18 thg 12, 2024

THÔNG BÁO (2 )


THÔNG BÁO

Thân gởi: Quý anh chị em
Cựu giáo sinh Sư Phạm Sài Gòn.
Ngày 01/01 hàng năm là ngày bắt đầu cho một năm mới, cũng là ngày rất đặc biệt, quan trọng và thiêng liêng với GĐ.SPSG của chúng ta, vì đó là ngày họp mặt truyền thống để gặp gỡ nhau hàng năm mà GĐ. SPSG đã duy trì hơn 20 năm qua.
Năm nay, tuy thời gian khá cận kề vì những việc riêng, nhưng tôi và quý Thầy Cô cũng đã quyết định duy trì truyền thống thiêng liêng nầy. Vì vậy, tôi mạn phép thông báo:
GĐ SPSG sẽ tổ chức họp mặt cho toàn thể cựu giáo sinh của 13 khóa + khóa cấp tốc.
+ THỜI GIAN: 8g sáng ngày 01/01/2025.
+ ĐỊA ĐIỂM: Nhà hàng Kim Thanh, 141 đường Bắc Hải, P.14, Q.10, TP.HCM.
+ LỆ PHÍ THAM DỰ: 300.000$/1 người.
Rất mong được sự tham dự nhiệt tình của tất cả anh chị em cựu giáo sinh của khóa cấp tốc và 13 khóa.
Các anh chị em có đề xuất gì, xin vui lòng gởi cho ban Tổ chức. Rất cảm ơn các anh chị em !
Ngày 08.12.2024
ĐOÀN VIẾT BỬU

Ảnh :Sáng , 03/8/2024 , GĐ SPSG (T.Bửu,giữa )đến mừng sinh nhựt thầy Dương Mạnh Thường (phải ) tại nhà thầy ở Thủ Đức.Bên trái là thầy Phan Hửu Thành ,

CHIỀU THANKSGIVING -Thơ Mailoc và Thơ Họa


CHIỀU THANKSGIVING

Nhạc chiều êm ái quạnh thu phong
Dạ khúc Schubert u ẩn lòng.
Vài chiếc lá vàng còn luyến hạ
Một vầng trăng khuyết mãi sầu đông.
Bên đèn lặng lẽ vương trăm mối
Trên phím buồn tênh gõ mấy dòng.
Lễ tạ ơn Trời xao xuyến khách
Ngày về cố lý nỗi hoài mong !
Mailoc
Nov-29-24

Thơ Họa:

1./ CHIỀU CUỐI NĂM

Cuối năm se lạnh ngọn hàn phong
Viễn khách hoài hương nỗi nghẹn lòng
Dạ héo bâng khuâng miền dấtđất mẹ
Chiều buồn hiu hắt cảnh mùa đông
Sầu thương quặn thốt lời lên giấy
Mẫn cảm ngùi đưa ngữ cạn dòng
Tháng chảy , ngày trôi hồn vạn dặm…
Về nơi cắt rốn, một trời mong…
CAO BỒI GIÀ
12-12-2024


2./ GIÓ CUỘN TRÊN ĐỒI

Núi đồi vi vút cuộn phiêu phong
Gió lốc như đang xoáy giữa lòng
Dặm khách u hoài niềm viễn lữ
Quê người quạnh buốt nỗi hàn đông
Nhìn lên cánh vỗ chim ngàn hướng
Ngó xuống sông trôi nước một dòng
Chiếc lá vàng rơi vào tịch lặng
Mang theo uẩn ức suốt đời mong…
Lý Đức Quỳnh
13/12/2024


3./ NỖI NHỚ NGÀY ĐÔNG

Lạnh lùng, se sắt ngọn hàn phong
Nỗi nhớ miên man khiến chạnh lòng
Khắc khoải tâm hồn trong buổi gió
Ngậm ngùi tấc dạ giữa ngày đông
Bài thơ đẫm lệ nhòe hoen chữ
Nhật ký mòn tay bạc phếch dòng
Ngước mắt lên nhìn di ảnh cũ
Dù rằng đã biết...vẫn chờ mong.
Sông Thu
( 13/12/2024 )

4./ NHỚ QUÊ MÌNH

Thay màu mấy độ cả rừng phong
Đỏ tía vàng cam đẹp não lòng!
Hớn hở vui mừng tuy gió lạnh
Âm thầm bách bộ dẫu người đông
Đường xưa cảnh nọ nào chia lối
Bến cũ thuyền đây hẳn ngược dòng?
Chạnh nhớ quê mình thương quá đỗi!
Bao giờ viếng lại thỏa niềm mong!
Như Thu
12/12/2024


5./ CHIỀU TÀN NIÊN

Se lạnh tàn niên quạnh lãnh phong
Chiều về bấc thổi chạnh nao lòng
Buồn vương đường phố người thưa vắng
Sầu vướng công viên khách chẳng đông
Lặng lẽ thời gian trôi mải miết
Quạnh hiu sông nước chảy xuôi dòng
Một thời tuổi dại đầy lưu luyến
Trở lại quê nhà chốn nhớ mong
songquang
20241212


6./ LỐI CŨ TÌM VỀ.

Thơ thẩn, bồi hồi ngắm cảnh phong
Đường xưa, lối cũ chợt xao lòng
Tình cờ gặp gỡ nơi đồi vắng
Lưu luyến,hẹn hò chốn phố đông
Xếp áo thư sinh anh nhập ngũ
Tiền chàng, khoé mắt lệ nhòa dòng
Người đi, kẻ ở,lòng ngây dại
Đợi lúc thanh bình thỏa nhớ mong.
LAN.
(13/12/2024).



7./ MAPLE
Mượn vần xin góp họa

Sau nhà tôi có hai cây phong
Đúng thẳng song song kết chặt lòng
Lá sẩm nghiêng tàng qua hướng bắc
Cành xanh ngã ngọn về bên đông
Cuối thu lấy nhựa làm ra kẹo
Đầu hạ cắt mương để tạo dòng
Loại gỗ Maple luôn quý hiếm
Tủ giường chắc chắn lắm người mong.
2024-12-13
Võ Ngô


8./ ĐIỆP KHÚC CHIỀU THU

Kinh thành vẫn nét cổ rêu phong
Điệp khúc chiều thu thảng thốt lòng
Tĩnh lặng theo cùng con hẽm vắng
Sẽ sàng len lõi bến đò đông
Dòng Hương yên ắng sương là nét
Mặt nước chênh chao sóng gợn dòng
Vốn thuở ta mình thường ước hẹn
Khơi ngần kỷ niệm nhớ đồng mong …
Mai Vân-VTT
13/12/24.




9./ ĐÊM ĐÔNG
(Họa 4 vần)

Kéo cao cổ áo chắn hàn phong
Dạo khúc " Đêm Đông" khắc khoải lòng.
Bấy Hạ gom thành niềm nhớ chất
Bao Thu góp lại nỗi buồn đong.
Sầu giăng ứ đọng ngưng lời hát
Lệ nhốt tuôn trào bặt nhạc dòng.
Dẫu quỹ thời gian gần cạn kiệt
Ngày hoàng đạo đến vẫn hằng mong...
DUY ANH
Mùa Giáng Sinh 2024


"Đêm Đông" tuyệt phẩm của Nguyễn Văn Thương


10./ CHIỀU ĐÔNG

Nhìn lá rơi đầy dưới lãnh phong
Chiều lên lành lạnh vết thương lòng
Người xưa chốn cũ trong hoài niệm
Thân yếu tuổi già giữa lập đông
Tuyết đợi nhạc tình ca mấy bản
Mai chờ thi tứ khởi vài dòng
Chiều tà hiu quạnh tâm bình tỉnh
Đãi mộng đêm trường thỏa ước mong.
(Phan Thượng Hải)
12/12/24



11./ XAO XUYẾN

Đêm xuống gió lùa rác cảnh phong
Tạ ơn trời đất thật trong lòng
Thu tàn chiếc lá rơi vàng cuối
Hàn phủ nhiều nơi thắm thía đông
Xao xuyến tình người xa xứ lạ
Ấm êm chờ mãi tỏ đôi dòng
Đồng hương lánh nạn luôn cầu nguyện
Đoàn tụ quê cha sớm thoả mong …
Yên Hà
13/12/2024


12./ KHÓC ĐÔNG

(Bài số 2)

Vườn cũ phơi đầy những lá phong
Sương rơi lác đác … chạnh se lòng
Bên hiên trúc biếc reo theo hạ
Góc nhỏ cúc vàng ủ rũ đông
Cảnh chẳng khác xưa, người khuất bóng
Lòng không thay đổi, lệ chao dòng
Nhớ nhau chỉ biết tìm trong mộng
Nến lụn trăng tàn vợi nhớ mong
Kiều Mộng Hà
Dec.13.2024


13./ ĐÊM HOÀI CỐ LÝ

Họa Tá vận

Gió thổi lay cành rụng lá phong
Tàn canh khách địa nhớ nao lòng
Xuân chào hớn hở bâng khuâng Hạ
Thu tiễn bùi ngùi ảm đạm Đông
Bìm bịp kêu chiều dâng ngập nước
Phù sa nương sóng chảy theo dòng
Lục bình tím ngát màu chung thủy
Cố lý ngàn trùng khắc khoải mong
ThanhSong ntkp
CA.13/12/2024


14./ MÙA LỄ TẠ ƠN

Êm ái chiều lên lá kéo phong,
Ngân vang dòng nhạc tái tê lòng.
Ve xa tí tít như buồn hạ,
Trăng lã dáng vèo tợ trách đông.
Chiếc bóng cô phòng chưa tỉnh thức,
Thankgiving gởi nhắn đôi dòng.
Tạ ơn Trời Đất người luôn nhớ,
Hội ngộ tương phùng mãi đợi mong!!
*
Xa xôi vời vợi khắc tim bồng!
HỒ NGUYỄN
(14-12-2024)

15./ CHIỀU ĐÔNG VIỄN XỨ

Bấc về trụi lá khắp rừng phong
Lữ khách bâng khuâng tê tái lòng
Vắng vẻ người đi trong giá rét
Im lìm thỏ chạy giữa hàn đông
Cung đàn thương cảm khơi từng nốt
Thơ phú buồn hiu viết cạn dòng
Vẫn tưởng lang thang trời cố quốc
Nào hay viễn xứ mãi sầu mong
Hưng Quốc
Texas 12-13-2024




16./ MƯA CHIỀU ĐÔNG

Những giọt mưa chiều cuốn bão phong
Đều rơi tưởng tiếng nhạc ru lòng
Tình thơ phủ nhớ nhòa sân cảnh
Điệu phú giăng sầu lịm cõi đông
Bóng vạt thời gian cài thả ý
Bờ hoa kỷ niệm níu buông dòng
Còn say ký ức hương mùa cũ
Gió lạnh song buồn chứa nỗi mong
Mình Thúy Thành Nội
Tháng 12/13/2024




17./GIẠT

Xin góp họa bài hai

Bốn bốn năm dài cờ lá Phong*
Cho tôi chốn ở để yên lòng
Bidong đến trú khi đầu Hạ
Đất Mã rời đi lúc cuối Đông
Mộng Lệ Hoa là nơi tạm chuyển**
Vịnh Thần Sấm đến chỗ hoài mong***
Tóc xanh thuở đó đầu nay bạc
Gởi phận đời trôi giạt dưới dòng,
2024-12-13
Võ Ngô

* Canada

**Montreal

*** Thunder Bay



18./ CHỜ MONG.

Mây chiều giăng mắc cảnh rừng phong,
Nhìn thấy chơi vơi quặn thắt lòng.
Gió thổi lá vàng rơi lã tã...
Thu sầu tiển biệt đón mùa Đông.
Đông về băng giá đời cô lẽ,
Tản mạn mượn thơ tỏ mấy dòng.
Mười sáu năm dài trông viễn khách ,
Quay về cố quận thõa chờ mong....
Mỹ Nga
14/12/2024 AL,14/11/Giáp Thìn.




19./ CHẠNH LÒNG…

Nai nhìn ngơ ngác ở rừng phong
Xào xạc vàng khô trắc ẩn lòng
Khắc khoải tâm tư, ngày nắng hạ
Bâng khuâng tình cảm, gió mưa đông
Niềm thương lai láng, đàn giai điệu
Nỗi nhớ mênh mông, suối cạn dòng
Mùa nghỉ cuối năm, thăm xứ sở
Thỏa lòng canh cánh cứ chờ mong…
MAI XUÂN THANH
Silicone Valley December 11, 2024



20./ NGÀY VỀ

Thôi ta hãy dẹp tấm bình phong
Tâm trí cho ra thuận cõi lòng
Đất Mẹ vui tình chung cuộc sống
Đời già hứng chí cùng người đông
Ngày về bước khởi đường vang vọng
Chốn đến nằm ngơi chẳng lạc dòng
Viễn xứ tiếc gì còn vướng mộng
Tỉnh buông vạn sự thỏa chờ mong!
Hải Rừng
15/12/2024



21./ ĐIỆP KHÚC  CHIỀU THU
:
Kinh thành vẫn nét cổ rêu phong
Điệp khúc chiều thu thảng thốt lòng
Tĩnh lặng theo cùng con hẽm vắng
Sẽ sàng len lõi bến đò đông
Dòng Hương yên ắng sương là nét
Mặt nước chênh chao sóng gợn dòng
Vốn thuở ta mình thường ước hẹn
Khơi ngần kỷ niệm nhớ đồng mong …
Mai Vân-VTT, 13/12/24.

XA NGƯỜI - Thơ Nguyễn Cang

Xa Người - Nguyễn Cang

 XA NGƯỜI

 















Trời làm tháng bảy mưa ngâu

Để cho lời hứa ban đầu bay xa

Đưa tay hứng sợi nắng tà

Xanh xao ngày cũ thiết tha bấy chừ

Xa nhau từ độ tháng Tư

Thiên đàng chạm ngõ gió mưa lạnh lùng

Nàng thu khép nép ngoài song

Nửa khơi niềm nhớ nửa mong người về

Nhớ con đường nhỏ làng quê

Chim di ríu rít não nề tâm can  

Cuộc tình đứt đoạn giữa đàng

Hoàng hôn chợt tắt bàng hoàng tâm tư

Buồn lên ngọn cỏ lắc lư

Đèn khuya bấc lụn tạ từ canh thâu

Tình mình chẳng được dài lâu

Sao người vội bước qua cầu gió bay

 Mất nhau mất cả hình hài

 Trần gian một kiếp còn ai thương mình ?!!

 Nguyễn Cang ( Dec. 8, 2024)


 Mời Xem :



Rồi Em Lại Đi - Nguyễn Cang

THỞ ĐỂ CHỮA BỆNH Bs Đỗ Hồng Ngọc


 Nguyễn Khắc Viện là một bác sĩ, sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học Đại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông bị lao phổi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble. Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa như bây giờ. Từ năm 1943 đến năm 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám cái xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo, ông chỉ có thể sống chừng hai năm nữa thôi. Trong thời gian nằm chờ chết, ông đã tìm ra phương pháp… thở để tự chữa bệnh cho mình, và kết quả là ông đã sống đến tuổi 85 mới mất (1997), nghĩa là sống thêm được 50 năm nữa, hoạt động tích cực, năng nổ trong nhiều lĩnh vực. Chuyện khó tin nhưng có thật!

Tôi may mắn được quen biết ông trong nhiều năm. Với tôi, ông vừa là đồng nghiệp, là đàn anh mà cũng là người thầy. Ông là bác sĩ, đồng thời là một nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội rất nhiệt tâm. Ông là cố vấn của bộ môn tâm lý - xã hội học do tôi phụ trách tại Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TP.HCM, (nay là ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch) ngay từ hồi mới thành lập (1989). Ông thường trao đổi với tôi điều này điều khác, về công việc viết lách, giảng dạy, và nhiều lần về phương pháp “ thở dưỡng sinh ” của ông. Trao đổi không chỉ về cơ thể học, sinh lý học mà cả về tâm lý học, đạo học.

Có lần ông mở áo cho tôi xem mấy vết mổ vẫn chưa hoàn toàn liền lạc trên ngực ông. Lần khác ông lại cao hứng vén bụng bảo tôi thử đánh mạnh vào bụng ông xem sao. Tôi phục ông ốm nhom ốm nhách mà làm việc thật dẻo dai, bền bỉ, gần như không biết mệt mỏi. Trong lúc nhiều người giảng bài, nói chuyện, hội họp, làm việc… thấy uể oải, hụt hơi, thì một người chỉ còn hai phần ba lá phổi, chỉ còn gần một nửa “ dung tích sống ” như ông lại vẫn ung dung, thư thái. Ông cười “ tiết lộ ” với tôi, những buổi hội họp dông dài, vô bổ, ông chỉ ngồi… thở, nhờ vậy mà ông không bị stress, không bị mệt. Ông nói sau này khi ông mất đi, điều quan trọng ông để lại không phải là những tác phẩm văn học, triết học này nọ, mà chính là bài vè dạy thở chỉ với 12 câu của ông.

Trước kia, tôi cũng chỉ nghe để mà nghe chớ chẳng thực hành. Cho đến ngày tôi bị vố tai biến mạch máu não nặng, phải mổ sọ não rồi nằm viện dài ngày, lúc đó tôi mới thử đem ra áp dụng. Quả có điều kỳ diệu ! Nó làm cho tôi thảnh thơi hơn, ít nhọc mệt hơn và sức khỏe tốt hơn. Trong thời gian dưỡng bệnh, các bạn đồng nghiệp thương tình, cho rất nhiều thuốc, nhưng tôi chỉ chọn một vài món thực sự cần thiết, còn thì chỉ… dùng phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình. Phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thực ra không phải là cái gì hoàn toàn mới. Nó chỉ là một sự tổng hợp của khí công, thiền, yoga, dưỡng sinh… của Đông phương từ ngàn xưa, được nhìn bằng sinh lý học hô hấp hiện đại của một người thầy thuốc.

Dưới đây là bài vè 12 câu dạy thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện :

Thót bụng thở ra
Phình bụng hít vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng

Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi

Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được
Lúc nào cũng được !


Ta biết rằng khi thai nhi còn trong bụng mẹ, hai lá phổi là một khối đặc, im lìm, không hoạt động, như chiếc dù xếp chặt trên lưng vận động viên. Khi người nhảy dù tung mình ra khỏi phi cơ thì dù mới tự động bung ra, bọc gió. Đứa bé “ tung mình ” ra khỏi lòng mẹ hai lá phổi cũng bung ra như vậy do không khí tự động lùa vào, đó chính là hơi thở vào đầu tiên. Tiếng khóc chào đời lúc đó chính là hơi thở ra đầu tiên của bé chứng tỏ hệ hô hấp đã được “ lắp đặt ” xong, đã khởi động tốt, sẽ “ bảo hành ” cho đến khi… tắt thở, miễn là trong quá trình sử dụng biết “ bảo trì ” ! Cách bảo trì tốt nhất vẫn là đừng đưa bụi, khói… (thuốc lá !) vào lấp các đường hô hấp lớn nhỏ khiến ta phải thở khò khè, thở cà giựt, thở cà hước về sau… là được.

Sự hô hấp xảy ra trên từng tế bào của cơ thể chứ không phải ở hai lá phổi. Phổi thực chất là một cái bơm, bơm khí vào ra “ phình xẹp ” vậy thôi. Để cho cái máy bơm đó làm việc tốt thì cần biết một chút về “ cơ chế ” của nó. Lồng ngực là cái xy-lanh (cylindre), còn pít-tông (piston) chính là cơ hoành – một bắp cơ lớn, nằm vắt ngang giữa bụng và ngực. Khi cơ hoành thụt lên thụt xuống (như cái bể lò rèn) thì khí được hút vào đẩy ra ở phổi. Cơ hoành nhích lên nhích xuống 1 cm đã hút hoặc đẩy được 250 ml không khí. Vậy mà cơ hoành có thể nhích lên xuống đến 7 cm ! Tóm lại, chính cơ hoành ở bụng mới là cơ hô hấp chính, đảm trách hơn 80 % sự thông khí. Do đó, thở bụng là cách thở sinh lý nhất, tự nhiên nhất.

Cho nên trong bài vè tập thở ta thấy nói “ thót bụng ”, “ phình bụng ” – mà không hề nói đến ngực chút nào là vậy ! Cứ quan sát một bé đang ngủ ngon lành thì biết. Nó thở bằng bụng chớ không phải thở bằng ngực. Chỉ có cái bụng nó là phình lên xẹp xuống, đều đều, nhẹ nhàng mà thôi.

Êm, chậm, sâu, đều là chuyện không dễ. Phải từ từ mới được. Đừng nóng vội. Mới đầu tập thở bụng như vậy thế nào nó cũng khó chịu ! Khi đã quen, đã thành phản xạ thì mới ổn định được. Cứ tự nhiên. Phải mất chừng sáu tháng mới quen ! Bình thường giai đoạn thở ra bao giờ cũng dài hơn giai đoạn thở vào. Các phương pháp khí công dạy nhiều cách thở, nào hai thì, ba thì, bốn thì, nào nín hơi, ém hơi… rất phức tạp. Ta tập thở theo sinh lý hô hấp để nâng cao sức khỏe chứ không phải để luyện “ Cửu dương chân kinh ” !

Thở êm là thở không có tiếng phì phò phì phèo như kiểu tập thể dục, quơ tay, quơ chân thế thôi.

Còn thở chậm mà sâu thì lợi hơn thở nhanh mà cạn. Để ý xem, khi ta vui vẻ, bình tĩnh, ta thấy ta luôn thở nhẹ nhàng, chậm rãi, thoải mái. Còn khi ta có chuyện bực mình, căng thẳng hay sợ hãi, lo lắng… ta đều thở nhanh mà cạn, thở cà giựt, thở cà hước…!


Do vậy nếu ta tập trung chú ý vào thở bụng, theo dõi, quan sát hơi thở vào ra thế nào, ta sẽ bớt căng thẳng, và nhờ đó, hơi thở cũng sẽ chậm lại và sâu hơn.

“ Thả lỏng ” toàn thân là một yếu tố quan trọng khác. Thả lỏng là không để căng cứng, không gồng, không ráng sức. Cả thân thể đều được nghỉ ngơi, trừ cái bụng phình ra xẹp vào thôi ! Bình thường, hệ cơ bắp của ta luôn có độ căng gọi là trương lực cơ (tonus musculaire) tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Thả lỏng là buông xả, là làm cho toàn thân dịu lại. Cơ thể ta có hơn mười ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế bào thực chất là một cái túi, một loại “ sinh vật ” háo ăn, háo tiêu thụ oxy – với phản ứng gọi là oxyt hóa – để tạo ra năng lượng. Nhưng oxyt hóa càng mạnh thì càng tạo thêm các gốc tự do và các chất… bã, làm cho cơ thể mau mệt mỏi, già nua ! Giống như một thanh sắt để ngoài nắng gió một thời gian sẽ bị oxyt hóa thành rỉ sét.

Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn…! Ăn ít đi mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, nhờ đó toàn thân thấy sảng khoái.

Nhớ rằng thở bụng là thở theo sinh lý, tự nhiên, không cần phải “ tập luyện ” vất vả gì cả, không cần phải giờ giấc, tư thế gì cả ! Vì ở đâu ta cũng phải thở, lúc nào ta cũng phải thở, nên nói “ Ở đâu cũng được / Lúc nào cũng được ” là vậy.

Không nên ráng sức, gắng sức. Chỉ cần chuyên cần, kiên nhẫn để tạo thành thói quen tốt mà thôi. Ráng sức, muốn cho mau thành công thì sẽ dẫn đến… thất bạ
i vì choáng váng, chóng mặt, tê rần… Tại sao vậy ? Tại vì đã ráng sức, cố ép, thì sẽ gây rối loạn sự điều hòa tự nhiên của cơ thể. Cho nên người “ ham ” quá, ráng “ luyện công ” quá, dễ bị “ tẩu hỏa nhập ma ” ! “ Thở bụng ” không thay thế được bác sĩ. Nó chỉ góp phần để mau lành bệnh, phục hồi sức khỏe và duy trì sức khỏe, tăng cường sức đề kháng để giảm bớt bệnh hoạn. Theo dõi luồng hơi thở ra, thở vào sẽ rất tốt, giúp cho tâm được an. Lâu nay ta thở một cách phản xạ, vô thức, nếu ta thở mà có ý thức, biết mình đang thở, theo dõi sát nó thì sẽ giúp ta… quên mọi thứ chuyện khác. Nhờ vậy, tâm ta được tĩnh lặng. Tâm mà lăng xăng, dao động, nhiều ưu phiền, giận dữ… sẽ tiêu hao rất nhiều năng lượng, làm ta kiệt sức, “ thở không ra hơi ” !

Tóm lại, thở bụng sẽ giúp ta học tập hiệu quả hơn, năng suất cao hơn, sức khỏe dồi dào hơn. Thử đi.

Đỗ Hồng Ngọc


NGUỒN :  Hà Nội Tri Thức

17 thg 12, 2024

CHỬ NGHĨA LÀNG VĂN kỳ 15/12/2024 - Ngộ Không Phi Ngọc Hùng

Chữ nghĩa làng văn

 ***

 Chữ nghĩa địa danh

 Ở Tân An có rạch Châu Phê. Người ta giải thích rằng chúa Nguyễn châu phê cho Nguyễn Cửu Vân nguyên con rạch và ruộng hai bên rạch.

 Thực ra thì đó là đất của một ông Châu Phê trưởng sóc người Miên. (người Pháp phát âm là Chaufée)

 (Tự điển dân gian - Chân Diện Mục)

 Thú chơi chữ

  1. Tiểu sử Phùng Tất Đắc

 Phùng Tất Đắc (1907-2008), bút hiệu Lãng Nhân, Cố Nhi Tân và Tị Tân. Sinh quán Hà Nội. Năm 1954, di cư vào Nam. Từ 1954 đến 1975, phụ trách nhà in Kim Lai và nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư. Năm 1975, tỵ nạn tại Cambridge, Anh quốc.

Ông qua đời ngày 29-2-2008.

 Các tác phẩm đã xuất bản: Trước Đèn, Chuyện Vô Lý, Chơi Chữ, Cáo Tồn, Giai Thoại Làng Nho, Hán Văn Tinh Túy, Thơ Pháp Tuyển Dịch, Chuyện Cà Kê, Khổng Tử, Tư Mã Quang-Vương An Thạch, Nguyễn Thái Học, Tôn Thất Thuyết, Nghiêm Phục, Hương Sắc Quê Mình, Nhớ Nơi Kỳ Ngộ.

Chơi Chữ, Giai Thoại Làng Nho là hai tác phẩm được nhiều người thích đọc trước 1975.

Tư liệu tôi tham khảo để viết bài này từ sách “Chơi Chữ” do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1970.

 2. Vài trích đoạn lý thú trong sách Chơi Chữ:

 – Mở đầu tác phẩm Chơi Chữ, ông Phùng viết:

“Nghề chơi cũng lắm công phu“, huống hồ chơi… chữ!

Hai cách chơi chữ trong tiếng Việt được thấy nhiều nhất là “Nói Lái” và dùng chữ “Đồng Âm Khác Nghĩa”.

 (Nguyên Lạc)

 Chữ nghĩa biên khảo

Đồ sứ cổ men lam Huế thường hay được gọi tắt là sứ men lam Huế là sai. Ngày xưa, nước ta cũng có sản xuất đồ sành đó là đồ gốm Bát Tràng, đồ gốm Thổ Hà.

 Thực ra, khi người ta gọi đồ sứ men lam Huế, có nghĩa là đồ gốm do các quan đi sứ sang Tàu đặt làm mang về.

(Trần Nghi Hoàng – “Dòng Đời” chảy về đâu?)

 Nói lái mà chơi, nghe lái chơi

 Trong dân gian, hầu như ở miền nào cũng có nghe truyền tụng những sản phẩm nói lái, hoặc câu đố, câu đối, hò vè, thơ ca không rõ tác giả. Những câu đố sử dụng nói lái không khó giải vì thường lời giải đã có sẵn:.

 Bò la, bò liệt đố ai biết gì? - (đáp: khoai lang). 

- Con gì ở cạnh bờ sông, 
Cái mui thì nát cái cong thì còn -
(đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng) 
- Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng - (đáp: ngón chưn cái) 
Tay ông cai dài, ông cai khoanh -
(đáp: canh bí, canh khoai) 
- Ông cố ngoài Huế ông cố ai.
(đáp : cái ô ) 

(Thân Trọng Sơn)

 233 Chữ nghĩa làng văn xóm chữ

 Bây giờ, thú thật, tôi (Trần Phong Giao) không còn nhớ nổi những liên lạc lúc đầu tiên giữa Y Uyên và tôi. Có điều chắc chắn đó là, ít nhất trong giai đoạn khởi đầu, mối liên lạc bình thường giữa một thư ký toà soạn và một nhà văn trẻ có nhiều triển vọng. Một trong những chủ trương của VĂN, ngay từ những số đầu tiên, là quy tụ, hướng dẫn và khám phá những cây bút trẻ. Nếu việc "bắt liên lạc" với Thế Uyên là do anh Nguyễn Mạnh Côn, thì việc tìm tới Y Uyên hẳn do anh Võ Phiến.

 Y Uyên có mặt trong VĂN số 6, tuyển tập đầu tiên giới thiệu những cây bút trẻ. Đăng truyện Bấm đốt ngón tay, rồi tôi có gửi cho Y Uyên một lá thư. Thư này dường như làm cho anh không hài lòng, nên mãi lâu lắm về sau, tới số 16, VĂN mới lại đăng truyện Sương rơi ngoài vườn. Cùng với bưu phiếu nhuận bút, lại có một cánh thư dài của tòa soạn. Mặc dù thư được viết rất khéo léo, nhưng chắc chắn cũng đã làm cho người nhận không vui lòng. Gần tết Ất Tỵ, nhận được bài mới của Y Uyên, tôi biết là anh buồn mà không giận (truyện Vết chân thần thoại đăng trong VĂN số 28). Tới đây ghi dấu giai đoạn "căng thẳng" quan trọng mối giao tình giữa Y Uyên và tòa soạn VĂN. Những bài anh viết gửi về, liên tiếp bị chúng tôi gửi trả lại anh, kèm theo những lá thư luôn luôn thúc giục đòi hỏi nơi văn tài anh một cái gì "khác hơn thế nữa, mới hơn thế nữa".

Tôi nhớ, có một lần tôi viết gửi anh đại ý: "Cậu có cố chẻ sợi tóc ra làm tư đi chăng nữa thì giỏi lắm cậu cũng chỉ bằng được Võ Phiến là cùng; hãy viết khác đi, hãy dời bỏ những thăm dò ngược về quá khứ, hãy xông vào cuộc đời trước mặt, chất liệu truyện hãy lấy ngay từ cuộc sống thường nhật, cuộc sống của một thầy giáo dạy trường làng miền Trung đang chìm trong khói lửa”.

 (Nhớ Y Uyên – Trần Phong Giao)

Chân dung văn học nghệ thuật & văn hóa

Lịch sử hiện lên khi nhà văn Lê Tất Điều trông thấy nhà văn Võ Phiến ứa nước mắt khóc trên con tàu Challenger đậu ngoài khơi trong chuyến di tản rời bỏ quê hương không ngày trở lại. Lịch sử hiện lên với nỗi đau không ai biết của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vì mất tích đứa con trai trên đường vượt biển, và suốt thời gian sau đó ông “đã không ngừng khắc khoải trong vô vọng lần tìm tin tức và dấu vết đứa con mất tích ấy.”

 Chuyện ấy ấy được nhà thơ Thanh Tâm Tuyền gói ghém một cách tuyệt hảo trong 6 câu thơ viết năm 1988:

Như chim chao liệng chưa hừng đông

trên hoang phế cuối đêm thảm họa

buột tiếng kêu vô vọng thinh không.

Như con nước cuồng lưu mùa lũ

Trắng xóa bão gông mù mịt nguồn

Trôi giạt bến bờ đất khốn đọa.

(Trịnh Y Thư)

Gặp bác Tạ Chí Đại Trường - 1

Bẵng đi rất lâu, tôi cũng không biết gì thêm về tác giả Tạ Chí Đại Trường và những công trình mới của ông. Cho đến vài năm gần đây mạng Internet phát triển, nhớ đến tên tác giả “là lạ” tôi vào Google tìm kiếm. Thiệt là may, tôi đã tìm thấy nhiều bài viết của ông trên một số Website. Bèn copy tất cả các bài viết của ông
Năm ngòai năm kia có 2 cuốn sách của ông được xuất bản trong nước, đó là cuốn sách nói trên “Thần, người và đất Việt”, và “Lịch sử một cuộc nội chiến”. Rồi năm nay thêm một cuốn nữa “Những bài dã sử Việt”… Thế là tôi có thêm cơ hội được “gặp” ông qua các công trình nghiên cứu lịch sử rất thú vị.

Biết bác Tạ Chí Đại Trường mới về Sài Gòn, tôi đã nhờ bạn giới thiệu cho tôi được gặp bác. Bác đã tặng tôi mấy cuốn sách của bác in bên Mỹ. Được gặp và nói chuyện với bác, nghe bác kể về một số công trình  của bác  in trong nước và nhiều công trình khác, tôi hiểu rõ hơn vì sao mình lại quan tâm và thích thú như thế khi đọc những cuốn sách của ông.

Đầu tiên là giọng văn của ông: nghiêm túc, khúc chiết nhưng không hiếm khi hóm hỉnh, có khi mỉa mai khi châm chọc, có lúc “cực đoan” thậm chí  đầy vẻ định kiến khi chê/ phê một ai đó. Nhưng giọng văn ấy cũng rất “có duyên”, lôi cuốn người đọc, có khi làm cho người đọc thầm tranh luận lại. Người đọc không chán, xem đi xem lại, như trò chuyện với ông nhiều lần vậy.

Giọng văn ấy lôi cuốn còn vì người đọc thấy được “lập trường” khoa học của chính tác giả. Tôi nhận thấy những cuốn sách nghiên cứu lịch sử, sách giáo khoa lịch sử được viết hay, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc thì sẽ làm cho người đọc quan tâm, tìm hiểu và yêu thích lịch sử nói chung và sử học nói riêng.(Nguyễn Thị Hậu)

 Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 riếcriếc móc → không viết: diếc”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết “nhiếc” mới chuẩn, nhiếc móc

(Hòang Tuấn Công)

Gặp bác Tạ Chí Đại Trường - 2


Thứ hai, quan trọng hơn, đó là vấn đề tư liệu trong các công trình của ông. Ông tiếp cận các vấn đề, sự kiện lịch sử đầu tiên từ chính nguồn sử liệu vốn/ sẵn có. Và cách đơn giản nhất nhưng cũng là cơ bản và khoa học nhất là: Đọc kỹ sử liệu, không chỉ từng câu từng từ mà còn đọc trong sự liên hệ, liên kết các sự kiện, con người mà sử đã ghi chép lại. Để nhận ra, nhìn thấy những gì mà sử gia thời trước không viết ra bằng câu chữ, tức là đọc lịch sử như người cùng thời để hiểu những gì diễn ra đằng sau những câu chữ.

Như ông bảo, tất cả những “phát hiện mới” của ông đều đã được ghi chép trong ĐVSKTT cũng như trong các bộ chính sử khác. Những phát hiện “tư liệu mới” của ông làm cho nhiều vấn đề, nhân vật lịch sử trở nên sáng tỏ hơn – nhất là làm ta hiểu hơn bối cảnh xã hội của sự kiện lịch sử - cái nhìn biện chứng hơn.

Các vấn đề ông phát hiện, nêu ra liên quan đến những nhân vật, những triều đại lịch sử mà trước nay ta thường chỉ nhìn thấy mặt chủ đạo của nó. Nói cách khác là ông cho chúng ta một góc nhìn khác về lịch sử.

(Nguyễn Thị Hậu) (*)


 

(*) Nguyễn Thị Hậu sinh năm 1958 tại Hà Nội. Quê gốc xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Hiện đang ở Sài Gòn. Tiến sĩ Khảo cổ học,  Hiện là Phó tổng thư ký hội Khoa học Lịch sử VN.

 

Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 

Cuốn sách được đặt tiêu đề: Từ điển chính tả tiếng Việt (GS.TS Nguyễn Văn Khang - Đại học Quốc gia Hà Nội, dày 806 trang, khổ lớn. GS.TS Nguyễn Văn Khang hoàn toàn không “xử lí chính tả” theo tài liệu, mà “xử lí” theo cảm tính chủ quan, hoặc căn cứ theo một nguồn tài liệu nào đó, dẫn đến rất nhiều sai sót. 

  lan. → không viết: dò, giò”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết “dò” mới đúng. dò phong lan ~ dò thuỷ tiên”.

 (Hòang Tuấn Công)

Gặp bác Tạ Chí Đại Trường - 3

Thứ ba: Các công trình của ông thực sự là những công trình liên ngành: tiếp cận một vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau, từ nhiều ngành nhiều tư liệu khác nhau, để tìm ra bản chất vấn đề. Nếu những góc nhìn ấy đều đi đến bản chất của vấn đề thì kết quả nghiên cứu là đúng. Còn nếu như mỗi góc nhìn cho thấy những “bản chất” mâu thuẫn với nhau thì hoặc, phải kiểm tra lại tòan bộ tư liệu, hoặc cách đặt vấn đề của mình là sai!

Như vậy phương pháp liên ngành đòi hỏi người nghiên cứu phải thực sự khách quan khi sử dụng kết quả, phương pháp của các ngành khác, bởi vì nó có thể làm phá sản ý đồ nghiên cứu của mình. Có lẽ vì vậy mà lâu nay có những công trình nghiên cứu luôn ghi rằng “sử dụng phương pháp liên ngành” nhưng thường là chỉ sử dụng kết quả nghiên cứu nào phù hợp/ ủng hộ ý tưởng của tác giả mà né tránh, thậm chí lờ đi những gì ngược với suy nghĩ của mình.

Phương pháp liên ngành luôn đòi người nghiên cứu phải đặt những câu hỏi Tại sao, như thế nào với ngay những suy luận của mình… Trong nghiên cứu lịch sử biết đặt câu hỏi đúng là đã thành công được hơn một nửa?  Nắm vững tư liệu lịch sử đó là chiều sâu, sử dụng tài liệu liên ngành đó là chiều rộng.

(Nguyễn Thị Hậu)

 

Chữ nghĩa làng văn

 Nỗi nhớ qua một số tác giả

 Sau hơn một phần tư thế kỷ bó mình sống ở ngoài nước, người Việt chúng ta thường vẫn sống với những quá khứ đã ngày càng rời xa, với những mảnh đất con người ngày càng thay đối hoặc biến dạng, với những thân quyến bạn bè mới nhi bất hoặc đã cổ lai hy. Cũng trong thời gian đó, nhiều nhà văn đã có công ghi lại những nỗi nhớ, những quá vãng và kỷ niệm, thơ mộng hay hiện thực. Trong phần này chúng tôi ghi lại tổng quát về một số nhà văn có liên hệ mật thiết với vùng tỉnh Mỹ Tho - Bến Tre.

Chúng tôi đã có dịp nhận xét rằng sau 1975, ở hải ngoại đã có hiện tượng đặc biệt văn chương miệt vườn, vì đây là lần đầu trong lịch sử người miền Nam lục tỉnh phải bỏ nước ra đi: một văn nghệ "miệt vườn" nở rộ. Có thể nói với biến cố 30-4-1975, trong hoài niệm người miền Nam đã làm sống lại một "mảng" văn học trước đó âm thầm và bị lơ là. Miền Nam cộng hòa là của chung, nhưng người miền Nam lần đầu phải bỏ quê hương đông đảo đã thành công ghi lại quá vãng văn hóa, tình tự con người và những thú điền viên không còn nữa hay không còn hy vọng tìm lại! Võ Kỳ Điền, Kiệt Tấn, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Thị Long An, v.v.

 Nếu ở giai đoạn ngay sau 1954, văn học miền Nam ghi nhận sự đóng góp mạnh mẽ của người miền Bắc và Nghệ Tĩnh khi họ phải rời quê cha đất tổ, phải vượt tuyến lội sông hoặc băng rừng qua Lào, thì sau 1975, là thời của người miền Nam "lục tỉnh".

Nhưng vào những năm cuối thế kỷ, "mặt trận" văn chương "miệt vườn" lặng lờ hơn, người viết ít lại và ít tác phẩm hơn. Tính chất khai phóng của văn học miền Nam dần mất phần nào khía cạnh bộc phát hồn nhiên văn chương và tình ý được lăng-kính tâm và trí thức gạn lọc hơn.

(Nguyễn Vy Khanh)

 Trò chuyện cùng nhà văn Vũ Thư Hiên - 1

 

VOA: Ông vừa nói đến “thoáng”, như vậy là các nhà văn bên trong Việt Nam hiện nay không còn “biết sợ” giống như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói trước đây.

 

VTH: Tôi nghĩ là cái sợ nó cũng bớt đi rồi. Nó bớt cũng là do tình thế. Ngày xưa cái cấm kỵ nó nhiều hơn, cái sợ nó nhiều hơn. Bây giờ cấm kỵ giảm đi thì cái sợ cũng bớt đi. Nhưng vẫn có những cái phải sợ, bởi vì nếu mà không cẩn thận sẽ gặp phiền phức, mặc dù Việt Nam đã có những cố gắng để hội nhập với thế giới, tức là chịu khó từ bỏ hành động toàn trị mà trước kia vốn thuộc bản chất của chế độ xã hội ấy.

 

Thí dụ trước kia chỉ cần nói hơi một tí cũng đủ để bỏ người ta vào tù, cho người ta một lệnh tập trung 3 năm, sau đó 3 năm nữa, rồi 3 năm nữa, không biết bao giờ mới ra. Bây giờ người ta cố gắng làm nó khác đi. Và có lẽ theo quán tính thì sự sợ hãi vẫn còn, nó vẫn còn sống dai dẳng. Vì vậy cho nên con đường dân tộc Việt Nam đi đến chỗ khá hơn, tức là bứt phá khỏi vòng vây của những tư tưởng cổ hủ và sai trái để phóng lên con đường cùng với nhân loại, xem ra cũng còn nhiều gian nan lắm.

 

VOA: Nếu ông nói rằng vẫn còn sợ thì chúng ta đã thấy các phát biểu của Trần Mạnh Hảo; các hồi ký của Trần Vàng Sao hoặc Tiêu Dao Bảo Cự, thì họ đâu có sợ gì đâu.

 

VTH: Cái đó nó cũng nằm trong cái chung thôi. Ví dụ như trước đây không người nào dám nói như anh Trần Mạnh Hảo, anh Tiêu Dao Bảo Cự ; thì bây giờ không phải một người mà có nhiều người nói. Số đông bao giờ cũng cho người ta cái cảm giác bớt sợ hãi, tất nhiên những người đi tiên phong thì phải gánh chịu những cái khó khăn hơn. 


Đặc biệt là gần đây có những người từng giữ những chức vụ khá trong cơ quan đảng hoặc nhà nước, ví dụ như ông Nguyễn Trung, từng là đại sứ, ông ta viết tôi thấy cũng nặng nề lắm. Ông viết: đảng cộng sản cứ nắm chặt con tàu Việt Nam, còn đảng viên đảng cộng sản Việt Nam thì cứ giữ chặt những cái ghế trên con tàu ấy, mà con tàu này thì đi theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, mà đảng cộng sản chưa nói rõ Xã Hội Chủ Nghĩa nó là cái gì.

(VOA phỏng vấn Vũ Thư Hiên)

 

Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 “rỏ = nhỏ: nhỏ rãi”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết “nhỏ dãi” mới đúng. “Về đến nhà, con bé khóc hết hơi. Con lớn thì lem luốc, mũi dãi (…) bôi đầy mặt.” (Nam Cao)”.

 (Hòang Tuấn Công)

 

Trò chuyện cùng nhà văn Vũ Thư Hiên - 2

 

VOA: Một số người nói rằng, so với thời phải ăn bo bo trước đây thì bây giờ đã khá hơn nhiều rồi. Là một nhà văn, ông nghĩ sao về luận điểm này.

 

VTH: Tôi cho là đúng. Khá nhiều chứ, nó xảy ra với bất kỳ một nước nào, chứ không riêng Việt Nam, như là một hiện tượng thần kỳ, không có đâu. Còn nếu nói rằng bây giờ khác trước, thì chỉ có những cán bộ tuyên huấn mới nói đấy là thành tích do đảng cộng sản tạo ra, chứ còn người dân bình thường người ta thấy hết chiến tranh thì người ta phải làm, phải sống, và sống khá hơn trước. Nhưng bây giờ, đáng chú ý là nếu như có cái gì đó, do đảng cộng sản tạo ra thì đó là sự phân biệt giàu nghèo, sự chênh lệch kinh khủng hiện nay. Ta thử tính xem, một thằng cha nó cá độ đến 1 triệu 8 đôla, báo trong nước đăng rồi, thì thử hỏi một nông dân cần cù phải nhịn ăn bao nhiêu năm và bao nhiêu thế hệ nữa mới chơi được một lần cá cược như anh kia.

 

VOA: Có những tác phẩm văn học mà sau khi đọc xong, chúng ta có thể gọi là tiếng kêu của loài chim báo bão. Việt Nam đã có một tác phẩm nào báo bão hay chưa, thưa ông?

 

VTH: Chưa có tác phẩm nào có tính chất báo bão cả. Việt Nam chúng ta có cái đặc biệt là chẳng bao giờ ở cái mắt bão trên đất nước chúng ta cả. Chúng ta toàn chịu những cơn bão rớt thôi. Bão ở vùng biển Đông và nó rớt vào vùng này vùng kia ở nước ta. Những chấn động thế giới sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam rất nhiều, và nếu người Việt Nam không mau mắn để chọn con đường đi của mình, cứ chờ đợi một chấn động từ bên ngoài, thì đất nước mình sẽ chậm chạp lắm. Nếu có một con chim báo bão nào thì nó phải báo to điều đó.

 (VOA phỏng vấn Vũ Thư Hiên)

 

Vài hàng về tác giả Vũ Thư Hiên



Vũ Thư Hiên (18 tháng 10 năm 1933). Ông là con trai của Vũ Đình Huỳnh, bí thư của ông Hồ. Ông Vũ Đình Huỳnh trong thời gian dài, sau làm vụ trưởng vụ lễ tân bộ Ngoại giao, vụ trưởng trong ban kiểm tra trung ương đảng.

 

Ông Vũ Thư Hiên là một trong những nhân vật của Vụ án xét lại chốngng đảng. Năm 1997, hồi ký Đêm giữa ban ngày của ông được xuất bản. Từ năm 1967 đến 1976, trong Vụ án xét lại chốngng đảng, ông bị chính quyền bí mật bắt và giam cầm sau khi đã bắt cha ông (Vũ Ðình Huỳnh) 2 tháng trước đó. Công an chìm bắt giữ ông lên ôtô và đưa về nhà tù Hỏa Lò ngay trong lúc ông đang đạp xe trên phố Hà Nội.

Ông bị giam 9 năm, trong đó bị giam trong xà lim cá nhân bốn năm rưỡi, qua các nhà tù Hỏa Lò, Bất Bạt (Sơn Tây) và Tân Lập (Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Chính quyền thả ông không án cũng như không xét xử. Ra tù năm 1976, nhưng còn bị quản thúc bằng lệnh miệng của nhà cầm quyền mãi cho tới mùa thu năm 1980 mới được phép vào Nam.

 

Năm 1993, ông qua Nga với tư cách phiên dịch cho công ty xuất nhập khẩu Vũng Tàu-Côn Đảo. Tại đây ông bắt đầu viết cuốn hồi ký Đêm giữa ban ngày về chín năm bị giam cầm.

Cuối năm 1995, ở Nga, sau một vụ tấn công dàn dựng của mật vụ VN, ông thấy không thể ở Moskva lâu hơn nữa, nên tìm cách qua Ba Lan. Ðến cuối năm 1996, sau một chuyến đi Paris, trở về Ba Lan ông được mật báo về tình hình nguy hiểm có thể xảy ra cho ông nếu nấn ná ở lại nước này để hoàn thành cuốn hồi ký. Do đó ông quyết định qua tỵ nạn tại Pháp. Tại đây, ông đã hoàn thành tập hồi ký Đêm giữa ban ngày.

 

Ông ở Strassbourg (Pháp) 1 năm, Bern (Thuỵ Sĩ) 1 năm, Đức 2 năm (2000-2001) sau khi đến Pháp theo lời mời của International Parliament of Writers, German PEN Club và Uỷ ban Nhân quyền thành phố Nuremberg (Nurnberg)." 

 

Những tác phẩm của ông đã xuất bản khi còn ở Việt Nam:

1.   Lối thoát (kịch, 1954)

2.   Bông hồng vàng (dịch của tác giả Paustovsky, 1960)

3.   Truyện ngắn Paustovsky (dịch, 1962)

4.   Luật rừng (truyện, in chung, 1985)

5.   Khúc quân hành lặng lẽ (truyện nhiều tập, 1985-1989)

6.   Luật rừng (kịch bản, 1988)

7.   Miền thơ ấu (tiểu thuyết); và một số kịch bản điện ảnh.

 Bánh đúc lạc

 Để đến khi nguội, bánh đúc phải giòn như bì lợn luộc, dùng dao cắt hoặc bẻ ăn không dính tay, không nồng vôi, bánh có độ mặn, mịn và bóng mới đạt yêu cầu.

Khi ăn, bánh đúc có vị giòn, mát, mịn, không béo. Cứ nghĩ đến tấm bánh đúc nhàn nhạt, mềm mượt chấm vào cái vị ngọt thanh, bùi béo của những giọt tương màu vàng sậm tạo cho người thưởng thức một cảm nhận rõ cái độ mát của bột gạo, vị ngòn ngọt, thanh thanh của tương, bùi bùi, thơm và béo của lạc rang.

(Tuệ Phong)

 Sống, mái

 Người Bắc gọi gà trống là gà sống.

sống là chồng gà mái.

Vậy mà “một trận sống mái” lại có nghĩa khác là “một mất, một còn”. Chứng tỏ ở đâu có “sống mái” là có…“một mất một còn”.

 (Nguyễn Hữu Nhật – Tiếng Việt hay quá)

 Chữ nghĩa làng văn

 Cái Hay cái Dở ở thơ Bùi Giáng - 2

 Thưởng thức thơ, bất nhất như với ẩm thực. Vì "mùi sầu riêng" ở thơ Bùi Giáng mà sinh tranh cãi – đó là điều dễ hiểu. Như, trong bài Tặng Quán phở Huyền Trân:

Hai cô bán phở dịu dàng 
Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta 
Trẫm từ lịch kiếp phôi pha 
(…) 
Tuỳ thời thể dựng mà tuy nhiên là 

Khi mà Nguyễn Hưng Quốc ngạc nhiên "Ai cũng thấy rõ
hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy",

 (Đỗ Quyên)

 Nguyễn Hưng Quốc: Trường hợp Bùi Giáng

 Tình dục trong làng văn xóm chữ

          Hà Hương phong nguyệt truyện 

(tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của miền Nam)

 Trong quá trình nghiên cứu văn học quốc ngữ miền Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có một ý kiến của nhà nghiên cứu Bằng Giang trong công trình Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930 khiến chúng tôi đặc biệt lưu ý: “Còn tiểu thuyết chỉ bắt đầu với Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu đăng báo năm 1912 và in thành sách năm 1915”.

Nhà văn miền Nam Bình Nguyên Lộc trong cuộc phỏng vấn trên The Vietnam Forum số 13/1990 lúc sang Mỹ định cư cũng cho biết: "Cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên tôi đọc là một cuốn sách mà thoạt đầu cha tôi cấm không cho đọc vì cho là dâm thư, đó là cuốn Hà Hương phong nguyệt truyện của Lê Hoằng Mưu. Cuốn này được xuất bản vào khoảng năm 1917, và tôi tin đó cũng là cuốn tiểu thuyết được xuất bản đầu tiên của Việt Nam”.

Thái Bạch trong “Truyền thống bất khuất của văn nghệ miền Nam” in trên Tin Văn số 12 ngày 9.6.1967 vẫn còn nhớ đến cuộc bút chiến quanh tác phẩm này. Ông Vũ Anh Tuấn, Chủ nhiệm Sách Xưa & Nay trong Hồi ký 60 năm chơi sách cho biết có người đã từng yêu cầu ông “làm bất cứ cách nào” và mua hộ “bằng bất cứ giá nào” quyển sách này của Lê Hoằng Mưu.

(Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học – Võ Văn Nhơn)

 

Giai thoại bài thơ "Tương tư" 

Ông Nguyễn Công Trứ (1778-1859), đỗ Giải nguyên, làm quan trải ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Ông có tài thơ văn, đặc biệt sở trường về lối ca trù. Ông là một trong những thi nhân có nhiều giai thoại văn chương.

Dưới đây là một trong những giai thoại rất mực phong lưu. 

Thuở thiếu thời, lúc còn là học trò nghèo, ông đã rất thích nghe hát ả đào. Gần miền có một ả đào tên Hiệu Thư nhan sắc xinh đẹp lại nổi tiếng hát hay, nhưng tính nết kiêu kỳ. Chưa ai thưởng thức được giọng hát lời ca của cô ta. Ông muốn gần mà không thể gần được, bèn nghĩ ra một kế là đến xin theo Hiệu Thư làm kép. Đàn đáy ông rất hay, mỗi khi Hiệu Thư đi hát đình đám, ông thường cùng một tiểu đồng quảy gánh mang đàn theo sau. 


Một hôm có đám ở huyện bên mời Hiệu Thư sang hát, ông cố ý để quên dây đàn ở nhà. Đi được vài dặm đến chỗ đồng không quãng vắng,ông giả vờ luống cuống. Hiệu Thư gạn gỏi, ông nói: "Vội vàng bỏ quên dây đàn ở nhà, bây giờ biết làm thế nào? " 
Hiệu Thư sai tiểu đồng chạy trở về lấy. Lúc ấy bốn bề vắng vẻ, chỉ còn hai người, ông liền đến ôm lấy, Hiệu Thư chỉ kêu ứ hự. Sau lần đó, ông bỏ đi không trở lại nữa. 

10 năm sau, ông làm Tổng đốc Hải Dương, ông mở tiệc ăn mừng, cho tìm ả đào danh ca các nơi về hát. Tình cờ Hiệu Thư lại ở trong đám ca nhi ấy. Ngồi vào chiếu hát, nàng liếc nhìn thấy ông quan trang nghiêm đang cầm roi chầu ngồi trên sập kia chính là anh kép đàn năm xưa đã trêu ghẹo mình ở chỗ đồng không quãng vắng, liền bắt đầu bài hát nói bằng hai câu mưỡu rằng : 
Giang sơn một gánh giữa đồng, 
Thuyền quyên ứ hự… anh hùng nhớ chăng? 


Ông nghe hát sực nhớ chuyện cũ, liền ngừng tay trống hỏi: 
- À , té ra cố nhân đó ư?

Rồi ông đọc luôn một bài thơ rằng: 
Liếc trông giá đáng mấy mười mươi, 
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười. 
Trăng xế nhưng mà cung chưa khuyết, 
Hoa tàn song lại nhụy còn tươi. 
Chia đời duyên nọ đà hơn một, 
Mà nét xuân kia vẹn cả mười. 
Vì chút tình duyên nên đằm thắm, 
Khéo làm cho bận khách làng chơi.
 

Ông hỏi ra mới biết nàng vẫn còn chờ đợi, không chịu lấy ai, liền cưới làm tiểu thiếp. Ông có nhiều vợ, mà đối với vợ nào cũng tỏ ra nặng tình. Tuy nhiên, Hiệu Thư vẫn là người được ông yêu thương thắm thiết hơn cả. Sau đó ít lâu, ông phụng chỉ đem quân dẹp giặc ở vùng Tuyên Quang, Cao Bằng, xông pha nơi lâm sơn chướng khí. Những khi việc quân nhàn hạ, chạnh thương ai phòng không chiếc bóng, vò võ năm canh, ông làm bài thơ "
Tương tư" theo lối "thủ vĩ ngâm" rồi cho người mang về : 
Tương tư khôn biết cái làm sao? 
Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào! 
Khi đứng khi ngồi khi nói chuyện 
Lúc say lúc tỉnh lúc chiêm bao 
Trăng soi trước mặt, ngờ chân bước 
Gió thổi bên tai, tưởng miệng chào 
Một nước một non, người một ngả 
Tương tư khôn biết cái làm sao? 

 Để nhớ lại một thời

Xích lô một thủa

Nói về chuyện cạnh tranh giữa xích lô đạp và xích lô máy, thằng bạn thân của tôi rất rành. Ba của hắn chạy xích lô máy vào thuở chúng tôi còn chưa ra đời. Vào những năm cuối thập niên 50, giá một chiếc xe xích lô máy khoảng tám cây vàng.


Hình ảnh xe Triporteur hiệu Peugeot

năm 1950 tại Pháp trước khi chế tác

lại làm xe xích lô máy  

 

Bạn kể, nghe đâu xích lô máy của ba bạn là loại xe được chế tác lại từ kiểu xe nguyên thủy mới nhất của xe Triporteur Peugeot hai thì chạy bằng xăng pha nhớt, sản xuất tại Pháp. Loại xe này nguyên là xe chở hàng hóa nông sản từ các vùng nông thôn đến các chợ hoặc siêu thị bên Pháp. Hình dáng của nó gần giống xe ba gác máy chở hàng.

 Dàn phía sau là của xe Triporteur, còn dàn phía trước rập khuôn xích lô đạp nên gọi là xích lô máy.

 (TN baotreonline)

 Những ngôi chùa Bắc

 Chùa Láng 

 Nhớ ngày mồng bảy tháng ba

Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.

Theo tài liệu của Nguyễn Đổng Chi thì sự tích về chùa Láng có liên quan với những truyền thuyết của vị thiền sư Từ Đạo Hạnh đời nhà Lý.  Ông là một vị cao tăng thời vua Lý Nhân Tông. Tục danh của ông là Từ Lộ.

Chùa Láng còn có tên là Chiêu Thiền Tự. Mỗi năm đến ngày mồng 7 tháng ba âm lịch, cũng là ngày sinh của Từ Đạo Hạnh, dân chúng trong vùng mở hội chùa Láng. Hiện nay, chùa Láng tọa lạc cách Hà Nội chừng bảy cây số về hướng tây. Trong giai đoạn sơ khởi chùa nầy tọa lạc trên một cảnh trí trang nghiêm, phong quang: chùa ở một ngọn đồi nhỏ giữa cánh đồng rộng bát ngát; chung quanh chùa có nhiều cây cổ thụ.


Cổng tam quan của chùa Láng  theo kiểu cung điện  của mô thức kiến trúc của cổng vương phủ triều Nguyễn: phía trước có một dãy hàng cột trụ biểu, xây bằng gạch có gắn những mãnh sành sứ. Cổng có ba mái cong lên, theo kiểu cấu trúc Maya của nghệ thuật Chiêm Thành trước đây.  

 

Sân chùa được lót bằng gạch Bát Tràng, nối liền cổng chùa và cửa tam quan. Chùa chính bao gồm: Tiền đường, toà Thiên hương, thượng điện, nhà thờ Tổ, tăng phòng.

Chùa Láng được xem là đệ nhất tùng lâm trong kinh thành.

 (Kiêm Thêm)

 Huyền thoại về cây gạo cổ

 

Sân đình làng tôi có cây gạo cổ đứng bên cống hànhmã, cùng soi bóng xuống hồ nước xanh, trông bề thế và lung linh màu huyền thoại. Không ai biết cây gạo đã có bao nhiêu năm, ngay cả ông nội tôi cũng bảo rằng: thời ông còn bé cây gạo đã như thế.

  Dáng cây sừng sững, to đến mấy người ôm, những u bướu xù xì, lồi lõm. Cành lá ngang tàng  che mát cả một vùng. Dù ai đi buôn, đi bán trăm nghề, đi tha phương cầu thực đâu đâu, khi trở về quê, mới đến bến đò bên kia sông, nhìn thấy bóng cây gạo đã thấy ấm lòng. Tháng ba, hoa gạo nở bung ra, đỏ thắm, chói lọi, rực rỡ như những quầng lửa thắp sáng niềm tin ở chốn quê nghèo. Những đàn chim khách, sáo sậu, liếu điếu về cây làm tổ, hót ríu ran, thả những bông hoa năm cánh đỏ chói xuống sân đình.

 (Vô danh thị)


Địa danh Sài Gòn và huyền thọai


 Được sự trợ giúp của chúa Nguyễn, hai lần quân Xiêm (1621 và 1623) bị đẩy lui. Sau sự việc này, chúa Nguyễn xin vua Chân Lạp cho phép dân Việt đến khai khẩn đất đai trong vùng đất Kampong Krabei tên Việt là Bến Nghé.

Theo Petrus Ký: Bến Nghé từ tiếng Khmer là Kampong Krabei (hay Prei Kor) với nghĩa vũng trâu hay bến trâu

Theo Vương Hồng Sển: Tiếng Khmer thì Kor là gòn mà cũng có nghĩa là bò. Vậy Prei Kor là…rừng bò chứ chưa hẳn là rừng gòn.

 Năm 1777, quân Tây Sơn đánh Cù Lao Phố, người Hoa kéo nhau về “Sài Gòn” (sau này gọi là Chợ Lớn) lập thành phố khác. Crawford (người Anh) cho hay “Bến Nghé” và “Sài Gòn” (Chợ Lớn) là 2 thành phố khác biệt, cách nhau độ 1, 2 dặm. Bến Nghé là đồn binh, “Sài Gòn” (Chợ Lớn) là phố buôn bán của người Hoa

Do từ Bến Nghé khó phát âm đối với người Pháp hơn là từ “Sài Gòn”. Nên người Pháp gọi Bến Nghé là Sài Gòn.

Vì vậy Bến Nghé xưa kia là Sài Gòn sau này.

Bến Nghé là một khúc sông Sài Gòn (từ cầu Khánh Hội đến cầu Chữ Y) chảy qua Sài Gòn hợp với sông Đồng Nai ở Nhà Be đổ ra biển Đông.

(Bến Nghé năm xưa)

Kênh Chợ Vải (kênh Lớn) và đường Nguyễn Huệ nhìn từ phía sông Sài Gòn vào phía Tòa Thị chính (lúc này chưa xây) và cũng chưa có Nhà thờ Đức Bà (khởi công 1877, hoàn thành 1880).

 Khởi thủy đường Nguyễn Huệ là 1 con kênh dẫn vào thành Gia Định (còn gọi Thành Bát Quái 1790-1835). Người Pháp gọi là kênh Grand, người Việt gọi là kênh Chợ Vải.

(Trần Văn Miêng)

 Pham Duy,ông là ai ? -1

Câu chuyện điện thoại với ông Lê Hữu Mục để lại trong tôi một ấn tượng khá nặng nề, kéo dài suốt nhiều tháng ngày kế tiếp. Đúng, Phạm Duy là một khuôn mặt nổi của nền ca hát Việt Nam từ thời Kháng Chiến chống Pháp trở lại đây. Nhưng có một điều đúng hơn mà ít người biết: "Kể riêng về mặt âm nhạc, Phạm Duy không thật sự lớn như quần chúng đã ưu ái suy tôn ông."

 

Tôi là một được người sinh ra và lớn lên trong cái nôi âm nhạc truyền thống của gia đình. Tôi tốt nghiệp violon nhạc cổ điển Tây Phương trường Quốc Gia Âm Nhạc Sàigòn năm 1967, dưới quyền giám đốc của ông Nguyễn Phụng, trực thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa thời ông Mai Thọ Truyền. Từ đó đến nay, tôi vẫn tiếp tục học và nghiên cứu âm nhạc qua nhiều hình thức và với nhiều vị giáo sư khác nhau, từ Việt Nam đến Âu Châu. Trên lãnh vực âm nhạc, được giao tiếp với nhiều người tài giỏi, nhìn lại ông Phạm Duy, tôi không cho rằng ông xứng đáng với ba chữ “khuôn mặt lớn” của nền ca hát Việt Nam.

(Trần Thị Bông Giấy)

 

Tiểu sử : Trần Thị Bông Giấy tên thật Trần Thị Thu Vân . Chào đời tại Huế, lớn lên tại Sài Gòn. Hiện đang ở San José, Californie.

Tác phẩm : Nước chảy qua cầu, Một truyện dài không có tên, Nhật nguyệt buồn như nhau, Đi tìm thời gian đã mất, Dostoievski, cuộc đời và sự nghiệp

 Phạm Duy, ông là ai ? - 2


Một nhạc sĩ sáng tác lớn phải hội đủ những điều kiện sau:
1/ Thông Suốt Ký Âm Pháp.
Trong nhạc Đông Phương, nói về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã viết: "Cung, Thương làu bậc ngũ âm", thì phía nhạc Tây Phương, Mozart, Beethoven, Schubert... khi viết các symphonie, concerto, opéra, và nhiều thể loại khác, đã chứng tỏ được sự siêu đẳng của mình trên phần ký âm pháp.

 

Cá nhân Phạm Duy cho thấy không có được trình độ như vậy. Sáng tác của ông chỉ quanh đi quẩn lại là các ca khúc rất đơn giản, âm sắc bình thường, bài nào cũng giống nhau một cách đơn điệu nhàm chán. Phần kỹ thuật chẳng đưa ra được tính phá cách cần thiết trong nghệ thuật sáng tạo. Nói cho đúng, ca khúc của ông thành công là do thinh điệu phong phú của tiếng Việt, hay do sự đẩy đưa ngân nga trong cách trình bày của ca sĩ. Nếu che đi hết phần lời trong các ca khúc, chỉ tấu lên phần mélodie bằng âm thanh một nhạc khí nào đó, người ta sẽ dễ dàng nhận ra sự nghèo nàn trong âm nhạc Phạm Duy.

2/ Điêu Luyện Nhạc Khí.

Trong khi Thúy Kiều của Nguyễn Du "Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương", thì các soạn nhạc gia quốc tế, từ cổ sang kim, từ Beethoven, Chopin, Mozart, Schubert.... đến John Lennon, Nat King Cole, Ray Charles... đều là những tay instrumentiste chuyên nghiệp, mỗi người có thể sử dụng vững vàng từ một đến hai, ba thứ nhạc khí. Riêng Phạm Duy, thử hỏi ông thông làu được nhạc khí nào, nếu không chỉ là các hợp âm guitare loại "son đố mì" ông có từ thời còn làm nghề hát dạo? Hơn nữa là vài ngón dương cầm võ vẽ học lóm được trong một lớp dự thính tại Conservatoire de Paris nhờ sự quen biết của ông anh Phạm Duy Khiêm gửi gấm, ông mới được có mặt? Dạo về sau ông cũng biết sử dụng chút ít keyboard, loại nhạc khí thời trang mà mọi phần hòa âm phối khí trên ấy (viết ra và ghi lại từ tài năng kẻ khác) đều đã được lắp ráp sẵn?

(Trần Thị Bông Giấy)

 Đám ma Lý Toét 

Nằm dúm trên giường, Lý Toét mở thao láo hai mắt nhìn lên đình màn. Người khô đét như con mắm, tuy đắp chăn mà các đầu xương vẫn hằn ra ngoài, mặt võ vàng, gò má lồi ra, hai mắt sâu thành to thêm. Tóc hai bên thái dương lốm đốm bạc và rụng dần, búi tóc chỉ còn bằng củ hành to.

 Đầu giường có vài chiếc bát không, cơ chừng bát uống thuốc; một đĩa mía tiện sẵn, toàn khẩu nạc, mấy quả cam, táo. Cô Ba Vành hết lòng săn sóc bố, nhưng nào bố có ăn được! Hai con mắt vẫn tỉnh lắm, rất tinh nhanh. Có lúc râu mép vểnh lên, mấp máy. Khi mệt yếu quá, Lý Toét rên khừ khừ hay thở dài những tiếng thực mạnh, làm Xã Xệ giật mình chạy lại. Lý Toét nhìn Xã Xệ, dáng tức tối, có lẽ vì Xã Xệ đang uống rượu gian bên.

Trong nhà im lặng. Ai nấy đi lại rón rén, không động mạnh guốc. Cạnh chân giường Lý Toét, mấy cái củi gộc lom dom trong chiếc bếp kê tạm để hâm thuốc, và để cho ấm nhà. Thỉnh thỏang Xã Xệ đến cạnh bếp, cúi lom khom cời lửa. ánh sáng chiếu vào cái đầu mập lù, bóng nhoáng. Cô Ba Vành ngồi trong buồng khâu vội mấy chiếc áo trắng. Bà Lý bận cơm nước, thằng Toe vẫn đi chơi với trẻ. Hai con chó, con Vàng và con Vện, nằm ép dưới gầm cũi, chẳng buồn cắn những người tới hỏi thăm.

 (Đỗ Đức Thu)

Nút đố đổ vách

Đố là đoạn tre hay đoạn gỗ ở bức vách để đan nan. Nút đố đổ vách  là của cải chất nhiều trong nhà đến nỗi cái đố bị nứt ra, vách nhà bị đổ. Nghĩa là giầu lắm.

Cũng có nới nói giầu nứt đấu đổ vách. Đấu là vật dụng để đong thóc hay gạo. Nứt đấu là nhiều thóc gạo đến độ đong nứt đấu ra.

 Thưng là 1/10 cái đấu, do chữ thăng đọc trạnh ra

Thưng đấu nhờ tay một mẹ mày

(Trần Tế Xương)

Là chuyện buôn bán, chạy gạo thì phải nhờ vợ.

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)

Nhà thơ Trần Đăng Khoa lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ

 Cũng theo ông Nguyễn Vỹ, bài thơ nổi tiếng này đã được hai nhà thơ Pháp dịch sang tiếng Pháp. Bản của nhà thơ Michen Revon in trong cuốn Anthologie des poètes japonais – (Ed. Hachette), nguyên văn như sau:

Combien triste est l’ automme

Quand j’ entends la voix

Du serf qui brame

En foulant et dispersant les feuilles des érables

Dans les profondeurs de la Montagne

(Mùa thu buồn làm sao

Khi tôi nghe tiếng

Của con hươu đực thé lên

(rền rĩ, kêu trong mùa giao phối)

Trong những nơi sâu thẳm của núi).

 (Trần Đăng Khoa)

 Hồn Sài Gòn trong từng món đồ cũ


Nguồn: Diễn Đàn Thế Kỷ, Jan 22, 2012)

 Trịnh Cung tên thật Nguyễn Văn Liễu, sinh năm 1939 tại Nha Trang. Năm 1963: Vào quân đội, là SQ huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Thủ Đức. Năm 1975: Bị tù 3 năm, không vẽ 11 năm. Năm 1963: Bức tranh “Người Ngồi” của ông được chọn gửi đi dự giải “Triển Lãm Lưỡng Niên Paris 1963”. Năm 1958, bài thơ "Cuối cùng cho một tình yêu", nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phổ thành nhạc phẩm cùng tên. Năm 1966: Tham gia Hội Họa Sĩ Trẻ với chức vụ là Tổng Thư Ký. Năm 2013: Định cư tại California.

 ***

Phụ đính I

 40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn

nhà thơ đã khuất núi

(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn

Tổng hợp từ nhiều nguồn)


 
Thảo Trường 

(1936-2010)

Nhà văn Thảo Trường tên thật Trần Duy Hinh, sinh ngày 25-12-1936 tại Nam Định trong một gia đình đông con, ông là người thứ chín. Thân phụ ông mất sớm, năm 1954 ông di cư vào Nam để lại mẹ và người chị ở quê nhà lo phụng dưỡng ông nội và coi sóc mồ mả tổ tiên. Nhưng sau đó, mẹ ông bị đấu tố, bị tịch thu hết nhà cửa ruộng vườn, phải ra ở ngoài gò đất giữa cánh đồng nước mênh mông. Vào Nam, nhà văn Thảo Trường gia nhập quân đội theo học khóa 6 Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, và chính thức viết văn.

Truyện ngắn “Hương gió lướt đi” là tác phẩm đầu tiên của ông đăng trên tạp chí Sáng Tạo do nhà văn Mai Thảo làm chủ bút. Ngày 30/4/1975 ông đi tù gần 17 năm, trải qua 18 nơi giam giữ. Sau khi ra tù một năm, ông sang Mỹ đoàn tụ với vợ con. Ông đã qua đời tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ, ngày 26-8-2010 vì bệnh ung thư gan, thọ 74 tuổi

Các tác phẩm đã xuất bản gồm:

Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp (1966), Vuốt Mắt (1969), Bên Đường Rầy Xe Lửa (1971), Người Khách Lạ Trên Quê Hương (1972), Hà-nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng (1973) , Cát (1974), Đá Mục (1998), Tầm Xa Cũ Bắn Hiệu Quả (1999), Miểng (2005), Những miểng vụn của tiểu thuyết (2008).

***

 Phụ đính II

Chữ nghĩa làng văn

Học giả Hoàng Văn Chí

 Ông Hoàng Văn Chí sinh ngày 1-10-1913 tại Thanh Hóa; khi ra Hà Nội học Albert Sarraut (1928-1935), và đậu cử nhân Khoa Học tại Ðại Học Ðông Dương (1940). Bút hiệu Mạc Ðịnh. Năm 1940 kết hôn với bà Lê Hằng Phấn, ái nữ Sở Cuồng Lê Dư.

 Tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp từ 1946, chính thức hoạt động với chính quyền Việt Minh (1949-53) với tư cách chuyên viên phụ trách đúc tiền, làm giấy in bạc, chế tạo hóa chất cho quốc phòng. Năm 1954 ông bỏ kháng chiến trở về thành.

 Sau năm 54, ông di cư vào Nam (1955). Qua Âu Châu lưu trú tại Pháp (1960-65) bắt đầu viết sách và hoạt động văn hóa. Tác giả cuốn “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc”. Tác giả từ trần ngày 6-7-1988 tại Maryland Hoa Kỳ, thọ 75 tuổi.

  (Người phát giác vụ “Nhân Văn - Giai Phẩm” – Viên Linh)