8 thg 8, 2023

Tiễn Biệt Thầy Cù An Hưng ( Lý Đợi, Trần Tiến Dũng)

TẠM BIỆT THẦY CÙ AN HƯNG

Lý Đợi

Cù An Hưng (1940, Nam Định - 3/8/2023, TP.SAIGON) là thầy dạy toán nổi tiếng, với nhiều thế hệ học trò định danh được với toán học.

Với nhiều người dân cư xá Lữ Gia, thầy là người giỏi chơi cờ tướng, đánh trận rất sảng khoái. Với giới làm thơ, thầy là tín đồ của thơ, say sưa dịch thơ. Và dịch rất hay.Thầy có thể dịch thơ từ tiếng Pháp, tiếng Anh và cả chữ Hán, có thể tra cứu được chữ Nôm.Tôi và Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán chưa học thầy giờ nào, nhưng lúc nào cũng xưng thầy trò.

Thời chưa thịnh Internet, chúng tôi thường lui tới tiệm bán báo của vợ chồng thi sĩ Trần Tiến Dũng, cứ vài buổi sáng thì thầy Hưng ra chơi, để bàn về thơ và thi pháp. Những khuynh hướng thơ lạ, những tác giả mới được thầy giới thiệu tìm đọc, hoặc dịch cho đọc. Những đàn anh của chúng tôi như Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Viện, Lê Thiện Dũng, Vũ Ngọc Giao, Phạm Viêm Phương, Bùi Chí Vinh, Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng, Thận Nhiên… (còn nhiều người nữa) thường dành cho thầy sự trân quý rõ rệt.

Nay thầy đi xa. Xin in lại vài thơ của Bắc Đảo (北島 / Bei Dao), trong tập thơ “The August sleepwalker” do Bonnie S. Mac Dougall dịch tiếng Anh, để thấy trình dịch thơ tiếng Việt tầm cao của thầy.

NGÀY MAI. KHÔNG

Đâu có chuyện từ biệt

Vì chúng ta chưa từng quen

Dù bóng và bóng

Chồng nhau trên phố

Như kẻ bị án tù trên đường trốn chạy

Ngày mai. Không

Ngày mai đâu phải phía kia của đêm

Ai nuôi hy vọng ắt thành tội phạm

Cứ để chuyện xảy ra trong đêm

Kết thúc trong đêm.

ĐI THÔI

Đi thôi –

Lá lìa cành ùa xuống lũng sâu

Nhưng khúc ca không chỗ trở về

Đi thôi –

Ánh trăng trên băng giá

Đã tràn tới bên kia lòng sông

Đi thôi –

Những con mắt nhìn đăm đăm cùng một mảnh trời

Những con tim gõ trống chiều hôm

Đi thôi –

Chúng tôi không mất ký ức

Chúng tôi sẽ kiếm cái vực đời

Đi thôi –

Con đường, con đường

Phủ bằng một mảng nổi trôi những cây á phiện.

TẤT CẢ

Tất cả là số phận

Tất cả là mây

Tất cả là khởi đầu không kết thúc

Tất cả sự dò tìm, chết trong trứng nước

Tất cả hoan lạc thiếu nụ cười

Tất cả nỗi buồn thiếu nước mắt

Tất cả ngôn ngữ là sự lặp lại

Tất cả giao tiếp là cuộc đọ sức

Tất cả tình yêu ở trong lòng

Tất cả quá khứ ở trong mơ

Tất cả hy vọng, tới cùng những ghi chú

Tất cả niềm tin,tới cùng những lầm bầm

Tất cả vụ nổ là tạm-thời-câm-lặng

Tất cả những cái chết có âm dội chậm tan.

CA KHÚC CỦA CHIM DI CƯ

Chúng tôi một đàn chim di cư

Đã bay vào cái lồng của mùa đông;

Ngay đầu chiều hôm xanh bọn tôi khởi hành

Cho chuyến bay tới cuối đất.

Mặc cho lông tả tơi

Rụng trên tóc thiếu phụ;

Mặc cho đôi cánh khỏe

Đỡ mặt trời trên cao.

Bọn tôi dồn mây đen

Lắc những vong hồn, qua cầu vồng;

Bọn tôi dồn đám gió,

Bay những túi không khí chứa đầy những bài ca.

Ấy những tiếng khóc của chúng tôi

Khiến núi băng trôi kinh sợ ứa nước mắt xưa;

Ấy những tiếng cười ngạo của chúng tôi

Khiến hoa cũng ửng hồng hổ thẹn

Đất bắc quê hương ta

Xin nhận giấc mơ này: hãy để cây mọc

Từ từng chỗ nứt trong băng

Treo đủ loại chuông của niềm hoan lạc.

Lý Đợi

***

TRẦN TIẾN DŨNG: THẦY CÙ AN HƯNG, TỪ MỘT GÓC VỈA HÈ BÌNH DỊ CỦA SÀI GÒN

Ở một góc Lữ Gia-Nhà Thờ hầm cách nay nhiều năm, thầy Cù An Hưng lúc không có giờ dạy học thường ghé sạp bán báo của tôi. Lúc đó tôi bán báo để kiếm sống, còn thầy ghé chỗ tôi để sống với tình yêu lớn của đời thầy: Tình yêu thi ca.

Có lần Thầy Cù An Hưng kể với chất giọng Bắc nhỏ tiếng nhưng âm vực rất vang. Và câu chuyện thầy kể cũng chỉ để kể, không nhằm tìm tới chuyện truyền đạt kiểu ôn cố tri tân nào. “Bọn chúng tôi, hồi ấy, dạy ở trường tư thục Trường Sơn. Mà này, cậu phải biết là các thầy người Bắc di cư có công mở trường tư ở trong này. Bọn chúng tôi dạy toán, các anh Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sĩ… dạy văn. Giờ giải lao, cùng là giáo sư, ngồi chung một phòng giáo sư, suốt chừng ấy năm chúng tôi chưa từng vô lễ bước qua bàn các anh ấy. Thường là ngồi bên này cung kính trân trọng lắng nghe các anh ấy nói về văn chương. Được nghe văn chương từ các anh ấy là ý thức mình gieo mở hạnh phúc và tìm thấy tự do.” Sau này, thầy không kể thêm câu chuyện nào nữa về các vị văn gia lớn đó, nhưng ý nghĩa từ mẩu chuyện của thầy cho tôi một niềm tin rõ ràng rằng các vị viết văn ngày nay không được trân trọng như đáng ra họ phải được, không được trân trọng vì lẽ các nhà văn ngày nay không nhận thức được việc chính mình phải tự trọng trong ý thức tôn trọng văn chương hơn là mong đợi ở xã hội.

Lần khác tôi được chứng kiến sự trân trọng của thầy ở một giới quan hệ xã hội khác. Sạp báo của tôi kê bên cạnh một tiệm phở, tiệm phở này có mùi vị của hủ tíu bò, trong khi thầy là người Bắc. Trong nhiều năm đến chỗ tôi thầy chưa bao giờ thử ăn qua phở Nam, dù quán phở này bán khá đắt khách. Sạp báo tôi chỉ có một cái ghế nhựa thấp, lần nào thầy đến, cô chủ quán phở cũng bước ra cầm theo cái ghế nhựa loại có chỗ tựa lưng để mời thầy ngồi, và lần nào thầy cũng nói cám ơn cô. Tiếng cám ơn trân trọng vì chuyện mượn một cái ghế được một ông thầy dạy đại học nói với cô bán phở chưa học qua lớp 5, và được lập đi lập lại không một lần quên trong suốt nhiều năm. Những hôm cô bán đắt hàng không kịp nhận ra thầy mới ghé, thầy bước đến gần cô chủ quán hỏi mượn cái ghế, cô chủ quán nhiều khi chỉ gật đầu với thầy nhưng lúc nào thầy cũng nói cám ơn trước khi cầm cái ghế. Có nhiều hôm tôi thấy cái dáng sang trọng với y phục chỉnh tề của một vị thầy đứng thật lâu chỗ cô đang nấu phở, những hôm như vậy tôi biết là cô bán phở lu bu chưa nói tiếng dạ, hoặc chưa gật đầu với thầy về chuyện mượn cái ghế.

Tôi sẽ không nói sâu về văn chương, thi ca và những giá trị lớn của văn học… Tôi chỉ muốn nói qua những mẩu chuyện bình dị tôi nhận từ thầy và tôi được có tấm gương lớn để luôn soi cá nhân mình vào người khác bằng cả sự trân trọng. Sẽ là vu vơ khi nói về tính tự trọng của con người mà không nhìn thấy rằng cá tính cao quí đó, của bất kỳ ai, chỉ sáng rõ khi phẩm chất họ và những quyền cơ bản của họ được người khác và cộng đồng trân trọng. Với thầy, thầy không đặt điều kiện ai đó lúc giao tiếp với thầy có lòng tự trọng hay không, thầy chỉ giữ chuẩn mực ứng xử, trân-trọng-cám-ơn những người mà mình sống chung đụng hàng ngày giữa đời thường.

Gặp những ngày trong tiết tháng tám âm, trời Sài Gòn thường mưa nhỏ rả rích. Những hôm như vậy, cây dù che sạp báo của tôi không thể phủ được để thầy khỏi ướt, tuy nhiên không vì ngày mưa mà vắng bóng các ông, các bà mà tôi không biết mặt biết tên tắp xe gắn máy vào chỗ sạp báo. Họ không phải ghé để mua báo, họ ghé vô chỉ để cúi đầu thưa thầy Cù An Hưng. Có lần thầy nói với tôi. “Tôi trông họ già hơn cả tôi nữa đấy phải không cậu. Cậu nhìn lại tôi xem nào, có già đến thế không nào!” Lần khác thì thầy lại nói. “May đấy cậu ạ. Các anh, các chị ấy mà dừng lại hỏi chuyện lâu, phát hiện tôi không nhớ được tên các anh chị ấy, thế là thất lễ!”

Lúc di cư vào Sài Gòn thầy mới là một học sinh trung học, nhưng không lâu thầy đã bắt đầu cuộc đời dạy học. Thời đó có nhiều người học muộn, riêng thầy thì nhảy lớp ở bậc trung học nên lúc đứng trên bục giảng thầy chỉ mới hai mốt tuổi. Thầy tự bỏ nhiều cơ hội mà thế giới trí thức dành cho thầy, để chọn nghề dạy học, viết sách . Thầy nói, nỗi buồn lớn của thầy là phụ lòng kỳ vọng những bậc thầy truyền đạt tình yêu toán và muốn thầy theo đuổi chuyên sâu toán học. Nhưng có một nỗi buồn da diết mà tôi cảm nhận được ở thầy, đó là việc thầy không dành tuổi xuân cho tình yêu văn chương-thi ca. Với thầy, tình yêu này là thứ báu vật đồng hành với quả tim trong ngực mà thượng đế đã ban tặng.

Chọn nghề dạy học, có nghĩa thầy đã đi vào trọn vẹn dòng sông lớn nhất, nơi người thầy như những con tàu chở bản năng con người vươn tới sóng gió trí thức, ánh sáng nhân cách, nơi mỗi người học trò là một thuỷ thủ, mỗi người thầy là một người thuyền trưởng, cùng chia sẻ nhiều lần cái chết bản năng trong những đại dương bất trắc để phục sinh đúng tầm vóc văn minh Người.

Tôi không biết nhiều về chuẩn mực quan hệ thầy trò của các bậc trí thức được ví như kỳ lân-phượng hoàng của thế hệ trí thức lớn xưa kia, nhưng với thế hệ thầy Cù An Hưng và lớp kế cận thầy trước những năm 1975 thì tôi có biết qua. Ở sạp báo tôi ngày ấy có một người học trò của thầy Cù An Hưng. Ông thỉnh thoảng đến và dừng lại với thầy lâu hơn những người khác. Ông đi một chiếc xe Honda cũ, dáng người thấp bé và tóc đã bạc trắng đầu. Ông không còn dạy học nữa nhưng, lần nào cũng vậy, ông đến chỉ để kể về học trò của ông cho thầy Cù An Hưng nghe. Giữa đời sống đô thị trùng trùng cấu thành và trùng trùng tàn lụi này, hai vị thầy nhắc cho nhau nhớ về học trò. Tôi không biết những người từng thụ hưởng sự giáo huấn của hai thầy này ngày nay tồn tại nơi đâu! Tôi chỉ biết là những lúc ấy hai gương mặt thầy giáo già hiện ra một vẻ đượm buồn.

Tôi không coi cái tình trạng u ẩn buồn đó là hào quang nhưng, với tôi, nỗi buồn đang toả ra của hai vị thầy thật sự là thứ ánh sáng của đời sống ký ức dạy học mà từng mạch cảm xúc buồn đó đang soi tìm lớp lớp học trò cũ của mình. Trong biển quên lãng mit mùng, không một vị thầy nào để thất lạc học trò mà chỉ có những người học trò phủ phàng thổi tắt trong lòng thầy ánh sáng hy vọng.

Tôi thường tự hỏi: Sau rốt, cái bài học lớn nhất mà một người thầy muốn truyền đạt cho một người học trò là kiến thức hay nhân cách? Trong thời buổi này người ta mua bán giáo dục mà không thừa nhận rằng hệ thống giáo dục đang là một tổng công ty kinh doanh. Người ta cứ gào lên cứ hầm hè về chuyện: Thầy phải ra thầy, trò phải ra trò, phải tôn sư trọng đạo… Biết bao nhiêu là châm ngôn giáo dục cao quí đang bị thực tế mua bán giáo dục biến thành những khẩu hiệu lố bịch.

Quan điểm của tôi: Kiến thức là phải mua, mua bằng tiền của chính mình hay bằng tiền mình đóng thuế cho ngân sách giáo dục, tất cả đều là tiền mua kiến thức cả. Hãy minh bạch để mọi người học trò biết rằng họ đã trả tiền để có kiến thức và họ phải có trách nhiệm trong suốt quá trình mua kiến thức của mình. Ngay cả với các vị thầy cũng xin đừng khiên cưỡng hoặc tự dối mình rằng đang ban tặng vô vụ lợi kiến thức. Tôi tin là để kiếm sống và làm rạng rỡ đời sống của mình, một cá nhân phải mua kiến thức làm phương tiện lớn. Nhưng để hoàn thành NGƯỜI trước vạn vật, chỉ có các vị THẦY mới có thể tạo ra được con đường cao cả truyền đạt nhân cách. Và đó là con đường duy nhất không bao gồm sự trao đổi phẩm lượng của cải vật chất, mà lại là con đường duy nhất bao gồm cái toàn thể cao cả của ân phước làm NGƯỜI.

Thầy Cù An Hưng bao giờ cũng tự hào về chuyện thầy dạy thêm và bổn phận cùng trách nhiệm trao kiến thức cho học trò đóng tiền để được học. Có hôm, từ trung tâm dạy thêm, thầy đến thẳng chỗ tôi, tay thầy còn đầy bụi phấn. Sạp báo bên lề đường vào giờ trưa nắng gắt làm cho thầy khó thở nhưng thầy vẫn không ngừng nói về văn học và thi ca. Thầy làm thơ và dịch thơ, nhưng bao giờ thầy cũng chỉ nhận mình là người đọc thơ. Tôi xin viết hoa hai chữ ĐỌC THƠ, vì chỉ như thế mới tả đúng lòng kiêu hãnh của thầy và sự kính phục của tôi về việc thầy ĐỌC THƠ. Tôi biết chắc là mình không thể biết đầy đủ tình yêu của thầy dành cho thi ca, bởi tình yêu thi ca của thầy là hàng vạn cánh cửa, nơi hàng ngày, hàng đêm mở ra trong suốt đời thầy một không gian tinh khiết, luôn luôn lộng lẫy sức nóng của lửa thiêng.

Trần Tiến Dũng

*Theo ông Cù An Bình, em trai của thầy Cù An Hưng hiện ở Paris, cho biết:

“Cáo phó thời nay ghi nguyên quán Nam Định, bên họ nội. Thực ra anh Hưng sinh ra tại Hưng Thượng, Hải Dương. Hải Dương là quê bên ngoại: vùng Thanh Lương, Nam Sách, Cẩm Giàng”.

 

🌹🌹🌹🌹🌹🌹

Xem Thêm :  Dịch giả Cù An Hưng


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét