Những Người Bạn Sư Phạm Saigon
4 thg 12, 2025
ĐỪNG CHẾT NHƯ TÔI - npn
CHIA TAY HOÀNG HÔN - Pham Bắc -SPSaigon K. 13
Mời Xem CÁC BÀI KHÁC CỦA PHẠM BẮC :
Bức Tranh Cổ - Thủy Lâm Synh
Chú tôi là người ưa sưu tầm tranh cổ, chưa lần nào ông lại sung sướng như lần nầy vì ông đã mua được một bức tranh mà ông tin rằng đó là bức tranh vô giá.
Câu chuyện đưa đẩy chú tôi đi đến việc mua bức tranh khá giản dị. Ông nghe đồn có một người lạ vừa dọn tới làng nầy ở. Người ấy đã không chịu nổi cảnh túng thiếu của gia đình trong những ngày năm hết – tết tới, nên phải bán bức tranh gia bảo đó đi. Cũng có người bắn tiếng rằng bức tranh cổ đó đã có nhiều người dù nài nỉ mua với giá cao, nhưng người hàng xóm mới dọn tới nầy vẫn không thể bán vì lẽ những lời trối trăn của nội và cha ông ta cứ văng vẳng bên tai: “dù cho khổ sở đến đâu cũng đừng nên bán bức tranh nầy bởi nó là vật gia bảo của giòng họ nhà ta. Trên thế gian nầy sẽ không bao giờ tìm được bức thứ hai”.
Nghe láng giềng đồn đãi như thế, tính hiếu kỳ của chú tôi thêm kích thích nên ông thường lân la tới làm quen với người hàng xóm mới nầy. Điều đó hơi lạ bởi vì trong làng chú tôi thường chỉ giao du với nhóm thượng lưu, địa chủ. Nay chú tôi lại la cà đến một túp lều đơn sơ như thế nầy khiến thiên hạ xầm xì. Sau thời gian tới lui tâm sự, chú tôi được biết người hàng xóm mới nầy nguyên trước ở một huyện khác, nhà ông ta lại gần bờ con sông. Trận lụt lớn của mùa đông vừa qua đã trôi đi ngôi từ đường của giòng họ nhà ông ra biển. Đồ đac trong nhà đều bị nước cuốn phăng đi. Người hàng xóm cho biết ông phải tranh đấu vô cùng vất vã với cơn nước xoáy mới giành lại được chiếc rương gỗ đựng giấy tờ, khế ước ruộng nương và trong dó có cả bức tranh mà lâu lắm ông quên khuấy đi. Giọng người hàng xóm trở nên bùi ngùi như tiếc của cải đã mất mát, đôi mắt ông ta chớp lia, hai môi mím chặt để khỏi bật lên tiếng khóc, nếu ai để ý sẽ thấy chú tôi thoáng xúc động.
Và mỗi lần chú tôi đến chơi, người hàng xóm dù đang bận việc như chẻ lạt, đánh tranh cũng ngừng tay chạy vào nhà lôi ra bình trà nóng đang dựng trong vỏ trái dừa khô, hai cái ly vàng ố như lâu ngày không rửa. Đặt ly và bình trà trên chiếc bàn thô thiển ngoài hiên rồi rót nước mời chú tôi. Đối với chú tôi, loại trà nầy ông thường không thèm uống, nhưng người hàng xóm lịch sự quá thành ra ông cũng hết chén nầy đến chén khác. Chú tôi lung khởi nhập đề để xin xem bức tranh mà ông đã từng nghe kể lại. Như thông cảm được ý chú tôi, người hàng xóm mời ông vào trong, và mời chú tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu đang đặt giữa nhà. Người hàng xóm vào trong mở rương dài lấy ra bức tranh treo lên cái đinh đóng sẵn trên vách đất phía bên phải bàn thờ gia tiên. Nhìn sơ qua bức tranh, một buổi hoàng hôn ảm đạm, lòng chú tôi đã nảy ra ý khinh miệt, ông cho đó là tác phẩm của một tay họa sĩ rất tồi – một cây tùng cổ thụ cành lá sum suê đứng nghiêng mình xuống ao như chờ trăng lên soi bóng. Nhưng ánh trăng non vẫn núp sau cây tùng chỉ phản chiếu loang loáng trên mặt nước gợn lăn tăn nhiều vòng tròn như tự dưới ao một con cá đang trồi lên đớp mồi. Nền trời tím thẫm như than, một vài vì sao lấp lánh. Một loại tranh dân gian không đặc biệt, nhái lại các bức tranh Tàu đã có tự ngàn xưa mà chú tôi đã thấy treo nhan nhản ngoài chợ. Cái ý khinh khi còn trong trí chú tôi, ông thầm nghĩ “Chắc khó ba đời, nên họ cho bức tranh nầy là quý chăng!”. Tuy nghĩ vậy, nhưng cái đặc biệt của bức tranh ở chỗ chẳng có gì đặc biệt lại khiến chú tôi phân vân muốn tìm hiểu thêm. Cũng giống như khi xưa có nhà toán học cứ cắm đầu chạy theo mảnh ván nhỏ của chiếc xe ngựa để cố chứng minh một định đề chưa khám phá ra.
Ấy vậy mà sau nhiều ngày lui tới nhà người hàng xóm, chú tôi như ngộ ra vì đã tìm được giá trị thực của bức tranh mà ông nghĩ rằng vì mãi cất trong rương nên người chủ của nó hiện tại không hề hay biết. Hơn nữa, “một gã nông dân thất học như hắn làm gì biết thưởng thức tranh cổ”. Chú tôi nghĩ bụng như thế nên đưa ra đề nghị cùng người hàng xóm xin nhượng lại bức tranh với giá 200 lượng bạc, tương đương với ba mẫu ruộng tốt thời đó. Sau khi trả giá như thế, người hàng xóm chưa trả lời dứt khoát, chú tôi không đến nhà người hàng xóm nữa vì ông muốn chứng tỏ cho đối phương biết rằng không bán thì thôi chứ ông không tha thiết cho lắm. Quả nhiên người hàng xóm trúng kế chú tôi, ông ta gọi chú tôi đến để bán bức tranh nhưng đưa ra một điều kiện là khi nào làm ăn nên nổi ông sẽ mang tiền tới chuộc lại bức tranh theo thời giá. Dù chú tôi đã mê bức tranh đến độ đêm quên cả ngủ, ngày quên cả ăn, ông vẫn đồng ý ngay vì ông quan niệm rằng “của vô nhà khó như gió vô nhà trống”. Chú tôi còn chủ quan tin tưởng rằng cái nghèo sẽ đi theo người hàng xóm nầy đến hết cuộc đời, làm sao mà ông ấy có tiền để chuộc lại bức tranh, hơn nữa; chắc gì lúc ấy giá trị bức tranh là con số 200 lượng. Đó là những lý do khiến chú tôi đồng ý ngay để người hàng xóm giao bức tranh cho ông càng sớm càng tốt. Được thế, theo chú tôi đây là bức tanh quí giá nhất so với vô số tranh cổ đang có trong nhà chú tôi.
Tiền trao cháo múc, người hàng xóm nhận tiền, chú tôi đem tranh về. Cả đêm đó ông trằn trọc mãi, ông nghĩ thầm nếu giá 400 lượng ông cũng mua chứ đừng nói chi 200. Danh lam gặp khách hữu tình, bức tranh quý như thế mà thưởng thức một mình thì quả vô vị. Nhân cơ hội nầy, chú tôi làm một bữa nhậu, ông mời những người cùng sở thích về nhà uống rượu, ngồi xem bức tranh thần diệu đó. Chú tôi đánh cá những người bạn thử xem ai biết được sự thần diệu của bức tranh. Mọi người đều hớn hở, cố mở to mắt tìm xem cái độc đáo của nó, ai cũng nghĩ là mình sẽ tìm thấy cái giá trị mà chú tôi chưa tiết lộ vì họ đều là tay sành về tranh cổ. Chiếc đồng hồ quả lắc treo cạnh bàn thờ đổ mấy lần, bình rượu rót thêm bao lần cũng đã vơi. Mọi người đều uể oải nhưng bức tranh vẫn kênh kiệu không chịu thố lộ nét gì kỳ bí. Nó chễm chệ chiếm một vị trí quan trọng nhất trong phòng khách nhà chú tôi mà vẫn im lìm phong kín bí mật. Ngọn đèn tọa để trên bàn như ráng sức tỏa ra ánh sáng nhiều hơn để giúp những cặp mắt trọng tuổi, nhưng xem chừng những đôi mắt ấy vẫn chưa tìm được điểm gì đặc biệt. Đâu đó tiếng gà đã gáy, nỗi thất vọng toát ra trên từng gương mặt vốn đã khắc khổ nay trông càng thêm chảy dài. Có người đưa tay cầm tách trà nguội đổ vào miệng nuốt ực rồi từ giã, mấy người khác cũng đứng dậy theo, chào tạm biệt chú tôi, cũng có người hẹn đêm mai thế nào cũng tìm ra manh mối. Nhưng đêm mai và nhiều đêm mai nữa, không ai tìm thấy chút gì khác biệt trên bức tranh cổ đó. Và không cần tinh mắt lắm ai cũng thấy gương mặt chú tôi bắt đầu toát ra nỗi bàng hoàng.
Những người bạn của chú tôi đều chịu thua, có người tự trọng xác nhận mình già nên không còn tinh nhuệ như xưa, cũng có người ra vẻ phong độ nhưng lại đổ thừa cho những ngày cuối năm tâm trí bận rộn việc tết nhứt. Tuy vậy ai cũngï mong được chú tôi mách nước cho cái thần bí mà họ đoan chắc rằng ông đã khám phá. Miệng chú tôi đắng chát, ông hớp ngụm rượu đã bay hết hương vị rồi kể:
“Nghe người hàng xóm mới dọn tới có một bức tranh ảnh cổ, tôi đến xem chơi cho biết. Theo lời yêu cầu của tôi, người ấy lấy bức tranh treo lên vách đất và bảo rằng đó là bức tranh của ông nội để lại. Theo ông ta kể thì cả ông nội và cha ông ấy đều căn dặn rằng dù cho hoàn cảnh khó khăn thế nào cũng đừng bao giờ bán bức tranh ấy, riêng ông ta thì không biết nó quý ở chỗ nào. Thực tình lúc đầu tôi cũng không thấy cái gì đặc biệt, nhưng vì óc tò mò và sở thích tranh cổ đã khiến tôi ghé qua nhà người hàng xóm thường xuyên hơn. Tôi để ý bức tranh nhiều ngày mới hay là mặt trăng phía sau cây tùng lớn dần theo những ngày trước rằm và non dần theo những ngày sau rằm mỗi tháng. Đó là lý do khiến tôi nài nỉ ông ta để mua lại bức tranh dù ông ta không hề có ý bán nó, nhưng từ khi đem về cho đến nay như mấy anh đã thấy, mặt trăng núp sau cây tùng trong bức tranh không có gì thay đổi cả. Chắc tôi phải ghé lại ông hàng xóm hỏi cho ra lẽ.
Vừa qua khỏi tết chú tôi trở lại nhà người hàng xóm. Ông định bụng sẽ hỏi thăm thêm về gốc gác bức tranh. Sau bao lần chú tôi gọi cửa không có tiếng trả lời, thấy cánh cửa chỉ khép hờ chú tôi đẩy nhẹ bước vào nhà. Trên chiếc chõng tre không trải chiếu, một đống tranh vẽ chừng ba mươi tấm giống y như bức tranh chú tôi đã mua, chỉ khác nhau hình dáng mặt trăng núp sau cây tùng. Không đầy một tuần sau, chú tôi ngã bệnh qua đời, khi tẩn liệm người ta còn thấy bên khóe miệng chú tôi còn rỉ ra một vệt máu. Biết đâu chú tôi đã để lại tất cả, nhưng sẽ mang theo hình ảnh người hàng xóm thất học và bức tranh cổ xuống đáy âm ti.
Thuỷ Lâm Synh
Posted by 304Denat 4:35 PM
3 thg 12, 2025
XÓM CŨ _ Nguyễn Phúc Nguyên - Sư Pham Saigon
Xóm Cũ
CHỬ NGHĨA LÀNG VĂN Kỳ 1/12/2025 - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
Chữ nghĩa làng văn
***
Địa danh xưa - 1
Phố Tràng Tiền so với 36 phố phường Hà Nội mới chỉ có từ thời nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn lập phố Tràng Tiền để đúc tiền kẽm, tiền đồng cho triều đình.
Phố Hàng Đàn làm võng kiệu, long đình cho triều đình xưa, còn có những phố phục dịch cho quan lại như phố phố Mã Vĩ bán mũ áo cho các quan và phường chèo.
Phố Hàng Bài làm hài cho các bà lớn và những người đồng cốt.
Văn hóa ẩm thực
Bánh chưng, bánh tét, bánh dày, xôi và cốm
Nhưng Tết, xét từ nguyên uỷ là lễ thức, lễ hội được tiến hành sau mùa gặt hàng năm hay bắt đầu mùa gieo cấy. Tết như vậy để tạ ơn thần linh và tổ tiên và cầu mong kết quả cho vụ mùa năm tới.
Với những lễ vật tương ứng.
- Lúa vừa chín tới: lễ cúng ăn cốm.
- Lúa chín gặt: lễ cúng cơm mới.
(Huỳnh Ngọc Trảng)
Địa danh xưa - 2
Phố Tràng Thi hay Trường Thi nằm ở bắc của trường thi Thăng Long, nơi đây xưa kia là thi Hương ba năm một kỳ.
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Thân heo vừa béo lại vừa ù
Bảy nổi ba chìm với nước lu
Chết đuối quẫy chân không ai cứu
Đứa nào mà cứu, đứa ấy ngu
Nếu sinh vào tháng nào thì tính cách ứng với loại cây nào?
Theo như có những người sinh vào những tháng khác nhau, cũng sẽ có khí chất, khuôn mẫu khác nhau. Bạn sinh vào tháng mấy, bởi sách Lễ Ký có câu: "Tháng đầu Xuân, đức lớn tại Mộc". Cây cối mọc vào các mùa khác nhau, mỗi mùa đều có tính chất riêng.
Tháng Sáu, cây hợp hoan
Mưa tạnh đêm ngủ ngày lung linh
Vạn cành thơm uốn sợi tơ hồng.
(“Bồ Tát man" - Ôn Đình Quân)
Cây hợp hoan nở hoa vào tháng 6 tượng trưng cho cuộc sống gia đình hạnh phúc. "Thần Nông bản thảo" ghi lại rằng cây hợp hoan "chủ yếu làm dịu ngũ tạng, điều hòa tâm trí, khiến mọi người vui vẻ và không lo lắng".
Sinh vào tháng 6, bạn là người thân thiện và dễ gần. Đối nhân xử thế tràn ngập săn sóc quan tâm, có thể mang đến vui vẻ cho người bên cạnh.
(Lý Văn Hàm)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Hôm nay nhân dzợ đi xa
Còn cô em dzợ, dzê ra khỏi chuồng
Một cơn gió bụi
Họa si Tú Duyên và thủ ấn họa
Cùng khóa học với các họa sĩ : Nguyễn Văn Tỵ (1917-1992), Mạnh Quỳnh (1917-1991), Nguyễn Sỹ Ngọc (1919-1990), Nguyễn Thị Kim (1917-2011)…tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nhưng với tinh thần sáng tạo, óc khám phá cải tiến, Tú Duyên đã được các đồng nghiệp và giới mỹ thuật thế giới đặc biệt quan tâm qua những tác phẩm của họa sĩ.
Ngày 10.03.1953, trong cuộc triển lãm tranh ‘thủ ấn họa’ đầu tiên tại Nhà Hát lớn Sài Gòn, họa sĩ Nguyễn Thịnh Del, (tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Đương khóa, 1928-1933), giáo sư trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, đã nhận định :
“Thủ ấn họa đã tạo nên những bức tranh tuyệt mỹ, khiến cho người xem cảm thấy có những sắc màu riêng biệt thích hợp với tâm trạng của mình từng lúc. Điều này do nguồn cảm hứng của nghệ sĩ tạo nên” . Cùng quan điểm trên, họa sĩ U Văn An, giáo sư trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn cũng nhận định về tranh ‘thủ ấn họa’ của Tú Duyên :
“Với trình độ nghệ thuật chắc chắn cọng với lòng tận tụy vô bờ, họa sĩ Tú Duyên đã làm sống lại lối in bản khắc gỗ tranh Tết Việt Nam mà những họa sĩ trước đây ít ai dám làm vì phả tốn kém, hy sinh công sức quá nhiều”.
Công luận không ngớt lời ca ngợi :
“Mỗi bức tranh ‘thủ ấn họa của họa sĩ Tú Duyên chính là một bài thơ kỳ diệu, được sáng tác từ cõi mộng mơ, từ chiều sâu của tâm hồn bằng những nét đậm đà, duyên dáng và sắc màu nhẹ nhàng, tạo nên một sức lôi cuốn đẹp mắt” – Paul Faucon (3). Hoặc trên tờ ‘Revue Francaise-Asia’ (Tạp chí Pháp-Á), ông René de Berval cũng đã viết những lời trân trọng :
“ Những tác phẩm ‘thủ ấn họa’ của họa sĩ Tú Duyên vô cùng hấp dẫn khách thưởng ngoạn vì nó được diễn tả bởi chính tay nhà nghệ sĩ đích thực của một dân tộc ham nghiên cứu, tìm tòi, và nó chỉ có thể được tìm gặp trong những truyện kể và kho tàng văn học của đát nước tác giả”.
Từ đó, họa Tú Duyên được coi là một trong những họa sĩ tuổi cao, lão luyện tay nghề được trang trọng giới thiệu trong sách mỹ thuật ở Ý, quyển “Le Viet Nam” của nhà xuất bản Milan.
Năm 1956, họa sĩ Tú Duyên tiếp tục được nêu tên tuổi trên sách của tổ chức Unesco nói về văn hóa Việt Nam “Việt Nam, hôm qua và ngày nay” làm rạng rỡ cho giới nghệ sĩ tạo hình Việt Nam.
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Chớ để tuổi già mới niệm Phật
Mồ hoang lắm kẻ tóc còn xanh
Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 1
Trong tất cả các bài của 53 tác giả, phần lớn hình ảnh Ðỗ Ngọc Yến thường được mô tả bằng những kỷ niệm vui vui, pha chút ngộ nghĩnh của những người bạn đã từng có giai đoạn hoạt động, hay từng làm việc với anh. Riêng tác giả Ðỗ Quý Toàn trong bài: ”Yến, từ những ngày tuổi trẻ” đã mô tả chân dung Ðỗ Ngọc Yến, một nhà báo với những hình ảnh rõ rệt. Ở trang 53, tác giả Ðỗ Quý Toàn cho rằng tính tò mò là một trong những đức tính căn bản của một nhà báo. Không có đầy đủ đức tính này, một nhà báo không thể làm đầy đủ trách nhiệm tường thuật. Ðỗ Quý Toàn viết:
“...Yến rất thích đọc những tin lạ, tìm liên hệ giữa các mẩu tin rời, theo dõi những âm mưu chính trị hậu trường. Yến chú ý đến những tin tức khi mới nghe thì rất nhỏ nhưng sau đó lại có ảnh hưởng lớn tới thời sự. Trong đầu anh chàng chứa đầy hồ sơ những thông tin, chứa sẵn để sau đem sử dụng.
Yến cũng thích chính mình đi tìm những tin tức hậu trường. Khi vào nghề báo là Yến bắt đầu lang thang trên các quán đường Tự Do, gặp các phóng viên ngoại quốc và những ký giả Việt Nam làm cho các hãng thông tấn nước ngoài. Họ đều có những nguồn tin riêng vì họ quen các viên chức trong chính phủ hoặc trong quân đội và nhiều người nể nang họ. Sau khi ngồi uống cà phê với Cao Dao ở Givral về, Yến thường kể với tôi những chuyện mới nghe được, hoặc nhận xét của anh Cao Dao về hậu trường chính trị Sài Gòn. Thường đó là những nhận định rất lý thú vì anh Cao Dao biết nhiều chuyện hành lang mà anh lại có tài tổng hợp rất nhanh.
Cũng như Yến thích nói chuyện với anh Như Phong, một người biết rất nhiều về hậu trường chính trị Việt Nam từ 1940 đến 1970. Yến học được thói quen và khả năng tổng hợp của những bậc đàn anh đó...”
(Vũ Ánh)
Tiểu sử
Đỗ Ngọc Yến sinh năm 1941 – Mất ngày 17.8.2006
Tác phẩm
Nhà báo, sáng lập báo Người Việt và Thế Kỷ 21 tại Westminster, California.
Thơ Bút Tre
Chưa đi chưa biết Sài gòn
Đi rồi mới biết chẳng còn một xu
Về nhà mới biết là ngu
Mồm tiêu thì ít thằng cu tiêu nhiều
Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 2
Khi mở mục “Hành Lang Mật” trên báo Ðại Dân Tộc, Ðỗ Ngọc Yến dường như muốn thực hiện những hiểu biết của anh từ những tin tức hành lang, nghĩa là những tin không được chính thức phổ biến, nhưng phạm vị chỉ trong giới hạn những tin tức từ các phiên họp “bốn bên” ở trong căn cứ Tân Sơn Nhất sau Hiệp Ðịnh Paris mà thôi. Mục này đánh trúng tâm lý của độc giả Sài Gòn và Miền Nam lúc đó chỉ tò mò về những chuyện bên lề. Lý do, theo tác giả Ðỗ Quý Toàn vì không biết “bọn Việt Cộng này ăn ở ra sao, người ngợm như thế nào, trông họ có giống người mình không.”
Ðỗ Quý Toàn nhấn mạnh thêm trong bài viết:
“...Từ trong rừng đi ra, họ ở ngay bên cạnh thành phố, chỉ cách mình mấy hàng rào kẽm gai mà không ra tới đường cái, dân chúng không mấy ai được trông thấy họ. Hai phái đoàn Việt Cộng trong Tân Sơn Nhất giống như một đoàn xiếc lạ tới trình diễn, họ diễn ngay gần nhà mình nhưng lại chỉ biểu diễn cho một đám nhà báo tới coi mà thôi. Bàn dân thiên hạ thắc mắc, tò mò đúng như những khán giả phải đứng ngoài cửa rạp không được coi xiếc...
Ðỗ Ngọc Yến là người đi coi và quan sát đoàn xiệc đó, lân la gặp hỏi chuyện họ, nhưng rất khó được. Một cách khác là moi tin tức và giai thoại qua những sĩ quan và nhà báo quân đội VNCH có cơ hội tiếp xúc với họ rồi đem về kể lại cho anh em nghe trong mục Hành Lang Mật. Ðúng là cái máu tò mò của một nhà báo. Cái tính này bẩm sinh và không bao giờ bỏ được...”
(Vũ Ánh)
Trịnh Công Sơn với những khuất lấp
Dường như khổ thơ thứ hai của Bùi Giáng trong bài thơ đã được “hoá” hết trong ba phần lời ca khúc của Trịnh Công Sơn.
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bấy giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn qua lời ca khúc, cũng thấy Trịnh Công Sơn rất đặc sắc với những câu hát giầu chất bi kịch của tình yêu :
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ…
(Vương Tâm)
Vài trích đọan từ cuốn Trong đống tro tàn
Kịch bản về Trịnh Công Sơn
Có lẽ cũng như nhiều đồng nghiệp theo đuổi cái nghiệp làm phim tài liệu, chúng tôi buộc phải nghĩ nhiều, ghi chép và viết nhiều nhưng làm thành phim thì chẳng được là bao.
Làm phim phụ thuộc vào phép tắc, tiền bạc, phương tiện nhiều hơn hẳn so với các nghề khác như làm báo, viết sách, nhất là làm phim theo hệ cinema, bằng phim nhựa 35mm. Nên làm được cái nào biết cái nấy, mừng cái nấy. Nhiều khi ý tưởng hay mấy, kịch bản lạ mấy, quyết tâm đến mấy cũng đành bỏ xó.
(…)
Một kịch bản khác tôi tâm đắc vô cùng đó là khi tôi viết về Trịnh Công Sơn năm 1980. Có lẽ khi ấy vừa ở Nga về, vừa làm xong bộ phim “Phản bội” (1979 – 1980), đang “hăng tiết vịt”, tôi đã viết về Trịnh Công Sơn. Tôi kể những ngày tháng nằm hầm ở chiến trường miền Nam (1966 – 1969), mở trộm đài Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh mà nổi da gà. Những Đại bác đêm đêm vọng về thành phố/Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe/Những Người con gái Việt Nam da vàng… Con người miền Nam, hơi thở miền Nam, nhạc Trịnh ám ảnh tôi. Sao lại yêu thương đến thế! Sao lại da diết lay động đến thế!
(Trần Văn Thủy)
Trần Văn Thủy là một đạo diễn phim, sinh năm 1940 tại Nam Định. Hiện đang ở Hà Nội.
Trong chiên tranh ông làm phóng viên chiến trường. Ông đã đạo diễn trên 20 phim, trong đó có Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế…
Nam kỳ lục tỉnh, tên gọi và diện mạo
Vào xứ lạ Đàng trong, lưu dân từ những người xa lạ không quen biết, họ cùng nhau quần tụ lại lập thành xom thành làng, họ cùng nhau phá rừng khai khân đất hoang trong cuộc sinh tồn đầy gian nan. Tất cả họ trở thành “bà con một xứ”, với bà con tứ xứ, biểu hiện “tứ hải giai huynh đệ” của người Nam là thích nhậu. Bởi chưng người Nam là dân tứ xứ đến từ Đàng ngòai.
Do hòai đồng vọng quê cha đât tổ, nên sau những ngày cầy sâu cuốc bẫm, chặt cây đốn gỗ trên rừng, họ cần có bầu bạn để tâm tình, kể cho nhau nghe những hòai cô hương để vơi nỗi sầu ly hương. Do vậy họ có thể nhậu ở bờ ruộng, ven rừng đến những buổi cúng đình, ma chay, cúng giỗ, cưới hỏi.
(Trần Văn Chi)
Đọc Kiều của Trương Vĩnh Ký, nghĩ về ngôn ngữ Việt &
vài khía cạnh biến đổi ngữ âm, ngữ nghĩa trong Việt - 1
(Bài thuyết trình tại cuộc “Triển lãm và Hội thảo Tưởng niệm Trương Vĩnh Ký” tại nhật báo Người Việt, Westminster, Calif., USA, 2018)
Mục đích của bài này là trình bày một số tìm tòi, suy nghĩ của người viết về một vài nét đặc thù và thú vị trong ngôn ngữ Việt, cùng với việc tìm hiểu về một số biến đổi cả trên mặt ngữ âm và ngữ nghĩa của một số từ ngữ trong tiếng Việt, kể từ giai đoạn phôi thai của nó đến bây giờ.
Sự tìm hiểu và suy nghĩ ấy được thực hiện, khởi đầu, qua việc đọc quyển Kim, Vân, Kiều Truyện, bản phiên âm đầu tiên Truyện Kiều của Nguyễn Du, từ chữ Nôm qua chữ Quốc ngữ, của Trương Vĩnh Ký. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một nguồn sáng, về mặt ngôn ngữ văn học, của người Việt.
Chúng ta hãnh diện vì Truyện Kiều, không hẳn vì những khía cạnh triết lý, đạo đức hay xã hội, v.v., trong truyện mà người đời sau đã tìm ra hoặc gán cho nó. Chúng ta hãnh diện vì đã có một nhà thơ Việt, dùng chữ nghĩa của dân tộc, một cách hết sức tuyệt vời và điêu luyện, với những chiều sâu trong ý nghĩa và sự lóng lánh của chữ, để diễn tả câu chuyện.
Câu chuyện ấy, khởi đầu, được viết bằng chữ Nôm, là một thứ chữ có thể cũng được xem là Quốc ngữ của người Việt, trong giai đoạn chuyển tiếp từ chữ Hán. Đó là một đóng góp quý báu, trong giai đoạn ấy, của nhiều nhà nho tài giỏi và có lòng với đất nước. Chỉ tiếc rằng, vì những hoàn cảnh lịch sử và xã hội, chữ Nôm đã không được quảng đại quần chúng biết đến, ngay từ thời nó còn đang được sử dụng. Việc phiên âm một số văn bản văn học, được viết bằng chữ Nôm, sang chữ Quốc ngữ, là thứ chữ, sau đó, và cho đến bây giờ, được toàn dân sử dụng, là một nỗ lực đáng quý. Và cần thiết. Trương Vĩnh Ký là một người đi tiên phong trong việc làm đẹp đẽ và cần thiết đó.
(Bùi Vĩnh Phúc)
Đọc Kiều của Trương Vĩnh Ký, nghĩ về ngôn ngữ Việt &
vài khía cạnh biến đổi ngữ âm, ngữ nghĩa tiếng Việt - 2
Ông là một nhà bác ngữ học đầy tài năng, thông thạo nhiều thứ tiếng. Uyên thâm Hán học, giỏi tiếng Latinh và tiếng Pháp, lại cũng giỏi nhiều ngôn ngữ ở Viễn Đông như chữ Lào, chữ Chàm, chữ Miến, chữ Cao Miên, chữ Xiêm La, v.v., ông đã dịch bộ Minh Tâm Bửu Giám và Tứ Thư ra chữ Quốc Ngữ. Ông lại phiên âm ra chữ Quốc Ngữ, chú thích nghĩa lý, và dịch ra tiếng Pháp bộ sách Sơ Học Vấn Tân để giúp học sinh học chữ Hán.
Trương Vĩnh Ký cũng đã viết một quyển sử nước Nam để người đọc tiếng Pháp biết về lịch sử người Việt (Cours d’Histoire Annamite). Ngoài ra, tài liệu cũng cho ta thấy ông cũng đã viết nhiều sách bằng tiếng Pháp về văn phạm và ngôn ngữ Việt Nam để dạy cho cả người trong nước và người nước ngoài (Cours de Langue Annamite aux Europpéens - Phraséologie, Thèmes, Versions; Cours d’Annamite aux Élèves Europpéens; Grammaire de la Langue Annamite; Explication du Lục Vân Tiên; Prosodie et Versification Annamite - Cours d’Annamite aux Élèves Annamites, v.v...). Trương Vĩnh Ký lại bỏ công làm các bộ từ điển Việt-Pháp và Pháp-Việt để giúp cho người học.
Trương Vĩnh Ký đã bỏ cả đời mình để phụng vụ cho lý tưởng mà ông đã chọn: đóng góp phần tốt đẹp nhất của mình để làm lợi cho dân tộc, giúp ích cho người dân. Ông là một người có tài, có tâm, và có tầm. Là một người yêu nước, và cũng là một nhà ngoại giao, ông chống đối việc Pháp đưa quân xâm chiếm Việt Nam. Ông từ chối vào quốc tịch Pháp dù được giáo dục theo đường lối, cách thức làm việc, phương pháp khoa học của Âu Tây. Trương Vĩnh Ký muốn là một con người dân tộc, với mặt mày, bộ quần áo và tâm hồn dân tộc. Tâm hồn và tư cách Việt Nam.
Giống như Nguyễn Trường Tộ, ông có cái nhìn xa, muốn cho dân và nước đi lên, tiến bộ cùng thế giới. Trong chí hướng ấy, và trong hoàn cảnh lịch sử thời ông sống, ông đã đóng góp nhiều công sức, làm được bao nhiêu điều tốt đẹp, nhưng ông cũng bị ngộ nhận và chịu những đắng cay.
(Bùi Vĩnh Phúc)
Chữ nghĩa làng văn
Bài thơ dưới đây:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái bóng gương Tây Hồ
Vậy mà nhà biên khảo thạc sĩ luật * cho là…ca dao. Nhà biên khảo nào có hay bài thơ trong cuốn “Dương Gia Gia Phả Ký” của Dương Khuê. Và nguyên văn bài thơ có tên Hà Thành tức cảnh :
Phất phơ cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Dịp chày An Thái bóng gương Tây Hồ
Ngày mùng 10-4-1918, lần đầu Phạm Quỳnh ghé chốn thần Kinh, sau đó viết liền bút ký Mười ngày ở Huế để kịp đăng trên tạp chí Nam Phong. Ông viết: "Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu thơ ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bảy tầng, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca".
Và Phạm Quỳnh đã sửa lại là: Gió đưa cành trúc la đà - Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.
Nhà biên khảo Tây học * và ông Phạm Quỳnh không những sửa từ ngữ, còn đổi tên bài thơ là Gió đưa cành trúc la đà dựa vào tập Văn đàn bửu giám 1926-1938 mà bài thơ có tựa đề là Hà Nội tứ cảnh và sau đó là Hà Nội tức cảnh.
* Vũ Quốc Thúc : Gió đưa cành trúc la đà
(Trần Giao Thủy – Bài học ca dao)
Chuyện lông rùa sừng thỏ
Cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Ông Phan Huy Lê sang Pháp lấy được bản Toàn Thư, bèn nói đó là bản thời Chính Hoà! Khi ông Bùi Thiết cãi lại là không phải. Giáo sư lên mặt thày vặc lại bằng giọng cả vú lấp miệng em. Than ôi! Bản Chính Hoà mà sao trong đó có những tên huyện... mới lập thời Tự Đức. *
Đúng là chuyện đầu cua tai ếch
(Chân Diện Muc)
* Phụ đính 1: Bài thơ “Khóc Thị Bằng” người ta cho là của Ôn Như Hầu, người thì lại cho là của Tự Đức. Tôi cho là của Ôn Như Hầu. Giọng thơ của hầu trong cung oán rất đài các, nhưng trong thơ sai thằng Cam thăm vườn gừng tỏi lại rất bình dân, hợp với mưa hè nắng Chái, sớm Ngõ trưa Sân của bài khóc thị Bằng! Trái lại trong cung vua chỉ có ngọ môn, chỉ có hành lang chứ không có Ngõ, Chái Nhà! Câu:
Xếp tàn y lại để dành hơi
Không thể của một hoàng đế và mối tình vương giả của ngài (nếu có). Khi Phi chết, dù là rất yêu quí, ngài không thể lấy áo cũ (tàn y) của nàng để làm vật kỷ niệm, lâu lâu đem ra... ngửi. Tôi xin kính thưa: xin đừng viết chuyện lông rùa sừng thỏ như vậy!
Phụ đính 2: Có một vị, chắc cũng học giả, chú thích Đaị Việt Sử Ký Toàn Thư (đụng tới chính sử cuả Đaị Việt la chuyện lớn rồi đó) noí chúa Trịnh Giang chết về bịnh đau tim. Trật rồi đó nghen! Không nên để những người trình độ thấp chú thích những cuốn sử lớn như thế. Chư “tâm” là tim thì ai chả biết . Nhưng tâm cũng là lòng. Còn “tâm tật” không phaỉ…đau tim, đau lòng mà là bịnh tâm thần (điên khùng). Chúa Trịnh Giang nghe lời Hoàng Công Phụ, ăn chơi dâm dật, hãm haị anh em, công thần điên khùng.
Thăm Bà Cả Đọi
Ðặc biệt, người miền Bắc tha hương trên bước đường lưu lạc tới một vùng đất mới với phong tục, khí hậu, thổ nhưỡng mới, đã tìm thấy nơi quán ăn nhỏ bé của bà Cả một chút phong vị quê hương. Không phải món Nam mà là món Bắc, nêm nếm đúng khẩu vị Bắc không lai tạp, giọng nói Bắc, tính cách Bắc.
Một khoảnh quê hương xa lìa đã được bà Cả vô tình tái hiện trong quán ăn của bà làm ấm lòng người xa xứ. Ở miền Nam quanh năm nắng nóng, chỉ trong bữa cơm chốc lát, họ cảm thấy an ủi khi bắt gặp lại một mảnh sinh hoạt gần gũi thân thương tưởng chừng đã mất hẳn. Tên gọi Quán bà Cả chứ không phải bà Hai, bà Bảy, … càng mang đặc tính “Bắc Kỳ.”
Người của lịch sử văn hóa Sài Gòn?
Tôi nhìn quanh căn gác Nguyễn Huệ, nhà kiểu Pháp cũ, không sửa sang gì nhiều, vẫn chiếc cầu thang gỗ nâu nằm trong ký ức giới văn nghệ, và hỏi bà Cả:
– Bà có mời khách dùng cơm ở đây không?
Bà lắc đầu:
– Không, bây giờ chỗ này chỉ để ở thôi, tôi mời các cậu ấy ra ngoài quán.
Sau 75, dù không còn cánh nhà báo lui tới nữa, một thời gian dài, quán bà Cả vẫn là địa điểm ăn trưa của giới văn phòng, tư chức. Khách quen đến ăn chật phòng, như trước kia, đôi khi vẫn phải dọn thêm bàn trên gác lửng. Khách hoài cổ đi xa lâu ngày về Sài Gòn vẫn quen lối ghé lại căn gác Nguyễn Huệ cũ kỹ, dọc cầu thang xi măng đặt đầy các chậu cây xanh mướt, không còn quán cơm nhưng may mắn, vẫn còn được gặp bà chủ hiền hậu sẵn sàng ngồi chơi tiếp khách.
(Nguyễn Thị Hàm Anh)
Những vai phụ “láy”, “đệm” trong ngôn ngữ Việt
Trong đời sống giao tiếp thường ngày, không thấy ai sử dụng cách nói văn hoa, bóng bẩy mà người ta dùng từ "hơi" hay "khá": "Cái thằng ấy đểu quá, chứ hơi cái gì nữa!", hoặc như lời phê của giáo viên trong học bạ cho học sinh: "Khá giỏi, hạnh kiểm trung bình" Hình như có chút ít khác biệt trong cách dùng "hơi" và "khá".
Cho những tính từ hàm ý không tốt, người Việt thường nói "hơi": hơi dở, hơi xấu, hơi cũ, … Và ngược lại, với "khá": khá hay, khá đẹp, khá mới… Kiểu nói "hơi bị hay", "hơi bị đẹp", … xâm nhập ngôn ngữ thời thượng của giới trẻ sau này là một hiện tượng mới mẻ, cần thêm một khoảng thời gian thử thách để được định vị trong ngữ pháp khoa bảng và tồn tại với thời gian.
(Ngô Nguyên Dũng)
Họ nhà cà
Nào là cà độc, cà chua, cà pháo, cà tiêu, cà cuống, cà lăm, cà kê, cà khẳng, cà khêu, cà khịa, cà mèn, cà nhắc, cà nhom, cà niễng, cà phê, cà rà, cà rá, cà riềng, cà rỡn, cà sa, cà tăng, cà tửng.
Nhưng không thấy “cà chớn” ghi trong tự điển.
“Cà chớn” là tiếng lóng ở miền Nam, theo các nhà ngôn ngữ học, từ “cà-chớn” bắt nguồn từ tiếng Miên “Kchol”, người Việt phát âm “Cà chon”, đọc trại thành “Cà chớn”, có nghĩa là không đáng tin lắm từ lời nói đến hành động. Nói ai cà chớn là có ý chê, nhưng cũng không có nghĩa là hoàn toàn xấu. Chẳng hạn “chiếc xe hôm nay cà chớn, đạp máy hoài mà không chịu nỗ”.
Từ này nhẹ hơn từ “cà tửng”, có nghĩa gần như điên như khùng, thần kinh bị “mát”.
(Vô danh thị)
Chữ nghĩa làng văn xóm chữ
Lộn nài bẻ ống
Thường nge các cô gái trẻ VN sang Mỹ lấy chồng rùi "lộn nài bẻ ống"... dị nghỉa là sao? Xin hỏi các huynh:...
- Bà con cô bác ơi cứu bồ giùm đi.
Lộn - đảo ngược vị trí biến đổi; nhầm lẫn...
Nài - a) dây vòng buộc vào chân để trèo lên cây (cau) cho chắc.
b) vòng dây buộc “ách” cày.
Bẻ - cho đứt, gãy
Ống - vật hình trụi, trong rỗng
Lộn nài bẻ "ống" thì chẳng nghĩ ra được ống gì. Đoán mò thì có thể là: vặn xiết cái vòng dây càng chặt lại để bẻ gãy cái ách... quan hệ vợ chồng.
Từ điển và từ ngữ Việt Nam
Những sai lầm trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân
Cử nhân 举, cử tử 举
Theo soạn giả, cử có các nghĩa: cất lên; đưa lên, nổi dậy, thi đỗ; nhân nghĩa là người.
Từ đó mà đi đến định nghĩa rằng, cử nhân là:
1. Người đậu chính thức khoa thi hương.
2. Học vị đại học, trên tú tài, dưới tiến sĩ.
Chúng tôi nghĩ rằng, ông có hiểu sơ sơ về từ cử nhân rồi vận dụng chút hiểu biết ấy để đoán nghĩa của từ tố “cử” nghĩa là thi đỗ, nhưng sai. Bởi vì, các từ điển lớn của Trung Quốc nêu gần hai chục nghĩa của chữ cử nhưng không nêu nghĩa này, mà chỉ giảng rằng, cử nghĩa là khoa cử khảo thí, nghĩa là việc thi tuyển và cũng là cách gọi tắt của từ cử nhân.
Theo từ điển Từ nguyên thì nghĩa đầu tiên của từ cử nhân là tuyển dụng nhân tài. Như vậy, cử nghĩa là tiến dẫn, là tuyển chọn chứ không phải là thi đỗ.
Trong từ cử tử 举 子 thì từ tố cử 举 lại có nghĩa là đi thi. Nhưng theo ông, từ tố cử có nghĩa là thi đỗ. Ðiều đó cũng đủ chứng tỏ cái sai của ông, như chúng tôi vừa phân tích.
Ðộc giả có thể cho rằng, chúng tôi hơi câu nệ vào sách vở chữ Hán và có phần khắt khe đối với soạn giả. Xin độc giả hiểu rằng, nếu chỉ giải nghĩa mà thôi chứ không cắt nghĩa các từ tố thì chúng tôi không phải nói gì thêm ở hai từ này.
Nhưng vì soạn giả có chủ ý cắt nghĩa rành rọt từng từ tố để giúp người đọc hiểu thấu đáo các từ ngữ Hán Việt nên chúng tôi mới phải làm cái việc rất tốn công sức này, tuy không phải là vô ích.
(Lê Mạnh Chiến & H.H.Phúc)
Góp nhặt cát đá
Mộng
Ngày mai mơ mộng làm chi
Sẽ tàn sẽ mất còn gì nữa đâu
Cua cáy phiếm lược – cua (1)
Về cua, tục ngữ những câu gai góc “cua có óc, cóc có gan” chỉ con người ta mỗi người có sở trường riêng. Hoặc “cua nhà nọ, rọ nhà kia” nghĩa không hợp với nhau.
Chuyện này xọ qua chuyện kia với cua óp, nhiều người hiểu lầm mùa trăng, cua mải mê làm tình nên gầy nhom. Bởi các cụ ta xưa nói “như đĩ chơi giăng” (chơi trăng) là vậy chăng. Nhưng thật ra trong khỏang thời gian có trăng, cua không dám bỏ đi ăn nên gầy, ít thịt vì vậy được gọi là…cua trăng.
Cuối cùng với tục ngữ “cua núi mai ráp”, là cua quý hiếm, sống ở suối miền trung du giáp núi, mai có mấu nổi xù xì, gai ổ, mắt lớn, chân ngắn.
Ẩm thực miền Bắc
Phở Hà Nội - 3
Nhưng có một nơi phở rất ngon mà không có ai nghĩ đến và biết đến: ấy là gánh phở trong nhà thương. Trong nhà thương vốn có một bà bán các thứ quà bánh ở một gian hàng dựng dưới bóng câỵ Cái quyền bán hàng đó là cái quyền riêng của nhà bà, có từ khi nhà thương mới lập. Bà là người ngoan đạo nên tuy ở địa vị đặc biệt đó bà cũng không bắt bí mọi người và ăn lãi quá đáng. Thức gì bán cũng ngon, giá cả phải chăng.
Nhưng gánh phở của bà thì tuyệt: bát phở đầy đặn và tươm tất, do hai con gái bà làm, trông thực muốn ăn. Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thỏang nhẹ như một nghi ngờ. Mà nhân tâm tùy thích, nhà hàng đã khéo chiều: ai muốn ăn mỡ gầu, có, muốn ăn nạc, có, muốn ăn nửa mỡ, nửa nạc, cũng có sẵn sàng. Cứ mỗi buổi sáng, từ sáu giờ cho đến bảy giờ, chỉ trong quảng ấy thôi, vì ngoài giờ gánh phở hết, chung quanh nồi nuớc phở, ta thấy tụm năm tụm ba, các bệnh nhân đàn ông và đàn bà, các bác gác san, các thầy y tá, và cả đến các học sinh trường Thuốc nữa. Chừng ấy người đều hợp lòng trong sự thưởng thức món quà ngon, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật đáng kính.
(Hà Nội 36 phố phường – Thạch Lam)
"Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết
Khoảng năm 2001, tôi điện thoại đề nghị ông in cuốn “Văn Học Hiện Đại và Hậu Hiện Đại Qua Thực Tiễn Sáng Tác và Góc Nhìn Lý Thuyết” của Hoàng Ngọc Tuấn. Ông đồng ý ngay tức khắc. Ông cho biết ông đã đọc Hoàng Ngọc Tuấn và rất thích các bài viết của Tuấn. Tôi cẩn thận, nhắc ông hai điều. Thứ nhất cuốn sách của Hoàng Ngọc Tuấn khá dày, hơn 600 trang, lại bàn về nhiều chuyện lý thuyết với văn phong mang tính hàn lâm nên không dễ đọc; và thứ hai, thị trường sách báo bằng tiếng Việt ở hải ngoại đã bắt đầu đi xuống. Tôi cũng nhấn mạnh: in một cuốn sách như vậy có thể sẽ lỗ. Nghe xong, ông cười rất thoải mái: “Lỗ thì lỗ, nhưng in được một cuốn sách hay như thế thì vui rồi, lo gì!”. Thế là ông in thật. Đó là một trong những cuốn sách cuối cùng của nhà Văn Nghệ. Sau này, đọc báo, nghe nói ông đóng cửa nhà xuất bản Văn Nghệ, tôi thấy buồn hiu hắt. Đang lúc buồn, tôi lại chợt nhớ tới tiếng cười của ông, nhỏ nhẹ hiền lành và hồn nhiên vô cùng. Tôi muốn gọi đó là tiếng cười của Ông Bụt Sách”.
Nhà Văn Nghệ phải thúc thủ vào năm 2003. Cuốn sách in cuối cùng là cuốn “Sử Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê. Khởi đầu bằng sách của ông Nguyễn, kết thúc cũng bằng sách của ông Nguyễn. Một chu kỳ tròn trĩnh.
Sau đúng chục năm trông coi nhà Lá Bối, ông in được 120 nhan sách. Tháng 7-1975, nhà cầm quyền cộng sản giam giữ ông. Kho sách tại Tân Phú bị tịch thu, xe chở đi suốt hai ngày mới hết sách. Số sách này trị giá 60 triệu đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa hồi đó.
(Khuyết danh)
Chữ và nghĩa
Tên một số địa phương viết không thống nhất: “Đắc Lắc” và “Đắc Nông” như cách viết trước đây. Nay lại viết thành “Dak Lak” hoặc “Đắk Lắk” và “Dak Nông” hay “Đắk Nông”!
Ai quy định như vậy?
(Nguyễn Lê Bách)
Phỏng vấn nhà văn Song An Hoàng Ngọc Phách
Về Việt văn, chúng tôi có những giáo sư như cụ Huấn Đan, cụ Bảng Mộng, cụ Tú Tiệp... Các cụ tuy dạy chữ nho, nhưng thường khuyến khích chúng tôi về quốc văn nhiều lắm. Trong những giờ học, không những các cụ dạy về văn quốc ngữ mà còn giảng về văn hóa cho chúng tôi nghe. Thứ nhất là cụ Huấn Đan - cụ đã qua Trung Hoa, Nhật Bản - cụ là một bực học rộng, biết nhiều, lại có tâm huyết đối với tiền đồ quốc học. Thường cụ cho chúng tôi đến nhà cụ, một cái gác con ở đường Yên Phụ hầu chuyện cụ. Những câu chuyện thân mật ấy đã bổ ích cho chúng tôi hơn là những bài học ở trường, đã làm cho chúng tôi biết yêu cái văn hóa cũ của nước nhà...
Trong số bạn học chúng tôi, có mấy anh em mà anh Nguyễn Nho là một, rất thích quốc văn, chúng tôi cùng nhau luyện tập, có khi quên cả các bài khác ở trường. Bao nhiêu văn thơ nôm cổ, những truyện Kiều, Phan Trần, chúng tôi thuộc gần hết. Chúng tôi lại học thêm chữ nho, đọc thêm sách nho nhiiều. Gặp kỳ thi hương cuối cùng trường Nam, các thày và các bạn bảo tôi lều chiếu một phen, nhưng tôi không dám thử.
- Riêng về tôi, thường làm bài luận nào cũng được các cụ giáo khen, được đem đọc cho cả lớp nghe. Không những thế, có bài của tôi truyền từ lớp nọ đến lớp kia, có khi hàng tháng mới thấy nó giở lại với mình, lúc bấy giờ thì giấy đã nhầu. Nhiều bài sửa qua loa rồi, các bạn đem đăng báo, dưới ký tên “Song An”. Đại khái như bài “Cảm tình với phong cảnh Hồ Tây” là một bài luận làm ở trường mà hiện nay tôi còn giữ được.
Vì lúc nào tôi cũng giữ được dáng điệu điềm tĩnh, nên anh em trong trường tin yêu, không có mấy việc quan hệ mà không hỏi đến tôi. Những công việc xã hội trong cái xã hội nhỏ là trường Bưởi, phần nhiều có tôi dự.
(Lê Thanh)
Gà quí phi
Trong tiệm ăn có món Gà quí phi, quí phi là vợ của vua. Gà quí phi là món gà hấp muối.
Chữ quí khiến thực khách nhớ tới từ ngữ poule de luxe, tiếng Pháp là…đĩ hạng sang.
Tiếng Hán dã kê là gà đồng, cũng có nghĩa là…gái giang hồ.
Tiếng Việt mèo mả gà đồng ám chỉ những người…lang bạt kỳ hồ.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Chừng nào tôi bỏ rượu thì bỏ thơ luôn
Một người bạn của Văn Cao ký tên là M.N (1) viết một bài nhớ về “Bữa rượu cuối cùng với Văn Cao” đăng trên báo Văn hóa số ra ngày 23-7-1995:
Sau hôm nhạc sĩ Văn Cao qua đời, tôi (M.N) đi cùng với các ông Tô Hoài, Nguyễn Văn Bổng và Vạn Lịch đến ngôi nhà 108 đường Yết Kiêu, thắp nén nhang và đứng cúi đầu trước bàn thờ nhạc sĩ vừa được thiết lập. Ông Văn Lịch nói với bà Băng, người vợ góa của nhạc sĩ: “Chị Băng ạ, tôi với ông Mai Ngữ (1) vừa rồi được uống bữa rượu với ông Cao. Lúc ấy chẳng ai dám nghĩ đó là bữa rượu cuối cùng ngồi với nhau…”.
Ông Vạn Lịch, rất thân thiết với nhiều anh em văn nghệ sĩ chúng tôi, từ ông Nguyễn Tuân, Tô Hoài, ông Nguyễn Sáng, Văn Cao, v.v… Trước tết Ất Hợi vừa qua, ông Vạn Lịch rủ tôi sau Tết cùng đến thăm ông Văn Cao. Đã lâu tôi cũng không đến thăm Văn Cao, tôi cứ ngài ngại nhà ông bây giờ lắm khách. Cũng may hôm đó, chủ nhân không có khách.
Ông Văn Cao vẫn ngồi trên cái ghế riêng của ông, bên cái bàn nhỏ dưới chân là cái sọt trong có cái điếu cầy. Thấy chúng tôi, chủ nhân rất mừng, bà vợ cũng chạy ra. Ông khoát tay, bà vội mang ra chai rượu Whisky đen, ba cái ly. Rồi bà lại vào bê ra đĩa bánh chưng, đĩa giò chả, đó là món ăn của ngày Tết. Hai vợ chồng nhạc sĩ cùng ngồi với hai chúng tôi, uống rượu và ăn bánh. Tiệc rượu còn nồng nàn hương vị đầu xuân.
(Trần Thanh Phương)
Phản ánh
Phản ánh trong Hán Việt tự điển ghi: “ánh sáng chiếu trở lại” và không có cụm từ “phản ảnh”.
(Hiếu Thiện Nguyễn Chu Hậu – Tiếng Việt, tiếng nước tôi)
Góp nhặt cát đá
Mộng
Ngày mai mơ mộng làm chi
Sẽ tàn sẽ mất còn gì nữa đâu
Trần Văn Thủy – Trịnh Công Sơn
Không có lý luận rõ ràng, nhưng hầu hết các luận điệu chống đối ca sĩ Khánh Ly đều dựa trên câu chữ mà bài hát mô tả là “nội chiến” để tấn công. Phía nhà nước Việt Nam lâu nay vẫn nói rằng cuộc chiến tranh giải phóng Nam Bắc là một cuộc giải phóng thần thánh, để thống nhất đất nước. Nói “nội chiến” bị coi là sai đường lối và chủ trương của đảng cộng sản Việt Nam.
(nguồn Khánh Ly và “Gia tài của mẹ” - tựa đề nguyên bản: “Nội chiến” bị coi là phản tuyên truyền và kích động hận thù? của nhạc sĩ Tuấn Khanh)
(Phạm Phú Minh)
Bát canh dưa chiều đông
Nhớ một chiều chớm đông, tan học vừa về đến cửa nhà, đã nghe thấy mùi canh dưa từ bếp bay ra thơm nức. Chưa kịp cất cặp sách, tôi đã lao thẳng vào bếp nũng nịu với bà ngoại. Bà ngoại đầu buộc khăn mỏ quạ, áo kép sờn tay, đang lúi húi bên bếp mùn cưa vần nồi cơm sắp chín. Bên cạnh là nồi canh dưa đang đặt trên bếp than quả bàng sôi lục bục.
- Bà ơi, cho con nếm một thìa nước canh trước đã, con thèm quá.
- Xấu mặt chưa? Về nhà chưa rửa mặt rửa tay đã máy mép, máy môi. Một tí nữa mới được. Cho mấy con cá tép nó nhừ đã. Không thì ăn hóc xương. Nhìn bà đang thái hành răm đây này. Đi sắp bát, sắp mâm đi.
Chao cái mùi thơm của món canh dưa nó kỳ diệu làm sao. Không tả nổi. Chỉ biết là cứ thoảng nghe mùi của nó, không thể đừng ứa nước miếng thèm cơm. Nhất là trong cữ đông về, rét mới.
Nhà ngoại tôi đúng lối thị dân Hà Nội cũ. Cuộc sống có lúc thăng, lúc trầm. Nhưng bà tôi, mẹ và dì Hai vẫn duy trì một nề nếp nội trợ cơ chỉ, tằn tiện. Gà vịt, thịt thà ngày thường rất hiếm. Duy nhà lúc nào cũng sẵn sàng ba bốn vại dưa cà.
(Vũ Thị Tuyết Nhung)
10 câu nói của Tào Tháo
“Biết mình sai nhưng không bao nhận mình sai”
(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)
***
Phụ đính I
Em ơi ! Hà Nội... quà - 1
Nhớ năm nảo năm nao, tôi chân ướt chân ráo từ phương Nam ra Hà Nội. Hồi ấy, vốn quen bún bò giò chả đặc sản Huế nguyên đọi cùng hủ tíu / hủ tiếu Mỹ Tho và Sa Đéc nguyên tô, lần đầu vào hàng bún chả gần sân vận động Hàng Đẫy, tôi chẳng biết xử lý thế nào trước kiểu ăn bún lắp-ghép-tùm-lum. Dần cũng quen. Dần đâm thèm. Đi mô rồi cũng nhớ về... bún chả.
Thiên hạ kháo nhau rằng mấy hàng bún chả nổi tiếng sở dĩ "lên hương" là nhờ lén ướp chả với... mỡ cầy, chính xác là mỡ chó. Đúng vậy chăng? Tiện dịp, tôi nêu thắc mắc kia với bà hàng ở chợ tạm. Bà cười và lắc đầu. Theo lời bà, tất cả "bí quyết" dồn ở công đoạn nêm tẩm phụ gia và nhất là ở khâu nướng.
Bà thao thao:
- Phải khéo tay, dày kinh nghiệm, mới nướng chả ra... chả đấy nhé. Đặt gắp chả lên hoả lò, quạt than vừa hồng, luôn tay trở sao để chả khỏi bị cháy, bên ngoài chỉ se mặt nhưng bên trong chín tới thì vừa ngon. Nào phải ai cũng nướng chả đạt thế đâu!
Tôi thầm nghĩ rằng bún chả Hà Nội đặc sắc có lẽ còn nhờ "bí quyết" này nữa: húng Láng. Đó là thứ rau gia vị đã mọc lên xanh tốt bao đời trong... ca dao, ngạn ngữ xứ Tràng An. Ví dụ:
Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô đầm Sét, sâm cầm hồ Tây
Láng là tên nôm của làng Yên Lãng, huyện Thanh Trì. Xưa tới giờ, Láng lừng danh về cà pháo, hành hoa và rau húng. Dân địa phương cam đoan húng trồng trên đất Láng mới chính hiệu... húng, chứ chuyển giống đến nơi khác trồng thì sớm muộn gì cũng bị "thoái hoá biến chất" thành mùi vị bạc hà.
Còn Sét chính là làng Thịnh Liệt, cũng thuộc huyện Thanh Trì. Cùng với đầm Sét sở đắc cá rô ngon, huyện ấy còn thêm đầm Đại (tức Linh Đàm hoặc Linh Đường) nổi tiếng cá chép thượng hảo hạng. Điều đó đã được cổ nhân tổng kết:
Cá rô đầm Sét, cá chép đầm Đại
(Phanxipăng)
Em ơi ! Hà Nội... quà – 2
Để thưởng thức hai món cá tuyệt vời ấy, tôi tới một nhà hàng mới mở tại 16 Lý Thái Tổ, cạnh trụ sở Hội Khai Trí Tiến Đức cũ, sát bên hồ Hoàn Kiếm. Nhà hàng mang tên ngồ ngộ: Ngũ Ngư Ngự. Lại phụ chú Anh ngữ thế này: 5 Royal Fish. Tạm hiểu là năm món cá tiến vua. Xui xẻo sao hôm đó nhà hàng xoay không ra hai món cá tiến vua. Tôi bèn gọi món chim đặc sản là sâm cầm hồ Tây. Nhân viên phục vụ thưa:
- Quý anh cảm phiền dùng món khác cho. Bây giờ, sâm cầm được xếp vào sách đỏ, luật cấm săn bắt ạ.
Xem thực đơn, thấy Ngũ Ngư Ngự "chơi" lắm món ngoại quá: pizza spaghetti của Ý, hamburger của Đức, sandwich của Hoa Kỳ. Thật kỳ quặc là không ít khách sạn và nhà hàng ở thủ đô trưng biển "cơm thuần tuý Việt Nam" song vẫn dọn hẩu lốn món lai Tàu, món lai Tây. Ngỗng quay kiểu Pháp. Cừu nướng kiểu Nga. Xà lách trộn dầu dấm kiểu Thuỵ Sỹ. Sườn bê rán kiểu Hà Lan. Ngọc dương tần thuốc bổ kiểu Trung Hoa. Cải muối chua kiểu Đại Hàn. Hỡi ôi! Trên con đường giao lưu và hội nhập với cộng đồng thế giới, văn hoá ẩm thực của đất nước ta chuyển hoá vậy ru?
Nhắc món cá, làm sao quên chả cá Lã Vọng. Từ cuối thế kỷ XIX, gia đình họ Đoàn ở nhà số 14 phố Hàng Sơn sáng chế nên món chả cá lừng lẫy khó ngờ, tới mức thiên hạ phải đổi tên phố Hàng Sơn ra phố... Chả Cá. Tôi đến cửa hàng này với lực lượng du khách nhiều quốc tịch, trong đó có giáo sư tiến sĩ Norman Foster Remsey và phu nhân. Đúng giờ cao điểm, khách nội chen khách ngoại kín kịt từ tầng trệt lên gác gỗ khiến nhiều đoàn phải đứng đợi ngoài vệ đường.
Trong thời gian chờ đợi, tôi tìm cách gặp bà cụ chủ cửa hàng, nhờ cụ vui lòng "bật mí" tí xíu về kỹ thuật chế biến chả cá "vô tiền khoáng hậu". Cụ đáp:
- Dùng làm chả ấy à? Có thể là cá quả, cá ngạnh, cá nheo. Nhưng tốt nhất vẫn cứ là cá lăng. Cá quả nhiều xương dăm, khó lọc hết. Cá ngạnh thì thịt hơi nát. Cá nheo lại không thơm. Chỉ cá lăng ít xương, thịt ngọt và bùi, chắc và thơm, đậm mà chẳng ngấy. Thịt cá lăng được thái vuông vức quân cờ rồi ướp với riềng, nghệ, mẻ, nước mắm hảo hạng. Vấn đề là ướp thế nào thôi! Anh biết đấy, trong Nam ngoài Bắc có biết bao hàng chả cá, nhưng khách mọi nơi cứ dồn về đây.
(Phanxipăng)
***
Phụ đính II
Tuần báo Phong Hoá - 1
Phong Hóa từ số 1 đến 13 do một số giáo sư trường Thăng Long chủ trương, Nguyễn Xuân Mai đứng tên giấy phép, Phạm Hữu Ninh làm quản lý, Trần Khánh Giư (Khái Hưng), giáo sư Thăng Long là chủ bút. Với tôn chỉ dung hòa “xét trong hai nền văn hóa cái gì tốt đẹp thì thâu góp làm văn hóa của nước nhà” chỉ được dư luận chú ý lúc đầu, sau không đem lại gì mới mẻ nên đi xuống.
Nguyễn Tường Tam thấy cơ hội tốt nên điều đình mua với giá rẻ (mua tên và giấp phép ra báo Phong Hóa), đứng ra làm lại tờ báo. Ngày 22-9-1932, Phong Hóa số 14 đổi mới ra mắt độc giả với Nhất Linh, Khái Hưng, Tứ Ly, Tú Mỡ, Thế Lữ, Nhị Linh.
Chỉ trong vài tháng số in tăng từ 3,000 lên 10,000. Sau số Xuân 1933, thấy được độc giả hoan nghênh, Nhất Linh cùng các cộng tác viên thành lập nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Tuần báo Phong Hoá - 2
Tờ Phong Hóa ngay từ khi đổi mới mang lại sự trẻ trung, yêu đời bằng tiếng cười cho độc giả xã hội Việt Nam qua lối văn trào phúng, hí họa các nhân vật, tranh hài hước Lý Toét, Xã Xệ.
Phong Hóa sau khi đã chế diễu hầu hết các người có tiếng tăm, năm 1935, trong loạt bài hoạt kê Đi xem mũ cánh chuồn đả kích gay gắt bọn phong kiến quan liêu, nhất là đám quan lại Nam Triều chạy theo Pháp, đụng chạm tới Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu nên bị đóng cửa 3 tháng (tháng 6,7,8). Sau khi ra lại được hơn một năm thì bị đóng cửa vĩnh viễn sau số 190 ngày 05 tháng 06, 1936.
(Tự Lực Văn Đoàn chữ văn quốc ngữ - Trần Bích San)
MỜI XEM :






.jpg)
.jpg)