Chữ nghĩa làng văn
***
Phố…”một nhà”
Cụm từ "phố Hàng Trống", xưa kia chỉ có…một cửa hàng bán "trống". Hàng Chiếu vốn cũng chỉ là một nhà bán mặt hàng "chiếu".
Theo thời gian các "phố" thành một dãy cửa hàng và được gọi là "phố".
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Đời là… cái đinh
Tình là… cái que
Hai phố cổ nhất của Phố Cổ
Hà Nội 36 phố phường, có hai phố cũ mang tên Hàng Bừa, Hàng Cuốc vì chuyên sản xuất bán ra các công cụ đó.
Từ khi Pháp sang lập thành phố Hà Nội (1888), họ đổi tên chung cho hai phố này là phố Lò Rèn như hiện giờ.
Chữ nghĩa làng văn
Năm 1991, tu bổ ngôi mộ Tú Xương bên bờ hồ Vị Xuyên, giữa TP. Nam Định, Sở Văn hoá & Thông tin tỉnh Nam Định dựng bia đá xanh. Mặt này khắc 2 dòng trích từ bài thơ Sông Lấp của Tú Xương bằng chữ Nôm cùng chữ quốc ngữ:
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình lại tưởng tiếng ai gọi đò
Đúng ra là: “còn tưởng” chứ chẳng phải “lại tưởng”.
Mặt kia khắc 2 câu đối và ghi chú là của Nguyễn Khuyến:
Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn
Đúng ra 2 câu đối ấy là:
Nào ai chín suối xương không nát,
Có nhẽ trăm năm miệng vẫn còn.
Vì đối với “xương”, rõ ràng miệng chỉnh hơn, hay hơn tiếng. Thành ngữ nghìn năm bia miệng còn khiến cho mọi người hiểu thấm thía hai câu đối của người quá cố.”
(Phanxipăng - Nào ai chín suối...)
Họa si Tú Duyên và thủ ấn họa - 1
Với uy tín và tài năng tự mình tạo được, Họa sĩ Tú Duyên có thể tự hào là một nghệ sĩ đã sở hữu những tác phẩm giá trị thực sự mà nhiều nhân vật nổi tiếng yêu tranh trong và ngoài nước đã hăm hở tìm mua. Trước năm 1975, vua dầu hỏa Hoa Kỳ Rockfeller đã có lần sang Sài Gòn, tìm đến tận nhà họa sĩ Tú Duyên, xin mua 2 bức tranh : tác phẩm nổi tiếng nhất của tác giả - bức “Trần Bình Trọng” với câu nói bất hủ, tràn ngập khí phách giống nòi của ngưới anh hùng dân tộc ‘Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”.
Tòa đại sứ Kampuchia mua 5 bức Angkorwat. Một nhà sưu tập tranh từ Monaco (Pháp) cũng phải tốn công tìm đến họa thất của Tú Duyên, tại đường Nguyễn Công Trứ để mua tranh. Tranh ‘thủ ấn họa ’của Tú Duyên còn chu du đến nhiều quốc gia khác như: Pháp, Nhật, Bỉ, Malaysia, Philippines… Hiện tại, Tú Duyên còn có hơn 14 tác phẩm được lưu trữ và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Sài Gòn.
(Nguyễn Thanh)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Vô tư là cái vô tư
Vô tư là cái từ từ nó vô
Họa si Tú Duyên và thủ ấn họa - 2
Cuộc đời của họa sĩ Tú Duyên khiến người ta nhớ đến hai câu thơ: “Nếu phải đường đời bằng phẳng hết/Anh hùng hào kiệt có hơn ai” (Phan Chu Trinh). Nếu không vì hoàn cảnh trớ trêu không tiền đóng học phí, khiến Tú Duyên phải sớm rời trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Đương, giã từ bạn học cùng khóa, để “hành phương Nam” và không có được óc sáng tạo trời cho, luôn tìm tòi khám phá thì nền mỹ thuật Việt Nam chưa ắt đã sản sinh ra được một nghệ sĩ hội họa giàu đức tính, tài năng như họa sĩ Tú Duyên.
Trong một miền đất nước như xã hội miền Nam vẫn có những nghệ sĩ chân tài như Nguyễn Gia Trí (1908-1993 : sơn mài), Lê Văn Đệ (1906-1966 : sơn dầu và tranh lụa); Tô Ngọc Vân (1906-1954 : sơn dầu)…hầu hết đã xuất thân từ chiếc nôi mỹ thuật kinh viện ở Hà Nội là trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Đương.
Trong khi các nghệ sĩ ấy đã theo dấu chân mỹ thuật hàn lâm một cách truyền thống bình thường, Tú Duyên lại chọn con đường riêng là tự mày mò thêm, cải tiến không ngừng để hoàn thiện kỹ thuật vẽ tranh khắc gỗ và tranh lụa với một tinh thần sáng tạo tuyệt vời, khiến giới nghệ sĩ trong nước và cả thế giới phải khâm phục và ngưỡng mộ, không ngớt tìm mua những bức tranh khắc gỗ cách tân của họa sĩ với đường nét sinh động, sắc màu lung linh hấp dẫn mà tràn ngập tính nghệ thuật và nhân văn.
Theo dư luận công chúng và sự đánh giá của giới làm nghệ thuật uy tín từ trước hạ bán thế kỷ 20 đến nay, Tú Duyên có thể được coi là họa sĩ đầu tiên đã khai sinh ra “trường phái Thủy ấn họa” ở Việt Nam.
Nếu sinh vào tháng nào thì tính cách ứng với loại cây nào?
Tháng 7, Cây ngô đồng
Chim phượng hoàng hót, trên ngọn núi cao
Cây ngô đồng mọc, dưới nắng ban mai
(Kinh Thi - Đại Nhã).
Trong truyền thuyết, không phải nguồn suối ngọt thì phượng hoàng không uống, không phải cây ngô đồng thì phượng hoàng không đậu. Bạn sinh ra vào tháng 7 cũng theo đuổi tính cách hoàn mỹ, vô cùng mạnh mẽ. Bạn không thể chấp nhận một cuộc sống bình thường, dám thách thức bản thân, mọi việc đều phải làm tốt nhất.
(Lý Văn Hàm)
Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 1
Mười năm sau khi đọc “Ðỗ Ngọc Yến giữa bạn bè”, thấy một đoạn Ðỗ Quý Toàn viết về “con mọt sách này”:
“...Ngay từ hồi mới quen nhau, thưở 17, 18 tuổi, tôi nhiều lần ngạc nhiên vì cái anh chàng này sao nó biết và nhớ nhiều thứ thế. Sao nó quan tâm đến nhiều chuyện, nhiều người thế. Hắn mắc tật ham đọc ngốn nghiến đủ các thứ sách vở, báo chí, trăm thứ bà rằn. Ðạp xe trên đường Pasteur, Yến bỗng nhận ra ngôi nhà: Ngày xưa Nguyễn An Ninh diễn thuyết ở chỗ này, này. Qua Phú Nhuận, Yến chỉ tay: Bên trong đó có cái Mả Ngụy, vào coi đi?
“Một đêm chúng tôi đi vòng quanh Hồ Xuân Hương ở Ðà Lạt, vừa đi vừa bàn chuyện triết lý lung tung, những thao thức băn khoăn về kiếp người. Cái thuở thanh niên mới lớn, ai cũng muốn đặt lại tất cả vấn đề căn bản của nhân loại, như những người lần đầu tiên biết suy nghĩ! Khi trở về đứng tâm sự thêm với nhau trên lề đường trước cửa nhà số 2, Ngô Quyền, lại nói tiếp không muốn đi ngủ. Tôi bỗng thấy mình như khám phá ra một mấu chốt của các mối băn khoăn trong lòng, tôi nói với Yến một cách nghiêm trọng: Cuối cùng phải biết mình là cái gì đã. Yến trả lời ngay: Thì ông Socrate cũng nói vậy. Tôi chợt ngẩn người ra. Cái anh chàng này đã chứa một câu trả lời sẵn, ai cũng biết nhưng vẫn rất bất ngờ. Hóa ra bao nhiêu xao xuyến của mình chẳng có gì mới hết...”
Vẫn theo Ðỗ Quý Toàn, cái tính ham đọc của Yến không có giới hạn, nhưng tuổi trẻ miền Nam vào thời đó rất thích bàn chuyện triết học. Ðỗ Ngọc Yến là khách hàng thường xuyên của tiệm bán nhiều sách Triết từ Tây qua, kể cả những sách của các tác giả trong thế giới cộng sản, hoặc tiệm bán sách cũ trên vỉa hè đường Lê Lợi chuyên bán và cho thuê những thứ hàng quốc cấm.
(Vũ Ánh)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Bị đá một cái tét mông
Là đời như thể sư ông trong chùa
Đời là sắc sắc không không
Gái đá một cú cọng tóc chẳng còn
Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 2
Tính giang hồ vặt của Ðỗ Ngọc Yến và riêng việc lui tới Ðàm Trường Viễn Kiến cũng đã được tác giả Ðỗ Quí Toàn đến với những chi tiết đáng chú ý về suy nghĩ của lớp thanh niên thời đó. Chính tác giả cũng không nhớ ai đã rủ rê tác giả và Ðỗ Ngọc Yến tới Ðàm Trường Viễn Kiến của cụ Nguyễn Ðức Quỳnh để “nghe các đàn anh bỏ kháng chiến về thành nói chuyện văn nghệ, chính trị, triết học”. Theo tác giả Ðỗ Quí Toàn trong “Yến, từ những ngày tuổi trẻ” thì “hầu hết ai cũng bị ám ảnh là phải vượt qua chủ nghĩa Marx”. Lúc đó Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp đang bi mấy tờ báo “chửi” vì thơ tự do của các anh in trên tờ Sáng Tạo. Nhóm Quan Ðiểm đang lập thuyết, đề cao vai trò của giai cấp tiểu tư sản trong lịch sử - hồi đó báo chí chưa dùng chữ giai cấp trung lưu như sau này. Ðỗ Quí Toàn nhấn mạnh trong đoạn mô tả Ðàm Trường Viễn Kiến:
“...Ngôi nhà cụ Quỳnh nhỏ, mái thấp, hình như tường và cách ọp ẹp lắm, nằm trong hẻm chùa Từ Quang của thầy Tâm Châu trên đường 20, Phan Thanh Giản. Cụ Quỳnh bà lâu lâu cũng ra ngồi góp mấy câu chuyện cũ. Nghe cũ bà nói thì thấy rõ có một thời cụ bà đã từng là một nữ lưu quắc thước bên cạnh ông chồng chiến sĩ văn nghệ.”
Duy Sinh (Nguyễn Ðức Phúc Khôi) là con lớn của hai cụ, nhưng ít khi anh dự các cuộc thảo luận, chắc anh đã nghe ông già nói suốt đời rồi, đã thấy đủ. Mấy chú Kình, Kỳ thì còn là nhi đồng. Mỗi tối thứ sáu họp mặt, cụ Quỳnh mở toang cửa trước, cụ bảo để thảo luận công khai không hề giấu giếm. Cốt cho công an, mật vụ của các ông Diệm, ông Nhu tha hồ đến nghe mấy ông văn nghệ văn nghẻo đọc văn ngâm thơ oang oảng, rồi về báo cáo, khỏi ai nghi ngờ thắc mắc. Hồi năm 1963, cụ Quỳnh có bị bắt, chắc vì cụ hay qua lại thăm thầy Thích Tâm Châu. Bây giờ năm 2005 mà ở Hà Nội, Sài Gòn có những cái đàm trường như vậy thì vui nhỉ? Bây không có cái không khí vừa thoải mái vừa công khai một cách ngạo nghễ, vô úy vô kỵ như ở Ðàm Trường Viễn Kiến thời đó.
“Cụ Quỳnh chuyên mặc bộ bà ba nâu kiểu người Bắc, tay cầm quạt, cụ chuyên hút thuốc Bastos đỏ, chuyên bẻ điếu thuốc làm đôi, mỗi lần chỉ hút một nửa điếu. Ở cái đàm trường đó, Ðỗ Ngọc Yến, Trần Dạ Từ, Nguyễn Trung và tôi thuộc lớp nhỏ tuổi nhất. Trần Dạ Từ, Viên Linh thường ngâm thơ. Nghiễm đọc những truyện ngắn mới.
(Vũ Ánh)
Trịnh Công Sơn với những khuất lấp
Có điều thú vị, vào cái đận năm 1992 ấy, thi sĩ Bùi Giáng không hề có ý tranh giành về chuyện bản quyền với người bạn của mình, khi có người thắc mắc vì sao nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không đề sáng tác theo ý thơ của ông. Có lẽ với tính cách bất cần của thi sĩ họ Bùi thì ông cũng chẳng coi đó là sự xúc phạm. Hơn nữa, bài “Mắt buồn” của ông quá nổi tiếng, vậy thêm một lần đề tên mình lên bản nhạc thì cũng chỉ là thêm được “tiền rượu” mà thôi. Chuyện giữa hai người không ồn ào về bản quyền như giữa nhạc sĩ Trần Quang Lộc và thi sĩ A Khuê trong ca khúc “Về đây nghe em” sau này. Hay Phạm Duy với Nguyễn Tất Nhiên.
Mọi chuyện nhẹ nhàng, mặc dù bị gián đoạn một thời gian dài. Điều còn lại là thành tựu của cả hai tác phẩm thơ và nhạc đều trở nên bất hủ. Hai người còn giao du với nhau, sáu năm sau cho đến khi thi sĩ Bùi Giáng qua đời, năm 1998. Đến viếng cố nhân, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong sổ tang những vần thơ, tại chùa Vĩnh Nghiêm, ngỡ như còn đang uống rượu cùng nhau :
Bùi Giang Bàng Dúi Búi Giàng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hoá ra thi thể là ngàn hư vô
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô hạn ứ ừ viển vông
Sau này ông còn viết những câu thơ, để kỷ niệm một năm ngày mất của cố thi sĩ, với những lời hết sức buồn :
Thi nhân vĩnh viễn chân trời ấy
Đảo điên điên đảo bụi trần gian
Từ ấy tôi buồn như cỏ dại
Buồn vì một chút bụi lang thang
(Vương Tâm)
Vài trích đọan từ cuốn Trong đống tro tàn - 1
Vấn đề tôi đặt ra trong kịch bản đó không chỉ là những giai điệu, những ca từ hút hồn của nhạc Trịnh mà tôi tự vấn: Mảnh đất nào, văn hóa nào, phẩm hạnh nào đã nuôi dưỡng một tâm hồn trong sáng và chân thiện đến thế, đã sản sinh ra con người chân tình đến thế? Nếu như Karl Marx nói: “Con người là sản phẩm của tổng hòa mọi quan hệ xã hội” thì cái xã hội miền Nam đầy rẫy những “Tội ác và tàn dư của Mỹ Ngụy” ấy tại sao lại sản sinh ra Trịnh Công Sơn?
Và từ đó, từ 1982 bắt tay vào “Hà Nội trong mắt ai”, “Chuyện tử tế”… tôi có cách “viết kịch bản” hoàn toàn khác. Những gì chung chung, lớt phớt, vô thưởng vô phạt, tôi viết ra đầy đủ, mạch lạc và trình với cấp trên. Những gì tâm đắc, những gì khoái chí, những gì giật gân, những gì phạm húy tôi chỉ ghi vào sổ tay “tự sướng” và rắp tâm bằng mọi cách làm bằng được.
Mọi người nhất là đám bạn bè thân thường vu cho tôi là “Quái” – Thủy Quái. Thực lòng mà nói, trên cõi đời này chẳng ai muốn quái. Ai cũng muốn sống chân thành, giản dị, mộc mạc, “nhân chi sơ” mà. Nhưng có lẽ những giả dối, những lừa gạt, những sức ép bạo quyền nó nhào nặn con người thành “Quái”. “Quái” để thích nghi, để tồn tại. Chẳng phải chuyện “Quái” trong nghề làm phim chúng tôi, trong văn học nghệ thuật mà cái “Quái” đang bao trùm lên xã hội này, dân tộc này. Tiếc rằng “Quái” để hướng tới cái thiện thì ít mà hướng tới cái ác thì nhiều.
(Trần Văn Thủy)
Trần Văn Thủy là một đạo diễn phim, sinh năm 1940 tại Nam Định. Quê gốc làng An Đạo, Nam Định. Hiện đang ở Hà Nội.
Trong chiên tranh ông làm phóng viên chiến trường. Ông đã đạo diễn trên 20 phim, trong đó có Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế,
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Vô tư là cái tròn tròn
Dùng đi dùng lại vẫn còn đến sáng mai
Vô tư là cái dài dài
Dùng đi dùng lại đến sáng mai vẫn còn
Vài trích đọan từ cuốn Trong đống tro tàn - 2
Nghĩ lại khi viết kịch bản về Trịnh Công Sơn, tôi thật ngây thơ đến ngớ ngẩn. Trong Nam, Trịnh Công Sơn còn phải tập trung đi đào đất để chỉnh đốn lại tư tưởng (cải tạo) mà tôi ngồi ở Hà Nội viết kịch bản xin làm phim để ngợi ca Trịnh thì tôi ngu muội, u mê đến cùng cực. May mà mọi chuyện rồi cũng qua đi.
Năm 1993 tôi nhận làm cho đài Channel Four của Anh một bộ phim tài liệu xuyên Việt, đoạn kết của bộ phim đó tôi đã được thay mặt những người ngưỡng mộ, mở lòng bày tỏ với Sơn trong phim A Spiritual World (Một cõi tâm linh). Và bây giờ tên Trịnh Công Sơn đã là tên của những con đường ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội.
Trong dịp đặt tên đường Trịnh Công Sơn ở Hà Nội, một vị có chức quyền, chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, trong diễn văn có nói rằng: “Trịnh Công Sơn là người của mọi người, người của mọi thời”. Nếu các vị nói được câu nói đó sớm hơn thì đỡ khổ cho cuộc đời này biết mấy!
(Trần Văn Thủy)
Giai thoại về Tô Hoài
Khoái đi thực tế, nhưng khó chiều
Có lẽ những chuyến đi thực tế đã đem lại cho ông những bài học nhân sinh thực sự. Đi thực tế với Tô Hoài đã thành một cách học, từ học cách đẻ ra việc đến học nghề, từ học cách sống đến học sự đời đang bày ra trước mắt. Mà cũng nhờ những chuyến đi lên rừng xuống biến ấy, sau này Tô Hoài mới có cái để kể lại, với biết bao vui buồn, và nhiều phen dở cười, dở khóc. Tham gia cải cách Tô Hoài học được nhiều cái mình sai; tham gia sửa sai, Tô Hoài biết được nhiều điều mình làm đã đúng.
Tô Hoài đi thực tế khắp nơi, nên đã chạm mặt nhiều người, thậm chí cùng công tác với họ, được học ở họ khối chuyện. Ông hay quan sát và ưa nhận xét, đã nhận xét ai thì rất tinh và quái. Ông bảo: cái anh đội chúa chỏm một xóm, ngại ra đồng thì vờ lấy sổ ra nghiên cứu, thấy có người đến thì vờ quét nhà để che miệng thế gian, lại chúa ăn vụng, kể cả ăn vụng người.
Không khoái triết học, nhưng Tô Hoài cũng ham triết lí. Chán những bài giảng chính trị khô khan, song lại có những trang viết minh hoạ cách mạng hai giai đoạn khá xuất sắc. Tô Hoài nghe “người lớn” bàn chuyện đệ tam đệ tứ, cả những trên trời dưới biển, mà các chuyện ấy nào ông có hiểu cho ra ngọn ra ngành gì đâu, thế nhưng ông lại viết về thế giới đại đồng cho trẻ con đọc hay ra phết.
Tô Hoài cũng hay chấp vặt, đúng hơn thì ông ấy hay ghi lại nhưng lời phát ngôn sơ hở của một vài nhà văn cùng thời, để những lúc rỗi rãi ngồi nhắc lại còn có cái mà châm chọc.
Chẳng hạn, hồi ông đi công tác thực tế, một số nhà văn cốt cán ở nhà để củng cố cơ quan. Nghe các ông ấy nói khéo, Tô Hoài liền chộp lấy cái câu ấy một cách rất nghề: “ tớ ở nhà canh gác cho các cậu đi, khoái nhé”. Kể có vẻ dửng dưng vậy đấy, song kì thực ông rất thâm và có máu kí phiêu lưu. Ông chọn cách kể tưng tửng cốt để chẳng ai bắt bẻ, vạch họe được gì. Cái việc ghi ghi chép chép và lọc lõi của ông, hoá ra có phảng phất cái thái độ gì đó. Nói cụ thể ra thì khó, nhưng dò cái ý của ông thì chắc chắn chẳng ai giống ai.
Ai cũng ngại những chuyện tẻ, và nhạt. Tô Hoài cũng thế. Nên nghĩ ra đủ thứ để có trò xôm. Nguyên cái việc đi thực tế thôi, mà Tô Hoài cũng tính sao cho đủ ban đủ bệ. Có anh nhà văn gai góc thì nên có thêm anh nhà thơ thêm thơ mộng. Có anh làm xiếc vui mắt, lại cần có anh múa hát cho vui tai. Có ông Tô Hoài và Hoàng Trung Thông rồi, cần ông hoạ sĩ Nguyễn Sáng nữa cho nổi đình nổi đám. Chẳng nổi đình nổi đám lại không à. Giả thử, Nguyễn Sáng thỉnh thoảng làm được cái truyền thần cho bà con thì hay phải biết. Nhưng Nguyễn Sáng từ chối, không đi. Tô Hoài không bỏ qua. Ông phải làm rõ cái sự không đi ấy. Tôi (Hà Thanh Vân)
nghĩ ông Tô Hoài thích cái gì cũng cụ thể, cũng có nguyên do và phải cắt nghĩa được. Rồi ông cà kê bảo, Nguyễn Sáng có vẽ vời gì đâu, tay ấy mê gái nên ở nhà cho khoẻ. Đọc Tô Hoài, thấy ông còn có cái tài tạt ngang tạt ngửa, lồng ghép thu góp đủ thứ chuyện nhỏ nhặt, chỉ nhằm làm nổi rõ tính cách của một ai đó. Rõ rồi thì ngừng bút, kể sang chuyện khác cho sinh chuyện đời.
(Hà Thanh Vân)
Đọc Kiều của Trương Vĩnh Ký, nghĩ về ngôn ngữ Việt - 1
Các bản dịch của ông, đặc biệt bản phiên âm Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể vẫn còn những chỗ chưa thật đúng, chưa hoàn chỉnh, nhưng, như cụ Nguyễn Văn Tố viết trong lời tựa cho sách viết về Trương Vĩnh Ký của Lê Thanh, chữ Nôm là loại chữ không có từ/tự điển, ở vào giai đoạn đó, mỗi người viết một cách, không thể nào đọc cho đúng ngay được, nên việc làm của Trương Vĩnh Ký vẫn rất quý. Và, để lặp lại một lần nữa, nó cho chúng ta cái nền để tìm hiểu chữ nghĩa Việt.
Trong việc viết sách, dịch sách, phiên âm các tác phẩm văn học từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, làm tờ Gia Định báo, và sau đó là tờ Thông Loại Khoá Trình (mà ông tự bỏ tiền ra để thực hiện), mục tiêu chính của Trương Vĩnh Ký là ghi lại một thứ “tiếng An Nam ròng”, “nói sao viết vậy”, cốt sao để người Việt đọc và học tiếng Quốc ngữ có thể nắm bắt ngay cái lối nói, chữ viết, ý tưởng của người dân trong suy nghĩ và giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ, theo Heidegger, là “ngôi nhà của hữu thể”. Việc ăn nói, viết lách, dùng từ, ngữ như thế nào sẽ tạo nên thế giới của chúng ta. Chúng ta tạo nên thế giới qua lời nói, chữ viết, và ngôn ngữ của mình.
Ngôn ngữ của người Việt, qua bản phiên âm và chú giải Kiều của Trương Vĩnh Ký, là chữ Quốc ngữ của thời đó. Nó là ngôn ngữ của dân tộc, nói chung. Nhưng người khảo sát cũng có thể thấy nó mang khá đậm tính phương ngữ và cách diễn ý của Đàng Trong, của miền Nam, một miền Nam của thế kỷ XIX. Một xã hội rất khác với xã hội hiện tại trong đó chúng ta đang sống. Tìm hiểu ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói, cách phát âm, cách ghi âm, lối dùng chữ của người dân trong một khung xã hội nào đó, sẽ cho ta biết khá rõ về con người và lối sống của thời đại ấy.
Bài viết này không thể khảo sát tất cả các từ, ngữ, chữ nghĩa được dùng của Truyện Kiều, đặc biệt của bản Kiều do Trương Vĩnh Ký phiên âm và chú giải. Người viết chỉ có thể khảo sát, tìm hiểu một số từ ngữ, một số biến đổi phản ánh trên mặt ngữ âm và ngữ nghĩa của một số từ ngữ để, qua đó, tìm hiểu về ngôn ngữ, chữ nghĩa Việt.
(Bùi Vĩnh Phúc)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Bố vợ là… con gà què
Ngo ngoe anh đập chết
Đọc Kiều của Trương Vĩnh Ký, nghĩ về ngôn ngữ Việt - 2
Sau đây, chúng ta thử đi vào ngôn ngữ Truyện Kiều của Trương Vĩnh Ký. Tóm tắt truyện trước khi đi vào phần phiên âm và chú giải, Trương Vĩnh Ký có phần lời nói đầu (Avant-Propos) viết bằng tiếng Pháp để giới thiệu cuốn sách.
Tôi tạm dịch:
"Thơ mà chúng tôi in ra bằng quốc ngữ ở đây là thơ mà tất cả người An Nam đều thuộc nằm lòng trên đầu môi chót lưỡi, đàn ông cũng như là đàn bà, con trai cũng như con gái. Thơ này được tất cả mọi người đều yêu thích và thưởng thức, đối với người biết chữ cũng như với người không biết, kể cả phụ nữ, vì thơ này mang một nền tảng đạo đức được định nghĩa rất khéo, được diễn tả trong mọi liên hệ, thích hợp với mọi hoàn cảnh trong cuộc sống con người. Khi buồn đau, thơ đem lại những niềm an ủi; khi gặp điều may lành, đúng ước nguyện, ta thấy trong thơ hình ảnh hạnh phúc của ta được diễn tả bằng những mầu sắc tươi tắn...
Có nhiều những câu thành ngữ, ngạn ngữ, những lời hay ý đẹp, những nguyên tắc mang tính phổ quát hay đặc thù trong cuộc sống xã hội được trình bày rất rõ ràng, mạch lạc trong thơ. Người ta thấy trong thơ một bức họa tuyệt vời của cuộc bể dâu, thăng trầm thế sự, những uẩn khúc quanh co như một mê đồ của kiếp nhân sinh. (…)"
(Bùi Vĩnh Phúc)
Thăm Bà Cả Đọi
Lần trước tôi ghé, bà Cả còn khỏe khoắn, dù quán xá đã có con cháu trông nom nhưng mỗi buổi sáng, bà vẫn đi bộ ra quán nhặt rau. Bây giờ, bà đã yếu nhiều, chân đi chậm chạp từng bước và trí nhớ đã kém, nhớ quên lẫn lộn. Chiều chiều, trời nhạt nắng, cô cháu gái chở ra quán, bà chỉ ngồi trước cửa ngắm nghía hàng cơm vỉa hè thủa nào giờ đây là căn nhà hai gian rộng rãi, cửa hàng khang trang góc ngã tư nằm ở những con đường sầm uất giữa thành phố. Có nhiều người chưa từng biết mặt bà Cả, chưa ăn hàng cơm Nguyễn Huệ trước kia bao giờ nhưng truyền miệng nhau, người ta vẫn tìm tới quán cơm Bà Cả Ðọi. Ða số Việt kiều về Sài Gòn đều tìm tới quán của bà. Cả khách ngoại quốc cũng vào gọi đĩa cà tím nướng, tô canh cải xanh…
Quán cơm Bà Cả bây giờ sạch sẽ khang trang, không còn là căn gác lùi sùi cho dân “đọi” tìm tới qua bữa. Dù sao giữa trung tâm thành phố, đó vẫn là quán cơm bình dân với những món ăn từ xưa đến nay không thay đổi: thịt đông, thịt lợn nấu giả cầy, đậu rán, dồi trường, rau muống xào, trứng non, trứng đúc thịt… Ðếm có tới gần ba chục món ăn bày ở quầy đặt ngay cửa ra vào. Quán Bà Cả đặc biệt không có thực đơn, khách cứ đứng ngắm nghía chọn lựa món ăn ngay đó, rồi có người bưng thức ăn đến bàn.
Chúng tôi gọi cá trê rán chấm nước mắm gừng, ốc nấu giả ba ba màu nghệ và thơm mùi tía tô, canh cua rau đay mướp mát rượi trưa nắng và một món mà khi vào các quán ăn Bắc kỳ, tôi không khi nào quên gọi là dưa chua, cà pháo chấm mắm tôm.
Dưa vàng muối chua vừa tới, cà pháo quả nhỏ, trắng nõn giòn tan chấm chén mắm tôm tim tím vắt chanh nổi xốp. Món ăn của quán bà Cả dù kho hay xào đều có màu vàng tươi, nhìn rất bắt mắt chứ không thâm màu như đa số các quán cơm bình dân khác.
(Nguyễn Thị Hàm Anh)
Ả đào
Nếu chỉ múa hát thôi thì chẳng có gì là xấu. Có xấu chăng là kể từ ngày các con đĩ bị giới nhà nho mời về nhà hát. Chính những vị tai mắt, khoa bảng, đã mở đường hoặc tiếp tay làm biến chất, làm hư các con đĩ.
Buổi hát ban đầu rất lịch thiệp. Các quan ăn uống vui chơi, các cô hầu rượu, múa hát những bài do các quan yêu cầu.
Hồng Hồng Tuyết Tuyết
Mới ngày nào còn chửa biết chi chi
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
Ngảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu (...)
(Dương Khuê, “Hồng Tuyết”)
Những chầu hát cô đầu dần dần bị những người thiếu tư cách biến thành nơi cợt nhả, bá vai gối đùi.
Nhân sinh quý thích chí
Còn gì hơn hú hí với cô đầu
(...)
Chơi cho thủng trống tầm bông.
(Trần Tế Xương, “Chơi ả đào”)
(Xướng ca vô loài – Nguyễn Dư)
Bánh chưng, bánh tét, bánh dày, xôi và cốm
Cốm là sản phẩm chế biến bằng cách rang lúa nếp, giã cho dẹp lại và sàng sảy để bỏ trấu đi.
Dữ liệu của nhà dân tộc học Từ Chi viết về loại cơm chul (cơm chùn), lễ vật trong dịp Ăn cơm mới của người Mường, lễ vật dâng cúng ngay để mọi người bắt tay vào gặt. Là đem “rang” (có hạt bung ra) rồi giã nhẹ để tách vỏ. Gạo đó chế thành cơm chuI.
Lúa nếp rang nở bung ra mà người miền Bắc gọi là bỏng thì ở Trung Bộ (kể cả Nam Bộ) gọi là nổ. Bánh nổ là lễ vật truyền thống vào dịp Tết ở Trung Bộ, và nổ là lễ vật bắt buộc trong nhiều đám cúng việc lề ở Nam Bộ. Phải chăng đó là di duệ của cốm, và xa xưa hơn là cơm chul.
(Huỳnh Ngọc Trảng)
Những vai phụ “láy”, “đệm” trong ngôn ngữ Việt
Tôi không phải là người thơ văn, ca dao chữ nghĩa đầy bụng (khó chịu chết!), nhưng có một câu trong Truyện Kiều mà tôi rất yêu thích và tạc dạ hoài huỷ:
"Ðầu tường lửa lựu lập loè đơm bông." (có bản ghi là "đâm bông")
Thật tài! Ðọc lên mà tưởng như đang chiêm ngưỡng một bức hoạ thuỷ mặc chỉ với hai màu đen đỏ trên khung lụa mềm mại. Trong câu thơ trên, Nguyễn tiên sinh không dùng bất cứ từ nào để diễn tả màu sắc, mà chỉ với ba từ "lửa", "lập loè" là ông đã xoạc bút phóng hoạ lên khung vải tưởng tượng của người đọc hình ảnh chòm lựu trổ bông đỏ loé, tung toé như phát hoả.
Ở đây, tôi mạn phép người quá vãng đánh cắp hai chữ "lập loè" ra phân tích ngữ pháp. Theo tôi, "lập loè" là "trạng từ kép", đậm tính "láy" nhiều hơn "đệm", được tác giả biểu tượng hoá dùng diễn tả trạng thái cho động từ "đơm bông". Chẻ đôi, ta có "lập" và "loè", cả hai đều có nghĩa, nhưng mù mờ, chưa rõ ràng, người đọc phải níu kéo thêm những từ khác, mới hy vọng hiểu ý tác giả. Theo tôi, "lập loè" được tách ra và ghép lại từ hai trạng từ kép cùng ngữ tộc là "lập lờ" và "loè nhoè".
(Ngô Nguyên Dũng)
Khoa trương trong ca dao của người Việt
Vật cách hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong ca dao người Việt hay sử dụng biện pháp vật cách hóa nhằm là tăng thêm tính hài hước. Chẳng hạn, một cô gái đã coi người tình của mình như một đồ vật như trong bài ca dao sau:
Người tình ta để trên cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ
Đêm qua ba bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy dậy sờ thì không
Trong bài ca dao mỉa mai một cô gái chính chuyên có thể vo viên các ông chồng, còn chồng thì bò lổm ngổm như những con cua:
Gái chính chuyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi
Chẳng may quang đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng
Cua cáy phiếm lược – cua (2)
Vậy chứ càng cua để làm gì?
Xin thưa càng cua ngoài để…đi, xé thịt để ăn. Người tầm khảo xem chương trình 20/20 của đài truyền hình ABC thập niên 80 trộm thấy: Hai càng cua như cái “fourchette” (cái nĩa) móc thịt con ốc, con hàu…sơi ngon lành.
(Cua đực, cua cái giao phối)
Trở lại chuyện cua làm tình thế nào? Cứ theo ông Google “ngụ cư” ở Hà Nội tư duy suy sai bét vì mai cứng, càng cua lờ quờ nên cua sinh nở bằng cách “nhả nước bọt, tinh trùng theo nước bọt từ con đực qua con cái, rồi tạo trứng sinh con” như…con người ta.
Cua đẻ trứng nhưng trứng được cua mẹ bảo vệ trong yếm nằm dưới bụng. Chỉ đến khi trứng nở thành cua con thì cua mẹ…”cởi yếm” để các cua con chui ra. Vì thế yếm cua là một trong những đặc điểm nhận dạng cua cái hay đực vì yếm cua cái lớn hơn
Có tích mới dịch nên tuồng với trời đất hương hoa, người ta cơm rượu thì cua khác con người ta khi say, người say đi lạng quạng như cua. Còn cua với 10 cái càng thay vì đi “ngang như cua” lại dở chứng đi ngay hàng thẳng lối là…là khi ấy cua sỉn tới bến rồi.
Ẩm thực miền Bắc
Cốm làng Vòng
Cốm được làm kỳ công, công phu, qua nhiều công đoạn mới cho ra mẻ cốm thơm ngon. Cốm được làm từ nguyên liệu chính là nếp cái hoa vàng mới qua kỳ đổ sữa. Lúa nếp cái hoa vàng gặt về tới đâu phải chế biến, đem rang, giã cốm tới đó mới tươi ngon, giữ nguyên được hương vị.
Khi rang cần rang ở lửa vừa, hạt cốm chín tới, khi giã cốm cần giã bằng cối riêng chuyên dụng, nhịp chày giã phải nhẹ, đều để cốm được mịn và dẻo. Để cốm được thơm ngon, khi mua mang về, cốm được gói bằng lá sen già hoặc lá khoai rát xanh non, buộc bằng sợi rơm vàng óng ả. Khi ăn lấy tay nhúm từng nhúm nhỏ, cho vào miệng, nhai chậm sẽ thấy được vị ngọt thơm của lúa nếp non, cùng hương sen thơm ngào ngạt.
"Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết
Sau cũng đúng chục năm vùng vẫy nơi xứ người, ông xuất bản được 250 tựa sách, nhà xuất bản Văn Nghệ đã phải dừng bước. Ông chia tay với sách một cách tức tưởi. Thuê một chiếc xe bảy chỗ, chạy nhiều chuyến, ống kìn kịt chở những đứa con rứt ruột đi bán ve chai. Ông bình thản cho biết: “Mỗi xe sách cũ như vậy, họ trả tôi hai chục, tính ra 5 xu cho mỗi cuốn sách”.
Nhà thơ Du Tử Lê vớt vát cho sự kiện đau lòng này: “Tôi tin, rồi đây, các thế hệ sau tôi, sẽ có thêm rất nhiều người đem lòng biết ơn sự cống hiến quý báu, một đời của ông Từ Mẫn / Võ Thắng Tiết cho văn học. Tôi muốn nói, dù với tên gọi nào, Võ Thắng Tiết hay Từ Mẫn, tên tuổi ông cũng đã thuộc về phía rực rỡ nhất trong lãnh vực xuất bản sách của Việt Nam, nói chung”.
(từ trái: Ông chủ nhà sách Tự Lực, Thành Tôn, ông Võ Thắng Tiết (nhà sách Văn Nghệ), Song Thao - (Hình: Song Thao)
Tôi trộm nghĩ: Thấm nhuần lẽ vô thường của đạo, có lẽ ông Võ Thắng Tiết chẳng màng tới chuyện đóng mở một nhà xuất bản. Chuyện như vậy, chuyện phải vậy, lẽ thường. Lần gần nhất tôi gặp ông, dịp Tết năm 2019, tại nhà sách Tự Lực. Anh Đồng của nhà Tự Lực tết năm nào anh cũng mời bạn bè thân quen tới ăn Tết để nghe tiếng pháo mừng xuân của nhà sách. Từng cối pháo tròn như bánh xe hơi được tuôn ra kín cả khu đậu xe trước cửa. Tiếng pháo giòn giã tới gần nửa tiếng. Ông Võ đứng cạnh tôi và Thành Tôn, nói nhỏ: “Chắc hẳn đốt hết tiền bán sách cả năm!” Giọng ông bình thản.
Nhớ chuyện nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc nói tới tiếng cười của ông Bụt Sách, tôi nghĩ, với ông Võ, chắc chẳng có chi quan trọng trong cõi ta bà này. Nguyễn Hưng Quốc gọi ông là Bụt Sách, tôi lại thích gọi ông là “Ông Văn Nghệ".
Có lẽ hợp với cái hể hả của ông hơn.
Tận tín thư
Nhà Nho nói "Tận tín thư bất như vô thư"
Nhưng sách Tàu không đúng được bao nhiêu phần trăm? Vì ông Tầu sửa sách, sửa chữa năm bẩy lần, ngày sau chẳng còn gì là sự thật cả. Chuyện về Trần Ích Tắc, An Nam Chí Lược của Lê Tắc và chuyện Nam Ông (Hồ Nguyên Trừng ), mấy ông mạo tác, sửa đổi.
Cuốn An Nam Chí Lược của Lê Tắc, ở Việt Nam không có truyền bản (?). Cuốn sách ở bên Tầu lưu lạc giang hồ theo đường ngoằn ngoèo sóng gió làm sao mà ra tới Nhật Bản! Việt Nam bèn qua Nhật Bản thỉnh về. Tôi đọc thấy có hàng ngàn chỗ sai! Tôi chỉ tức cười khi người ta gọi Trần Quốc Tuấn là Hưng Đạo Đại Vương.
Sao gọi Trần Thánh Tông là thái tử, gọi Trần Quang Khải là thượng tướng mà gọi Quốc Tuấn là đại vương? Tôi rà soát lịch sử Việt từ Đinh Bộ Lĩnh tới Nguyễn suy tàn, không hề phong cho ai là đại vương cả!
(Chân Diện Muc)
Phỏng vấn nhà văn Song An Hoàng Ngọc Phách
(Trích từ cuốn sách Cuộc phỏng vấn các nhà văn của Lê Thanh
do nhà Đời Mới xuất bản tại Hà Nội năm 1943)
Năm tôi học năm thứ tư thì trong trường có một anh nghèo quá phải làm thuê cho nhà người ta lấy cơm ăn; đi học về anh phải làm lụng vất vả. Việc đến tai bà đốc Donnadieu. Bà cho anh vào làm lưu học sinh, nhưng không bắt trả tiền, vì sự đối đãi đặc biệt ấy mà trong trường có người khinh anh, thứ nhất là một ông giám thị. Có lần, ông này làm nhục anh ta. Các bạn xúm lại phản đối. Rồi từ tháng ấy, anh em người một hào, người dăm xu, góp lại đủ tiền cơm tháng cho anh ta.
Nhân việc ấy, chúng tôi nẩy ra ý lập một hội gọi là “Tân cựu học sinh ái hữu”, mục đích giúp đỡ anh em. Tôi được bầu làm hội trưởng trong ban trị sự tạm thời, lập một khán đài trong vườn trường, lên diễn thuyết cổ động cho hội. Bài diễn thuyết được hoan nghênh. Ngay sau cuộc diễn thuyết, số học sinh xin nhập hội có đến ngót nghìn người.
- Hội làm được nhiều việc hay. Tôi nhớ một anh học rất giỏi, nhưng nhà nghèo quá. Anh được phần thưởng, mấy ngày sau được ra nhà hát tây lĩnh, nhưng quần áo rách tơi. Hội may một cái áo trắng dài, và khi vắng anh, anh em để áo ấy vào trong tủ bàn với mấy chữ “Hội biếu anh để mai anh mặc ra lĩnh thưởng”.
Sau hội bị giải tán vì chúng tôi chưa đến tuổi điều khiển một hội như thế.
(Lê Thanh)
Chửi ở miền Bắc
Phan Nhật Nam kể một câu chửi ở miền Bắc:
“Cha tiên nhân nhà mày nhá…Cái ngữ mày không đáng ba đồng chinh kẽm, con ạ.”
Phan Nhật Nam không hiểu, hỏi và được người miền Bắc giải thích: Ba Duẩn (ba), Phạm Văn Đồng (đồng), Trường Chinh (chinh), Tôn Đức Thắng (kẽm là tôn)
(Bảo Lâm)
Góp nhặt cát đá
Mộng
Ngoảnh nhìn lại cuộc đời như giấc mộng
Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không.
Chừng nào tôi bỏ rượu thì bỏ thơ luôn
Người thanh niên ngoài hai mươi tuổi năm xưa bây giờ đang ngồi trước mặt tôi bên chai rượu vuông vức, lặng lẽ nâng ly rượu lên môi và nhớ lại một kỷ niệm xa xưa. Chúng tôi cùng ngồi uống rượu trong sự lặng lẽ ấy. Chị Băng nhắc chúng tôi ăn bánh, ăn giò chả. Chị cầm chai rót thêm rượu. Rồi chị kể hôm nào đó trước Tết, nhà thơ Tố Hữu có đến thăm anh Văn. Vâng, tôi hiểu bây giờ anh Văn có rất nhiều khách quý. Khách trong nước và khách ngoài nước. Văn Cao vẫn ngồi đúng cái nơi anh thường ngồi và tiếp khách, không có khách thì uống rượu một mình. Bây giờ sự đi lại của ông rất khó khăn, phải có người dìu mới nhúc nhắc được. Ba chục năm ở ẩn bây giờ thiên hạ mới đổ xô đến thì ông già gần đuối sức rồi. Ba chục năm ông mải miết vẽ, vẽ tranh và bìa sách. Tranh của ông rất riêng, bức tranh Leo cột ông vẽ dăm năm trước có lẽ là bức tranh cuối cùng, giờ nằm trong nhà ông Lâm “toét”.
Ngày 10-7-1995, ngày nhà thơ, hoạ sỹ, họa sỹ Văn Cao từ trần
(Trần Thanh Phương)
Tác giả: Văn Cao (15/11/1923 -10/7/1995), tên thật: Nguyễn Văn Cao
(sinh tại Hải Phòng, gốc người Nam Định)
(tranh Đinh Cường)
Tác phẩm: Buồn tàn thu (1939), Thiên Thai, Bến xuân (Đàn chim Việt – 1942), Suối mơ (1943), Trương Chi (1943), Làng tôi (1947), Trường ca Sông Lô (1947), Tiến quân ca (1944), Mùa xuân đầu tiên (1976)
Trần Văn Thủy – Trịnh Công Sơn
Cách đây hơn mười năm Trần Văn Thủy đã xuất bản cuốn sách có nhan đề Nếu đi hết biển, nêu lên một thắc mắc: nếu đi hết biển thì sẽ tới đâu? Thoạt đầu với khái niệm trái đất tròn, tác giả cho rằng “nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình”. Nhưng nhiều năm sau, khi tác giả đã đi đến đất Mỹ thì mới thấy rằng người Việt xa xứ “qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi” mà cuối cùng không thể “trở về quê mình, làng mình” được.
Cuốn sách mới nhất Trong đống tro tàn này này cho chúng ta cảm tưởng tác giả không còn điều thắc mắc ấy nữa. Con đường địa lý của quả địa cầu dù trên mặt đất hay mặt biển thì rất rõ ràng, đi mãi thì có thể trở về nơi mình xuất phát. Nhưng con đường của lòng người, với bao nhiêu thứ hệ lụy của cuộc sống thì không thể vạch một lộ trình đơn giản nào. Tâm trạng và mục tiêu của người Việt Nam khi dong thuyền ra khơi để làm một chuyến vượt biên không lãng mạn tự hỏi đi hết biển thì sẽ đến đâu, mà là nhắm tới một bến bờ cụ thể nào đó mình có thể sống được một đời sống tự do, xứng đáng là của một con người. Nhưng một khi cuộc sống đã ổn định trên miền đất mới, thì chắc chắn con đường quay về quê cũ trong lòng họ vẫn còn, dưới rất nhiều dạng… hoặc lắm khi chỉ là một giấc mơ về một đất nước tốt đẹp hơn, đáng sống hơn.
(Phạm Phú Minh)
Bát canh dưa chiều đông
Lúc dưa mới muối xổi thì ăn sống. Bữa ăn kèm thịt luộc. Bữa ăn cùng cá kho. Bữa ăn với đậu rán. Sáng sớm ăn cơm rang với dưa, thứ dưa mới muối qua ngày vừa kịp ngả hanh vàng. Hoặc ăn cơm rang với dưa muối chua vắt ráo, cho lẫn vào lúc rang cơm để ngấm mỡ mắm. Thì ngon vô kể.
Thời bao cấp, sáng sớm trước khi đi học, có khi chỉ kịp và vội bát cơm nguội với nước dưa chua, nhón thêm mấy miếng tóp mỡ ròn tan, là cũng đã phấn khởi nhảy chân sáo đến trường.
Khi nào vại dưa đã ngấu chua, nếu là dưa cải củ, xào với khúc nõn đuôi lợn, hoặc xào cùng mấy miềng diềm thăn bò. Đôi lúc chỉ cần xào cà chua tóp mỡ. Tất cả đều rắc thêm chút hành răm.
Xào xong những món như thế , dì tôi thường phải xúc riêng một đĩa để phần cho bố tôi nhắm rượu. Không thì đám con cái hơn chục đứa, nó gắp chéo tay nhau thì nháy mắt hết trơn.
(Vũ Thị Tuyết Nhung)
Chữ nghĩa làng văn
Nhớ về nhà văn Cao Xuân Huy - 2
Anh nói thế, ý là muốn ngay từ đầu rành mạch ra với nhau. Tôi cũng thích như vậy. Thẳng ra với nhau thì mới không xa lạ. Mà chúng tôi thì không xa lạ. Mặc dù trong chiến tranh, lực lượng tổng trừ bị của quân đội Sài Gòn từng lên ứng chiến ở Tây Nguyên chỉ Dù mũ đỏ và Biệt Động mũ nâu chứ không thấy có Mũ Xanh, nhưng vẫn có thể coi rằng hai chúng tôi là chỗ "quen biết " đã từ gần ba chục năm về trước.
Đã chiều muộn. Tiệm đông dần lên và bắt đầu nhạc nhọt. Huy nói căn phòng của ông già anh ngay kia, nhưng để bữa khác mời qua chơi, bữa nay mình kiếm chỗ nào. Mà hay nhất là được chỗ còn lưu dấu Hà Thành năm 54. Biết một chỗ như vậy, tôi chạy xe máy chở anh tà tà dọc Phố Huế, Hàng Bài, vòng quanh Bờ Hồ. Rồi dừng ở nhà Thuỷ Tạ. Đa phần người ta đến đấy giải khát, kem que kem cốc, nhưng ở đấy cũng có quầy rượu. Huy nói tửu lực xuống nên bấy lâu chỉ bia, song bữa nay, giữa Hà Nội, bên hồ Gươm, thì đúng là phải thứ gì nặng ký, để tụi mình, thuở nào nón xanh mũ cối giờ đây đầu bạc thù tạc coi sao.
(Bảo Ninh)
10 câu nói của Tào Tháo
“Người đời đều nói ta là gian hùng nhưng không làm được gì một kẻ gian hùng như ta, các ngươi tự khoe mình là quân tử nhưng đều thua trong tay một kẻ gian hùng như ta. Nếu cái giá của việc làm quân tử là bị lăng nhục, bị giẫm đạp, bị tiêu diệt, thậm chí là bị giết thì ta làm một kẻ gian hùng có thể thực hiện được hoài bão của mình. Từ trước tới nay gian xảo như trung hiền, trá ngụy tựa chân thật, trung nghĩa và gian ác đều không thể nhìn thấy được dựa trên biểu hiện bên ngoài. Có thể trước nay các ngươi đã nhìn nhầm Tào Tháo ta bây giờ lại nhìn nhầm nhưng ta vẫn là ta. Trươc đây ta vốn không sợ người khác nhìn lầm ta”.
(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)
***
Phụ đính I
Em ơi ! Hà Nội... quà
Chả cá Lã Vọng - Ảnh: Google
Xơi món chả cá Lã Vọng cần cầu kỳ một chút, tốn thời gian một chút. Vậy mới thú. Trước khi đưa cá và hoả lò ra bàn, nhà hàng bày soạn dần các thứ "phụ tùng": đĩa bún trắng phau, đĩa lạc / đậu phộng / đậu phụng rang vàng, đĩa rau thơm - rau húng - hành hoa - thìa là chính hiệu làng Láng, thêm bát mắm tôm đánh sủi bọt với chanh và rượu cùng mấy giọt tinh dầu cà cuống. Khách tự tay gắp từng thứ thả vào bát, đưa miếng cá áp lên chảo mỡ sôi xèo xèo rồi múc ra chấm đẫm mắm tôm và xơi nóng sốt sau khi đã thư thái khai vị bằng cút rượu làng Vân, cognac, whisky hay mấy ngụm bia tuỳ sở thích.
- Khà...à...à... Tuyệt!
Giáo sư Remsey khoan khoái thốt lên như thế và tiếp tục bật lon bia Carlberg chúc sức khoẻ thực khách chung bàn.
Một đồng nghiệp đang công tác tại báo Tiền Phong, lại hứa sẽ đèo tôi sang Lệ Mật quật món rắn gia truyền. Các bằng hữu khác tại thủ đô, người chiêu đãi bánh cuốn Thanh Trì, người khao bánh tôm hồ Tây, kẻ mời cháo lòng và tiết canh chợ Hôm.
(
Bánh tôm hồ Tây - Ảnh: Google
Tôi cũng được bạn đưa đến một số hàng quán tít tận ngoại thành, hoặc lần sâu vào nhiều ngõ hẻm như ngõ Cấm Chỉ - địa danh gắn liền với sự tích chúa Chổm - để khảo nếm phở, vằn thắn / hoành thánh, miến lươn, xôi gà, cháo tim cật, v.v.
Trở lại Nam, bâng khuâng ngồi viết những dòng về ẩm thực Thăng Long. Bao nhiêu kỷ niệm ùa về. Và tôi khẽ gọi:
- Hà Nội ơi.
(Phanxipăng)
***
Phụ đính II
Tòa soạn tuần báo Phong Hoá - 1
Chiều và tối thì phòng giữa nhộn nhịp hẳn lên, khói thuốc tỏa lan khắp nơi. Bác Thế Lữ lúc nào cũng ngồi đối diện với papa, người hao hao gầy, đôi mắt sắc sảo, dáng điệu trông lúc nào cũng đầy vẻ bí mật. Có lần tôi thấy bác lấy trong túi ra một khẩu súng lục rất xinh đặt ngay trước mặt rồi chăm chú viết, đôi lúc lại gật gù nhìn khẩu súng. Sợ nhất là có lần bác mang về một cái sọ người, không biết thật hay giả, đặt ngay trên thành lò sưởi, nhe răng cười với hai lỗ mắt sâu thăm thẳm ghê hồn!
Chú Hoàng Đạo và “cậu Hàng Bè” của tôi (Nhất Linh) làm việc bên phòng khách có khi tới khuya cũng chưa về. Lúc nghỉ ngơi bày cờ ra đánh, mỗi lần chiếu tướng chú lại đập mạnh quân cờ cười ha hả. Papa (Khái Hưng) lâu lâu cũng tới góp nước, hoặc mở đàn tam thập lục ra dạo một bản, tiếng trong trẻo rộn ràng.
Tòa soạn tuần báo Phong Hoá - 2
Thỉnh thoảng bác Tú Mỡ từ Láng cỡi bình bịch tới tòa báo thăm anh em, người gầy gầy nhưng tiếng cười rộn rã đi đến đâu cũng nhộn nhịp tới đó. Công việc xong thế nào cả tòa soạn cũng cùng bác sang ăn phở xào dòn, phở áp chảo của hiệu Phúc Hưng Lâu gần đó, hay ít ra cũng là một chầu bia. Dĩ nhiên trong những trường hợp hy hữu đó bắt buộc tôi phải đi theo hầu papa rồi.
Ngược hẳn với bác Tú Mỡ, chú Thạch Lam của tôi đi tới đâu cũng yên lặng như một cái bóng, chú thường mặc áo dài the thâm, dáng người điềm đạm, ánh mắt sâu thăm thẳm.
Trần Khánh Triệu là con đẻ nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), và là con nuôi của nhà văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư).
Xem Thêm :
:Cha tôi, nhà văn Khái Hưng – tác giả Trần Khánh Triệu
.jpg)
.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét