nhật An có trở lại trường rồi từ giã bạn bè, thầy cô, trường lớp ra đi, không nói là đi đâu và ở chỗ nào, cứ bảo là đi về quê bà con ở xa, hẹn khi nào thuận tiện sẽ viết thư cho biết địa chỉ, thế thôi. Sáu tháng, nửa năm chờ, nửa năm ngóng trông, vẫn không có tin gì về Nhật An, ngay cả mấy cô bạn thân cùng lớp cũng chẳng biết gì hơn, Hiển thôi cũng đành cố quên để mà nhớ, cuối năm tốt nghiệp, ra làm tận Cung Sơn Phú Yên, rồi ngược xuống Lấp Vò Sa Đéc cho đến giờ.


Hơn một tuần, công việc cứu trợ người dân nạn lụt quận Lấp Vò xong, mọi chuyện đều tốt đẹp, suốt trong những ngày làm việc bên nhau, dì Nhật An xem ra nói cười nhiều hơn lúc đầu mới gặp, Hiển thì khỏi nói, chuyện của những ngày mới quen, mới thương thầm trộm nhớ sống lại không mời không gọi, nhưng cả hai, ở trong hoàn cảnh này, thì “nổi lòng biết tỏ cùng ai”. Dì Nhật An về tu viện, thỉnh thoảng đôi lần qua Vĩnh Long, vai vế Hiển với một số dì phước ở đó không lạ gì sau chuyến cứu trợ, Hiển cũng ghé tạt ngang tu viện, ai nấy mừng rỡ đón, Hiển xin phép Mẹ bề trên, được gặp thẳm hỏi dì Nhật An đôi lời, gặp để rồi lên xe về Sa Đéc mà buồn man mác, buồn dịu vợi, buồn muốn khóc.

Về Lấp Vò, không còn bao lâu nữa tới ngày Giáng Sinh, chuyện xã chuyện quận, chuyện gì cũng gát lại, ngày đó nhất định phải qua Vĩnh Long, đi lễ chiều ở nhà thờ chánh tòa, lễ đó có mặt đủ các dì bên nữ tu viện, dĩ nhiên là có dì Nhật An, Hiển đứng ngồi không yên, thở ra thở vào, nôn na nôn nóng đếm từng ngày một mặc dù còn gần cả tháng nữa, nôn nóng gặp để gặp cho thỏa nhớ, nhớ riêng mình, chứ biết có nói và dám nói được gì không.


Ngày 24 tháng 12, chuyến xe đò lỡ từ Sài gòn về Vĩnh Long sớm, không may bị trúng mìn do quân du kích gài trong mấy cái mô đất, chắn ngang đường đêm qua, khỏi đoạn ngang xã Mỹ Đức Tây, về hướng Bắc Mỹ Thuận không mấy xa, nổ tung, bốn năm người bị thương, số còn lại chừng mươi người chết, trong đó không may có dì phước Nhật An, dì trên đường trở xuống Vĩnh Long sau hôm về Sài Gòn thăm mộ mẹ, đi buổi sáng sớm để về kịp thánh lễ chiều Giáng Sinh như đã định. Xe cứu thương quân đội từ Cai Lậy xuống, chở đến bờ bên này bờ Bắc Mỹ Thuận, rồi đưa xuống chiếc tàu hàng tư nhân, chở qua bên kia cho lẹ, vì chờ phà quá lâu, xác dì Nhật An, được mẹ bề trên và cha xứ đến nhận rồi mang về làm lễ tang tại nữ tu viện, ngay khi xe đem về tới nhà xác bệnh viện tỉnh. Đọc lá thư xin tu xuất và vài trang chót cuốn nhật ký của dì Nhật An, với sự đồng ý của cha xứ, sáng sớm hôm sau, mẹ bề trên nhờ một người quen của một trong mấy bác họ đạo, chạy xe Honda đi Sa Đéc, xuống Lấp Vò.




Hiển đứng chết lặng, rấm rứt khóc bên cái quan tài phủ khăn choàng và những cành Huệ trắng, đặt ở một phía sát tường trong phòng tiếp khách, ngó ra khoảng sân rộng lát gạch nâu hâm hấp nắng chiều, cha xứ, mẹ bề trên, các dì phước và mấy bác trong nhóm cứu trợ nạn lụt Lấp Vò vừa qua đứng lặng im, xót xa nhìn từ góc phòng, có cây thông Giáng sinh xanh màu lá, lâm râm đoạn kinh lạy Chúa, lá thư xin tu xuất gởi mẹ bề trên ghi ngày rời tu viện 25 tháng 12 và trang cuối cùng cuốn nhật ký dì Nhật An viết, trước khi về Sài Gòn thăm mộ mẹ, còn nguyên màu mực mới “giữa đêm 20/12, có lẽ định mạng muốn vậy, nên mình mới gặp lại nhau, từ ngày gặp anh ở văn phòng quận Lấp Vò, Nhật An cứ nghĩ mãi về chuyện cũ, Nhật An không làm sao quên được anh, đã yêu anh mất rồi, con đã có lỗi với Chúa, người đã dắt con trên con đường quên đời mà sống vui vì đạo suốt bao nhiêu năm qua, nhưng Chúa ơi, con không thể dối lòng, con không thể quên anh Hiển, tình yêu bỗng bừng sống lại, con không làm sao chống chọi nỗi, xin Chúa tha thứ cho con, anh Hiển ơi, sau thánh lễ chiều hôm Giáng sinh này, Nhật An sẽ gặp riêng anh, một Nhật An, đứa học trò lớp đệ Nhị, chứ không là một dì phước Nhật An nữa, mình sẽ kể nhau nghe chuyện buồn vui ngày đó và nói chuyện bây giờ nghe anh...” để trước di ảnh, trên đầu quan tài vẫn còn mở, hình như có chút nước mắt màu sương sớm nhạt nhòa đâu đó ở cuối trang giấy.



Buổi thánh lễ Giáng Sinh chiều hôm đó xong lâu rồi, người đi lễ lần lượt ra về không còn một ai, bên trong vắng lặng, Hiển vẫn cứ đứng đó, trước cửa, nép vào một góc tường, cuối bậc thềm đi lên, cầm cuốn nhật ký trên tay chờ như lời hẹn, cho đến khi đèn nến tắt, chuông không còn đổ trên gác cao, nắng chiều chậm xuống trãi dài ngang cây cầu vào chợ, bà bác già quét dọn nhà thờ từ trong đi ra, sửa soạn đóng cửa chính, nhìn thấy Hiển, bà nhẹ miệng cười hỏi có cần gì không, Hiển lắc đầu “dạ không, cháu chờ người quen nhưng không biết chừng nào mới tới”, bà gật đầu đi vào lầm thầm “ai hẹn người ta sao mà tới giờ cũng không chịu tới ”, cửa khép lại, Hiển bật khóc.




Thuyên Huy

Viết lại từ một câu chuyện cũ - Ascot Vale sắp vào Giáng Sinh 2025

Posted by 304Denat 2:57 PM


22 thg 12, 2025

LỬ KHÁCH - Pham Văn Bắc ( Sư Pham Saigon )

 LỮ KHÁCH

Một ngày tháng 11 năm 1978, lúc đó mình đang ở trường A Huy Khiêm. Được nghỉ năm ngày liền nên mình quyết định về thăm lại trường Gia An, nơi mình dạy trước đó.
Từ Huy Khiêm đi qua Tà Pao, Đoàn Kết, Đức Bình, Đồi Giang, Lạc Tánh, Bình Minh rồi về Gia An, tổng cộng gần 30km đường bộ. Mình muốn đi bộ để ngắm cảnh hai bên đường mà những lần đi xe khách chưa nhìn kỹ. Sau khi dạy xong buổi sáng, khoảng gần trưa, mình khoác ba lô bắt đầu lên đường. Vì đi bộ nên mình có thời gian để cảm nhận được cái đẹp và quyến rũ của cảnh núi rừng.
Đường ngày đó chỉ là đường đất, qua những xóm nhà tranh đơn sơ thưa thớt và vắng vẻ, những cánh rừng bạt ngàn với tiếng các loài chim hót và những nhánh phong lan đầy hương sắc, những con suối nhỏ róc rách. những ngọn đồi phủ đầy cây xanh, những ngọn núi hùng vĩ, những con dốc quanh co...
Chiều muộn, còn cách Gia An khoảng 8km, mình đến một khúc quanh ở đỉnh một con dốc. Đứng trên cao đó, mình chợt thấy quang cảnh xung quanh thật thú vị. Không gian hoàn toàn vắng lặng, đất trời mênh mang, không gian trong vắt, nắng chiều phủ vàng ngọn đồi bên kia dốc. Trên sườn núi ngang tầm mắt, những tán cây ngậm đầy nắng nhẹ lay trong gió. Từng cơn gió núi miên man lùa qua cho mình một cảm giác thật khoan khoái dễ chịu. Tâm hồn người lúc ấy như hoà nhập cùng với thiên nhiên kỳ diệu. Mình dừng lại một lúc lâu để cảm nhận được trọn vẹn cái cảm giác tuyệt vời ấy rồi tiếp tục rảo bước.
Mặt trời xuống dần, gần đến Gia An thì trời đã tối, ngọn núi Cà Toong chỉ còn thấy mờ mờ, gió từ phía sông La Ngà đưa lên lành lạnh. Mình giống như một lữ khách trên đường thiên lý đang tìm chỗ nghỉ chân sau một ngày giong ruổi..


Vươn Thơ Mới Kỳ 182_VỌNG TRI ÂM - Minh Tâm

 
Xướng:


Vọng tri âm

Ngồi buồn bấm đốt ngón tay
Lắng nghe tiếng gió thở dài bên song.
Trần hoàn sắc sắc, không không.
Địa cầu trôi mãi trăm vòng huyễn hư.
Buồn vui thấm đẫm tâm tư,
Lắng lòng thanh tịnh chân như tìm về.
Đường đời chân bước lê thê.
Tay đan cung nhạc vỗ về không gian.
Thanh âm dìu dặt tuôn tràn,
Buồn vui gửi gió bay ngàn dặm xa
Đất trời một cõi bao la
Bốn phương nào biết ai là tri âm?
Minh Tâm

Họa 1:

Diệu Âm tương cố

Ngẫm ai đây đó chung tay
Đường đời muôn lối dặm dài song song
Dẫu là trong sắc có không
Tám làn gió * xoáy một vòng thực hư
Niềm chung dằng dặc nỗi tư
Đến bao giờ thấu lòng như nhất về
Những là đất nước phu thê
Nâng ly tương cố nhớ về thời gian
Bạn tình bốn biển mộng tràn
Tựa mây nương gió ngút ngàn nẻo xa
Giờ đây cõi tạm lân la
Lắng trong hỗn độn đâu là diệu âm.
Tâm Quã
Nov. 25, 2025 

"Tám làn gió" (hay còn gọi là tám ngọn gió đời) là một khái niệm trong Phật giáo, đề cập đến tám cặp đối cực của cuộc sống mà con người thường phải đối mặt: được, mất, vinh, nhục, khen, chê, lạc, khổ. Chúng ta luân chuyển trong tám "ngọn gió" này và sanh tử luân hồi ngay trong đó.
  • Được (thành công, may mắn) và mất (thất bại, mất mát).
  • Vinh (danh vọng, địa vị) và nhục (sự sỉ nhục, mất mặt).
  • Khen (lời tán dương) và chê (lời chỉ trích).
  • Lạc (hạnh phúc, vui sướng) và khổ (đau khổ, phiền não)
Họa 2:

Buồn

Điệu buồn rớt xuống bàn tay
Tâm tư nặng trĩu buông dài chấn song
Hồng trần nhẹ bước chân không
Tấm thân ràng buộc mấy vòng thực hư
Sao còn cứ mãi ưu tư
Sớm mai thức dậy tâm như quay về
Nhớ lời nguyện ước phu thê
Vòng tay chưa trọn não nề trần gian
Hoàng hôn xuống thấp ngập tràn
Đường xưa mất dấu dặm ngàn nẽo xa
Nửa đời quạnh quẽ lân la
Trần ai bể khổ đâu là phúc âm?!!
Nguyễn Cang
Nov. 26, 2025

Họa 3:

Quay Về

Nhẹ nhàng nắm chặt đôi tay
Đong đưa tán lá trãi dài ngoài song
Nắng chiều xuống nhẹ trên không
Màn sương phớt lạnh quanh vòng thanh hư*
Giọt buồn trĩu nặng sầu tư
Đố ai hiểu được tâm như quay về
Thoạt nhìn ngoài ngỏ chi thê**
Đón mùa đông tới ngược về thời gian
Lâng lâng cảm xúc ngập tràn
Hòa theo điệp khúc muôn ngàn nẻo xa
Hồng trần địa vỏng thiên la
Ai mà tránh được mới là diệu âm
Hương Lệ Oanh VA
Dec, 2. 2025
Chú thích:
*thanh hư: thanh khiết trong sạch
**chi thê: từ Hán văn ý chim đậu trên câ

Họa 4:

Huyền hư

Từ khi bằng hữu chia tay
Đêm về nghe tiếng ngân dài ngoài song
Công thành danh toại như không
Xem qua xét lại cũng vòng huyền hư
Ai bày cho cảnh trầm tư
Thâm tâm ủ dột giá như trở về
Tưởng rằng sẽ được chi thê
Ước gì có thể quay về thời gian
Đầm đìa giọt lệ tuôn tràn
Xứ người khách lạ muôn ngàn nơi xa
Ai mà biết được thiên la
Khi trầm khi bổng ngỡ là ngũ âm
PTL

huyền hư 玄虛 : Triết lý "thâm diệu hư vô"
Thâm diệu hư vô" là một cách diễn đạt triết học mang tính trừu tượng, kết hợp hai khái niệm để nói về sự huyền bí, sâu sắc và vô biên của không gian hoặc trạng thái không tồn tại.
chi thê 枝棲 Chim đậu trên cành cây.
Ý nói chỗ nương tựa hoặc chức vụ để được an thân.
Thiên la 天 羅:  lưới trời
Ngũ âm 五音 : Năm âm bậc trong cổ nhạc Trung Hoa:
cung, thương  , giốc  , chủy  , vũ 羽


Mời Xem :

20 thg 12, 2025

KHOẢNH KHẮC , SÁNG ĐÔNG , ANH CHỈ CÓ TRÁI TIM - Thơ Trần Phong Vũ (Su Pham Saigon )

 

KHOẢNH KHẮC

Giả sử như bây giờ tôi có ra đi
Sự nghiệp công danh chẳng nghĩa địa gì
Tình thương mến thương nếu có
Vẫn chỉ nằm trong đôi dòng lệ...
Vợ và con đưa tiễn buổi phân kỳ
Giả sử bây giờ tổ quốc có chiến tranh
Khói nhang kia liệu có giúp thế giới hòa bình
Người ta nói về những điều " Không thể và có thể"
Hiện hữu nào sẽ soi chiếu cõi vô minh
Tôi chỉ là tôi trong con mắt bạn bè
Mắt người yêu khóc đến độ tè le
Và con cái nếu như mình phước phận
Mọi thứ sau cùng tất sẽ biết cách chia
Giả sử bây giờ tôi về được đến nhà
Hay cưỡi hạc phi thiên ca khúc dối già
Quỳ dưới chân bàn thờ tiên tổ
Tôi sẽ nói gì trước phút thăng hoa
Còn sống còn yêu cứ hồn nhiên tá lả
Chơi hết mình kể cả lúc mưa rơi
Hạnh phúc là khi giữa biết bao người
Ngộ tới ngộ lui vẫn nằm trong khoảnh khắc
TRẦN PHONG VŨ
15/12/25
....
Viết sau khi đi viếng tang bạn học Phạm Quốc Hòa về...

SÁNG ĐÔNG
Cất hết tình riêng vào cõi
Lắng nghe nhịp thở của đời
khi nỗi đau tìm tới
Dỗ mình mấy hạt thơ rơi
Mượn lấy dăm ba nét vẽ
Những sắc gam màu vu vơ
Quên đi nỗi sầu nhân thế
Quên ta số kiếp vật vờ
Buổi sáng tìm trong màu nắng
Mấy nụ mầm xanh vươn chồi
Cánh hoa khoe mình thầm lặng
Cùng lũ côn trùng loi choi
Cuộc sống muôn màu muôn vẻ
Tôi cũng cạn cùng ước mơ
Đường chiều chân ai bước khẽ
Ru mình ru bạn câu thơ
TRẦN PHONG VŨ

ANH CHỈ CÓ TRÁI TIM
Anh có gì đâu ...chỉ có trái tim
Nồng nàn đa cảm lại ...yếu mềm
Bởi thế hay phát sinh hệ lụy
Nhất là khi..anh lén ..yêu em
Anh có băn khoăn..có ngại ngùng
Sao cứ để hồn xao xuyến với bâng khuâng
Trái tim băng giá cho nó khỏe
Đừng nhớ thương ai đừng chạnh lòng
Mà cũng tại em đó đấy thôi
Vô tình hay cố ý thả thơ rơi
Đêm dài lắm mộng em có biết
Trăn trở héo mòn rồi tưởng tượng chơi vơi
Nhớ đến Trương Chi và chén ngọc
Mộng Cầm Mặc Tử mảnh trăng soi
Nhớ đến Sương mai và kẹp tóc
Thôi chết mình yêu ...ấy mất rồi
Chẳng kéo tơ vàng như Nguyễn Bính
Chẳng điên như Bùi Giáng mộng giai nhân
Chẳng thể thi thơ cùng xướng họa
Thôi thì status... đở tủi thân
Em có thương anh thì like nhé
Nếu còm ít chữ nữa càng hay
Anh sẽ gom cho đủ mùi nhân thế
Rùi thả tình thơ theo gió bay....
TRẦN PHONG VŨ