Nhân mùa PHẬT ĐẢN năm nay, để chào mừng đức Như Lai giáng sinh để trải nghiệm cuộc đời Sinh, Lão, Bênh, Tử, mà giác ngộ để độ hóa chúng sinh vượt qua khổ hải trầm luân đồng đăng bỉ ngạn...
Sau đây, xin góp Ý về 4 chữ " THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG " trong bài viết " TÂM VÔ TRỤ. CHÂN VÀ VỌNG 心無住,真與妄 " trong trang nhất của Thầy như sau...
* THÀNH 成: Ở đây là Thành Hình, Thành tựu, Thành đạt, chỉ giai đoạn từ Tiên Thiên ( trong bụng mẹ ) cho đến khi được sanh ra và lớn lên ( Hậu Thiên ).
THÀNH là sự HÌNH THÀNH đời sống của một con người.
* TRỤ 住 : Chữ thuộc dạng Hài Thanh : gồm Bộ NHÂN 人 chỉ Ý và chữ CHỦ 主 chỉ ÂM. Chữ nầy vốn đọc là TRÚ nghĩa là : Ở, chỉ sự CƯ TRÚ của con người. Nghĩa phát sinh dùng để chỉ những gì đã được ỔN ĐỊNH hoặc DỪNG LẠI, và với nghĩa nầy thì TRÚ được đọc là TRỤ. Ví dụ :
TRỤ KHẨU 住口 : là Ngừng nói. Nếu là câu Mệnh Lệnh Cách thì có nghĩa : Câm Miệng lại ! 住口 !. Tương tự ta có từ TRỤ THỦ 住手 : Dừng tay, Dừng tay lại ! 住手 !.
TRÚ BẤT TRỤ 住不住 : là Không thể Ở Yên được nữa !
TRỤ ở sau chữ THÀNH, có nghĩa là giai đoạn đã Trưởng Thành, đã khôn lớn, đã TRỤ được trong cuộc sống ! Không bị chết yểu.
* HOẠI 壞 : Chữ thuộc dạng Hài thanh, bộ Thổ bên trái chỉ Ý, chữ Hoài bên phải chỉ Âm. HOẠI vốn nghĩa Bức tường hoặc Vách bằng đất đã bị mục rã, nên có nghĩa là HƯ, MỤC, THỐI, RÃ, XẤU...
BẠI HOẠI là Xấu Xa hết mức, Thất bại đến cùng.
HỦ HOẠI là Mục rữa đến không còn xài được nữa.
HOẠI là giai đoạn tàn lụi, già nua, vô dụng của đời người.
* KHÔNG 空 : Thuộc Hài Thanh, bộ HUYỆT ( là Hang Động, là Cái Lổ, là Hang Ổ ) ở trên chỉ Ý, chữ Công ở dưới chỉ Âm.
KHÔNG 空 : là Trống lỏng trống trơn, là Không có gì cả. Cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. như THIÊN KHÔNG là Bầu trời ( trống không ). KHÔNG THOẠI : lời nói trống không, lời nói suông ( Chỉ nói cho sướng miệng mà không có làm gì cả ! ).
VẠN NIỆM GIAI KHÔNG : Muôn vàn Ý niệm rốt cuộc rồi cũng chẳng có gì cả !
TỨ ĐẠI GIAI KHÔNG : Tứ Đại là ĐẤT GIÓ NƯỚC LỬA, theo quan niệm của Phật Giáo thì Vạn Vật đều do TỨ ĐẠI kết hợp mà thành, nên khi chết rồi thì " Thân Tứ Đại trả về Tứ Đại ", nên TỨ ĐẠI GIAI KHÔNG có nghĩa là TỨ ĐẠI rốt cuộc cũng ĐỀU là không không, KHÔNG có gì cả !
THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG là 4 giai đoạn trong cuộc sống của MỘT ĐỜI NGƯỜI. Nói theo Nho Giáo là SINH LÃO BỆNH TỬ đó.
Trang 2 : Câu " ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM " theo nghĩa đen thui của nó thì như sau :
ƯNG là Phải, VÔ là Không có, SỞ là Cái gì đó, TRỤ là Được giữ lại, NHI là Mà, SANH là Sinh ra, KỲ là Cái đó(đó), TÂM là Cái Tâm, Cái Lòng, Cái Ý niệm.
SỞ và KỲ là 2 Phiếm Chỉ Đại Từ ( pronoun indefinite ), nên nghĩa của câu trên là :
" Phải không có CÁI GÌ ĐÓ được giữ lại ở trong lòng mà sanh ra cái tâm ĐÓ ĐÓ." Nói cho xuôi tai là :
" Khi Cái tâm được sanh ra mà trong lòng không có giữ lại một thiên kiến nào cả !".
Chữ SỞ ở đây là Phiếm Chỉ Đại Từ, chỉ CÁI GÌ ĐÓ. Chứ không phải chỉ Nơi Chốn hay Cơ Sở gì cả !
Về Chữ NIỆM và Chữ NHIỄM ở trang 3.
NIỆM 念 : Chữ thuộc dạng Hội Ý : Phần trên là chữ KIM 今 là Hiện nay, là Bây giờ. Phần dưới là chữ TÂM 心 là Lòng dạ.
NIỆM là Lòng dạ trước mắt, nên có nghĩa là NHỚ, NHẮC NHỞ, NHỦ... như Tưởng Niệm, Hoài Niệm, Tâm Niệm, Ý Niệm ... NIỆM còn có nghĩa là Đọc thầm hoặc Đọc Nhỏ Tiếng, như NIỆM PHẬT, NIỆM KINH, NIỆM THẦN CHÚ... Cho nên, hễ...
NIỆM là phải có CÁI GÌ ĐÓ hiện diện ở trong Tim, trong Lòng. Nên...
VÔ NIỆM là giữ được lòng thanh thản trong sáng, không nhớ thương luyến tiếc vui buồn gì cả !
NHIỄM 染 : là NHUỘM, là NHUỐM, là NHÚNG. Như :
NHIỄM SẮC 染色 là Nhuộm Màu, NHIỄM BỆNH 染病 là Nhuốm Bệnh. NHIỄM CHỈ 染指 là Nhúng Tay Vào.
NHIỄM có nghĩa phát sinh là Vây Vào, Vướng Vào. Như trong câu kệ của Lục Tổ Huệ Năng :
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ NHIỄM trần ai ?!
Có nghĩa :
Vốn không có một vật nào cả, thì lấy chỗ nào để mà NHUỐM bụi trần đây ?!
Vậy nên...
NIỆM chỉ là cái Ý mới phát sinh ở trong lòng. Còn...
NHIỄM là đã Nhuốm rồi, Ý niệm đã hình thành rồi. Nên...
Có VÔ NIỆM thì mới VÔ NHIỄM được !
Về chữ 惹 trong 2 bài kệ, một của Thần Tú Đại Sư, một của Lục Tổ Huệ Năng, chữ nầy được đọc thành rất nhiều âm...
惹 đọc là NHÁ, NHÃ, NHẠ, các Tự Điển mạnh ai nấy phiên âm. Nhưng theo Hài Thanh thì chữ nầy nên đọc là NHẠ, vì chữ
惹 NHẠ được ghép bởi 2 phần : Phần trên là chữ NHƯỢC chỉ Âm, phần dưới là bộ TÂM chỉ Ý. Trong 2 bài kệ chữ NHẠ đều có nghĩa là : VÂY ĐẾN, VƯỚNG VÀO, NHUỐM, như 2 câu của ngài Thần Tú:
Thời thời thường phất thức, 時時常拂拭,
Vật sử NHẠ trần ai ! 莫使惹塵埃 !
Có nghĩa :
Luôn luôn phải lau phủi,
Đừng để NHUỐM bụi trần.
Và 2 câu của Lục Tổ Huệ Năng là :
Bổn lai vô nhất vật, 本來無一物,
Hà Xứ NHẠ trần ai ?! 何處惹塵埃?
Có nghĩa :
Vốn không có vật gì cả, thì
Lấy chỗ nào để NHUỐM bụi trần ?!
Có bản dùng chữ NHIỄM 染 là NHUỘM, NHUỐM, mà không có dùng chữ NHẠ 惹 , nhưng dùng chữ nào thì nghĩa cũng như nhau mà thôi !
Về từ TIÊN THIÊN và HẬU THIÊN ở trang 5...
TIÊN THIÊN : Nghĩa đen thui là TRƯỚC TRỜI, có nghĩa là : Trước khi thấy được ánh sáng mặt trời, cũng có nghĩa là Trước khi được sanh ra, tức là KHI CÒN NẰM TRONG BỤNG MẸ.
Ta thường nói " Nhân chi sơ, tánh bản thiện ". Còn nằm trong bụng mẹ nên như tờ giấy trắng, chưa bị tiêm nhiễm, ảnh hưởng, chi phối... bởi cuộc sống và hoàn cảnh chung quanh, rất thuần khiết trong trắng không gợn chút...bụi trần nào cả, nên Phật giáo gọi là CHÂN NHƯ.
Tương tự...
HẬU THIÊN : là Sau Trời, là Sau khi đã thấy được ánh mặt trời, có nghĩa là SAU KHI ĐÃ ĐƯỢC SANH RA. Cất tiếng KHÓC chào đời thì đã bắt đầu có DỤC VỌNG, muốn được săn sóc, ẵm bồng, bú mớm... Càng lớn thì những đòi hỏi đó càng nhiều hơn. Phật giáo gọi đó là VỌNG.
Trong Y LÝ Đông Y có câu : " Tiên thiên bất túc, Hậu thiên tất bổ ". Có nghĩa : Khi còn trong bụng mẹ mà không có được đầy đủ dinh dưỡng, thai nhi èo ọt, phát triển không bình thường, thì khi sanh ra rồi cần phải bồi bổ lại những dinh dưỡng thiếu sót đó để bé sơ sinh được phát triển bình thường. Nhưng nếu " Tiên thiên đã Bất túc, thì Hậu Thiên có Bồi Bổ thế nào thì cũng không bằng được ! Đây chỉ nói theo Y LÝ Đông Phương nghe chơi mà thôi !
Về từ GIÁC NGỘ ở trang 6...
GIÁC 覺 : Ta đọc trại ra thành GIẤC, là GIẤC NGỦ, mà cũng là TỈNH GIẤC nữa, là...
...Xuân miên bất GIÁC hiểu ...của Mạnh Hạo NHiên...
GIÁC 覺 có phần trên là đầu của chữ HỌC, phần dưới là chữ KIẾN, nếu hiểu theo nghĩa Hội Ý thì GIÁC là : Thấy được việc gì đó thông qua học tập. GIÁC là Phát Giác là Vỡ Lẽ ra...điều gì hoặc việc gì đó. Nên...
GIÁC là Hiểu ra, Tỉnh ra ( Vì trước đây còn U Mê, còn Mê Muội chưa Hiểu, chưa Tỉnh ).
Còn...
NGỘ 悟 : thuộc dạng Hài Thanh với bộ TÂM được viết đứng để chỉ Ý ở bên Trái, và chữ NGÔ ở bên phải để chỉ ÂM, nên...
NGỘ 悟 : là Chợt hiểu ra, Bất Thình Lình hiểu ra, Hiểu ra một cách Bất Ngờ. Từ kép là ĐỐN NGỘ để chỉ Bỗng nhiên Giác Ngộ ra điều gì đó mà trước đó bị che khuất.
THẬP BÁT LA HÁN tiền thân là mười tám tên cướp núi, chỉ trong một lúc ĐỐN NGỘ mà đều thành Phật cả, điều nầy trong kinh Phật gọi là " Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật " 放下屠刀,立地成佛。
Có nghĩa :
Vừa buông con dao giết người xuống, thì thành Phật ngay tại chỗ đó luôn ! Ý muốn nói : Chỉ cần trong một cơ duyên tích tắc nào đó, con người ta chợt hiểu ra, tỉnh ra, chợt giác ngộ bất thình lình là có thể thành PHẬT ngay !
Vì thế, nên..
GIÁC hay NGỘ gì đều có nghĩa là : HIỂU ra, VỠ LẼ ra, TỈNH ra. Nhưng...
GIÁC phải qua quá trình tu tập, tìm hiểu nghiền ngẫm... rồi mới Hiểu ra. Còn...
NGỘ là do CƠ DUYÊN bất ngờ đưa đến mà Hiểu ra, Tỉnh ra...Nên :
GIÁC có thể do bản thân rán CẦU HỌC mà có được, còn NGỘ thì không phải ai cũng CẦU mà có được, CƠ DUYÊN đến với người nầy mà không đến với người kia, đến với trường hợp nầy mà không đến với trường hợp khác !
Về từ TỈNH THỨC và VỌNG NGÃ ở trang 7.
TỈNH 省 : Chữ thuộc dạng Hội Ý, phần trên là chữ Thiểu là Thiếu, phần dưới chữ Mục là Mắt. Thiếu mất con Mắt mà vẫn NHÌN ra được sự việc, đó là TỈNH, cho nên...
TỈNH 省 là Hiểu được sự vật sự việc bằng Ý Thức, Hiểu ra sau một quá trình suy gẫm và từng trãi. Vì vậy, TỈNH là Hiểu sự việc một cách Tỉnh Táo Vững Chắc. Từ ta thường hay gặp là TỈNH NGỘ. Còn...
THỨC 識 : là Quen, Biết, Nhận ra... là Nhận Thức, có bộ NGÔN là Lời Nói bên trái, nên THỨC là thông qua lời nói, giải thích mà Hiểu được sự việc một cách thấu đáo chắc chắn, THỨC là Kiến Thức, là sự Hiểu biết. Cho nên...
TỈNH THỨC là Suy Nghiệm một cách Tỉnh Táo, Hiểu biết một cách thấu đáo về cuộc sống của mình và chung quanh. Không bị dao động lung lay bởi những luận điệu khác, không bị chi phối bởi hoàn cảnh chung quanh...
Nhận thức Tỉnh Táo, sống Tự Tin vào niềm tin và sự giác ngộ của mình, đó là Đời sống TỈNH THỨC.
Còn VỌNG NGÃ,
VỌNG 妄 : Chữ thuộc dạng Hài Thanh, với chữ VONG là Chết ở phần trên để chỉ Âm, và bộ Nữ ở phần dưới để chỉ Ý. Vì nữ giới ngày xưa bị xem thường xem khinh, nên hay có những Ý nghĩ bức phá, vượt lên trên, nên ...
VỌNG có nghĩa là NGÔNG CUỒNG, XẰNG BẬY, như VỌNG TƯỞNG là những ước muốn ngông cuồng, muốn những cái mà mình không thể có được. VỌNG NGÔN là những lời nói lớn lối, nói những cái không có thật,hoặc không thể thực hiện được. VỌNG VI là làm bậy làm càn. Cho nên...
VỌNG NGÃ 妄我 là Cái Tôi Ngông Cuồng, là Cái Tôi Buông Thả, Phóng Túng, không có gì kềm chế.
Đời sống VỌNG NGÃ là Đời sống buông thả theo những dục vọng của Bản Ngã, đời sống của " Liệt Mã Vô Cương " của con Ngựa chứng mà không có giây cương để kìm hãm bớt lại !
Thưa Thầy,
Đây chỉ là những góp Ý về các Từ trong bài viết TÂM VÔ TRỤ của Thầy, chỉ lạm bàn về Từ chớ không dám... Đụng chạm gì tới Ý của bài viết cả !
Chúc Thầy Cô và Gia Đình cuối tuần được An Khang, Vui Vẻ !
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức.
Xem Thêm : Bài Tâm Vũ Trụ.Chân và Vọng của GS.Nguyễn Văn Trường
https://thuvienhoasen.org/a21442/tam-vo-tru-chan-va-vong
Sau đây, xin góp Ý về 4 chữ " THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG " trong bài viết " TÂM VÔ TRỤ. CHÂN VÀ VỌNG 心無住,真與妄 " trong trang nhất của Thầy như sau...
* THÀNH 成: Ở đây là Thành Hình, Thành tựu, Thành đạt, chỉ giai đoạn từ Tiên Thiên ( trong bụng mẹ ) cho đến khi được sanh ra và lớn lên ( Hậu Thiên ).
THÀNH là sự HÌNH THÀNH đời sống của một con người.
* TRỤ 住 : Chữ thuộc dạng Hài Thanh : gồm Bộ NHÂN 人 chỉ Ý và chữ CHỦ 主 chỉ ÂM. Chữ nầy vốn đọc là TRÚ nghĩa là : Ở, chỉ sự CƯ TRÚ của con người. Nghĩa phát sinh dùng để chỉ những gì đã được ỔN ĐỊNH hoặc DỪNG LẠI, và với nghĩa nầy thì TRÚ được đọc là TRỤ. Ví dụ :
TRỤ KHẨU 住口 : là Ngừng nói. Nếu là câu Mệnh Lệnh Cách thì có nghĩa : Câm Miệng lại ! 住口 !. Tương tự ta có từ TRỤ THỦ 住手 : Dừng tay, Dừng tay lại ! 住手 !.
TRÚ BẤT TRỤ 住不住 : là Không thể Ở Yên được nữa !
TRỤ ở sau chữ THÀNH, có nghĩa là giai đoạn đã Trưởng Thành, đã khôn lớn, đã TRỤ được trong cuộc sống ! Không bị chết yểu.
* HOẠI 壞 : Chữ thuộc dạng Hài thanh, bộ Thổ bên trái chỉ Ý, chữ Hoài bên phải chỉ Âm. HOẠI vốn nghĩa Bức tường hoặc Vách bằng đất đã bị mục rã, nên có nghĩa là HƯ, MỤC, THỐI, RÃ, XẤU...
BẠI HOẠI là Xấu Xa hết mức, Thất bại đến cùng.
HỦ HOẠI là Mục rữa đến không còn xài được nữa.
HOẠI là giai đoạn tàn lụi, già nua, vô dụng của đời người.
* KHÔNG 空 : Thuộc Hài Thanh, bộ HUYỆT ( là Hang Động, là Cái Lổ, là Hang Ổ ) ở trên chỉ Ý, chữ Công ở dưới chỉ Âm.
KHÔNG 空 : là Trống lỏng trống trơn, là Không có gì cả. Cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. như THIÊN KHÔNG là Bầu trời ( trống không ). KHÔNG THOẠI : lời nói trống không, lời nói suông ( Chỉ nói cho sướng miệng mà không có làm gì cả ! ).
VẠN NIỆM GIAI KHÔNG : Muôn vàn Ý niệm rốt cuộc rồi cũng chẳng có gì cả !
TỨ ĐẠI GIAI KHÔNG : Tứ Đại là ĐẤT GIÓ NƯỚC LỬA, theo quan niệm của Phật Giáo thì Vạn Vật đều do TỨ ĐẠI kết hợp mà thành, nên khi chết rồi thì " Thân Tứ Đại trả về Tứ Đại ", nên TỨ ĐẠI GIAI KHÔNG có nghĩa là TỨ ĐẠI rốt cuộc cũng ĐỀU là không không, KHÔNG có gì cả !
THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG là 4 giai đoạn trong cuộc sống của MỘT ĐỜI NGƯỜI. Nói theo Nho Giáo là SINH LÃO BỆNH TỬ đó.
Trang 2 : Câu " ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM " theo nghĩa đen thui của nó thì như sau :
ƯNG là Phải, VÔ là Không có, SỞ là Cái gì đó, TRỤ là Được giữ lại, NHI là Mà, SANH là Sinh ra, KỲ là Cái đó(đó), TÂM là Cái Tâm, Cái Lòng, Cái Ý niệm.
SỞ và KỲ là 2 Phiếm Chỉ Đại Từ ( pronoun indefinite ), nên nghĩa của câu trên là :
" Phải không có CÁI GÌ ĐÓ được giữ lại ở trong lòng mà sanh ra cái tâm ĐÓ ĐÓ." Nói cho xuôi tai là :
" Khi Cái tâm được sanh ra mà trong lòng không có giữ lại một thiên kiến nào cả !".
Chữ SỞ ở đây là Phiếm Chỉ Đại Từ, chỉ CÁI GÌ ĐÓ. Chứ không phải chỉ Nơi Chốn hay Cơ Sở gì cả !
Về Chữ NIỆM và Chữ NHIỄM ở trang 3.
NIỆM 念 : Chữ thuộc dạng Hội Ý : Phần trên là chữ KIM 今 là Hiện nay, là Bây giờ. Phần dưới là chữ TÂM 心 là Lòng dạ.
NIỆM là Lòng dạ trước mắt, nên có nghĩa là NHỚ, NHẮC NHỞ, NHỦ... như Tưởng Niệm, Hoài Niệm, Tâm Niệm, Ý Niệm ... NIỆM còn có nghĩa là Đọc thầm hoặc Đọc Nhỏ Tiếng, như NIỆM PHẬT, NIỆM KINH, NIỆM THẦN CHÚ... Cho nên, hễ...
NIỆM là phải có CÁI GÌ ĐÓ hiện diện ở trong Tim, trong Lòng. Nên...
VÔ NIỆM là giữ được lòng thanh thản trong sáng, không nhớ thương luyến tiếc vui buồn gì cả !
NHIỄM 染 : là NHUỘM, là NHUỐM, là NHÚNG. Như :
NHIỄM SẮC 染色 là Nhuộm Màu, NHIỄM BỆNH 染病 là Nhuốm Bệnh. NHIỄM CHỈ 染指 là Nhúng Tay Vào.
NHIỄM có nghĩa phát sinh là Vây Vào, Vướng Vào. Như trong câu kệ của Lục Tổ Huệ Năng :
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ NHIỄM trần ai ?!
Có nghĩa :
Vốn không có một vật nào cả, thì lấy chỗ nào để mà NHUỐM bụi trần đây ?!
Vậy nên...
NIỆM chỉ là cái Ý mới phát sinh ở trong lòng. Còn...
NHIỄM là đã Nhuốm rồi, Ý niệm đã hình thành rồi. Nên...
Có VÔ NIỆM thì mới VÔ NHIỄM được !
Về chữ 惹 trong 2 bài kệ, một của Thần Tú Đại Sư, một của Lục Tổ Huệ Năng, chữ nầy được đọc thành rất nhiều âm...
惹 đọc là NHÁ, NHÃ, NHẠ, các Tự Điển mạnh ai nấy phiên âm. Nhưng theo Hài Thanh thì chữ nầy nên đọc là NHẠ, vì chữ
惹 NHẠ được ghép bởi 2 phần : Phần trên là chữ NHƯỢC chỉ Âm, phần dưới là bộ TÂM chỉ Ý. Trong 2 bài kệ chữ NHẠ đều có nghĩa là : VÂY ĐẾN, VƯỚNG VÀO, NHUỐM, như 2 câu của ngài Thần Tú:
Thời thời thường phất thức, 時時常拂拭,
Vật sử NHẠ trần ai ! 莫使惹塵埃 !
Có nghĩa :
Luôn luôn phải lau phủi,
Đừng để NHUỐM bụi trần.
Và 2 câu của Lục Tổ Huệ Năng là :
Bổn lai vô nhất vật, 本來無一物,
Hà Xứ NHẠ trần ai ?! 何處惹塵埃?
Có nghĩa :
Vốn không có vật gì cả, thì
Lấy chỗ nào để NHUỐM bụi trần ?!
Có bản dùng chữ NHIỄM 染 là NHUỘM, NHUỐM, mà không có dùng chữ NHẠ 惹 , nhưng dùng chữ nào thì nghĩa cũng như nhau mà thôi !
Về từ TIÊN THIÊN và HẬU THIÊN ở trang 5...
TIÊN THIÊN : Nghĩa đen thui là TRƯỚC TRỜI, có nghĩa là : Trước khi thấy được ánh sáng mặt trời, cũng có nghĩa là Trước khi được sanh ra, tức là KHI CÒN NẰM TRONG BỤNG MẸ.
Ta thường nói " Nhân chi sơ, tánh bản thiện ". Còn nằm trong bụng mẹ nên như tờ giấy trắng, chưa bị tiêm nhiễm, ảnh hưởng, chi phối... bởi cuộc sống và hoàn cảnh chung quanh, rất thuần khiết trong trắng không gợn chút...bụi trần nào cả, nên Phật giáo gọi là CHÂN NHƯ.
Tương tự...
HẬU THIÊN : là Sau Trời, là Sau khi đã thấy được ánh mặt trời, có nghĩa là SAU KHI ĐÃ ĐƯỢC SANH RA. Cất tiếng KHÓC chào đời thì đã bắt đầu có DỤC VỌNG, muốn được săn sóc, ẵm bồng, bú mớm... Càng lớn thì những đòi hỏi đó càng nhiều hơn. Phật giáo gọi đó là VỌNG.
Trong Y LÝ Đông Y có câu : " Tiên thiên bất túc, Hậu thiên tất bổ ". Có nghĩa : Khi còn trong bụng mẹ mà không có được đầy đủ dinh dưỡng, thai nhi èo ọt, phát triển không bình thường, thì khi sanh ra rồi cần phải bồi bổ lại những dinh dưỡng thiếu sót đó để bé sơ sinh được phát triển bình thường. Nhưng nếu " Tiên thiên đã Bất túc, thì Hậu Thiên có Bồi Bổ thế nào thì cũng không bằng được ! Đây chỉ nói theo Y LÝ Đông Phương nghe chơi mà thôi !
Về từ GIÁC NGỘ ở trang 6...
GIÁC 覺 : Ta đọc trại ra thành GIẤC, là GIẤC NGỦ, mà cũng là TỈNH GIẤC nữa, là...
...Xuân miên bất GIÁC hiểu ...của Mạnh Hạo NHiên...
GIÁC 覺 có phần trên là đầu của chữ HỌC, phần dưới là chữ KIẾN, nếu hiểu theo nghĩa Hội Ý thì GIÁC là : Thấy được việc gì đó thông qua học tập. GIÁC là Phát Giác là Vỡ Lẽ ra...điều gì hoặc việc gì đó. Nên...
GIÁC là Hiểu ra, Tỉnh ra ( Vì trước đây còn U Mê, còn Mê Muội chưa Hiểu, chưa Tỉnh ).
Còn...
NGỘ 悟 : thuộc dạng Hài Thanh với bộ TÂM được viết đứng để chỉ Ý ở bên Trái, và chữ NGÔ ở bên phải để chỉ ÂM, nên...
NGỘ 悟 : là Chợt hiểu ra, Bất Thình Lình hiểu ra, Hiểu ra một cách Bất Ngờ. Từ kép là ĐỐN NGỘ để chỉ Bỗng nhiên Giác Ngộ ra điều gì đó mà trước đó bị che khuất.
THẬP BÁT LA HÁN tiền thân là mười tám tên cướp núi, chỉ trong một lúc ĐỐN NGỘ mà đều thành Phật cả, điều nầy trong kinh Phật gọi là " Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật " 放下屠刀,立地成佛。
Có nghĩa :
Vừa buông con dao giết người xuống, thì thành Phật ngay tại chỗ đó luôn ! Ý muốn nói : Chỉ cần trong một cơ duyên tích tắc nào đó, con người ta chợt hiểu ra, tỉnh ra, chợt giác ngộ bất thình lình là có thể thành PHẬT ngay !
Vì thế, nên..
GIÁC hay NGỘ gì đều có nghĩa là : HIỂU ra, VỠ LẼ ra, TỈNH ra. Nhưng...
GIÁC phải qua quá trình tu tập, tìm hiểu nghiền ngẫm... rồi mới Hiểu ra. Còn...
NGỘ là do CƠ DUYÊN bất ngờ đưa đến mà Hiểu ra, Tỉnh ra...Nên :
GIÁC có thể do bản thân rán CẦU HỌC mà có được, còn NGỘ thì không phải ai cũng CẦU mà có được, CƠ DUYÊN đến với người nầy mà không đến với người kia, đến với trường hợp nầy mà không đến với trường hợp khác !
Về từ TỈNH THỨC và VỌNG NGÃ ở trang 7.
TỈNH 省 : Chữ thuộc dạng Hội Ý, phần trên là chữ Thiểu là Thiếu, phần dưới chữ Mục là Mắt. Thiếu mất con Mắt mà vẫn NHÌN ra được sự việc, đó là TỈNH, cho nên...
TỈNH 省 là Hiểu được sự vật sự việc bằng Ý Thức, Hiểu ra sau một quá trình suy gẫm và từng trãi. Vì vậy, TỈNH là Hiểu sự việc một cách Tỉnh Táo Vững Chắc. Từ ta thường hay gặp là TỈNH NGỘ. Còn...
THỨC 識 : là Quen, Biết, Nhận ra... là Nhận Thức, có bộ NGÔN là Lời Nói bên trái, nên THỨC là thông qua lời nói, giải thích mà Hiểu được sự việc một cách thấu đáo chắc chắn, THỨC là Kiến Thức, là sự Hiểu biết. Cho nên...
TỈNH THỨC là Suy Nghiệm một cách Tỉnh Táo, Hiểu biết một cách thấu đáo về cuộc sống của mình và chung quanh. Không bị dao động lung lay bởi những luận điệu khác, không bị chi phối bởi hoàn cảnh chung quanh...
Nhận thức Tỉnh Táo, sống Tự Tin vào niềm tin và sự giác ngộ của mình, đó là Đời sống TỈNH THỨC.
Còn VỌNG NGÃ,
VỌNG 妄 : Chữ thuộc dạng Hài Thanh, với chữ VONG là Chết ở phần trên để chỉ Âm, và bộ Nữ ở phần dưới để chỉ Ý. Vì nữ giới ngày xưa bị xem thường xem khinh, nên hay có những Ý nghĩ bức phá, vượt lên trên, nên ...
VỌNG có nghĩa là NGÔNG CUỒNG, XẰNG BẬY, như VỌNG TƯỞNG là những ước muốn ngông cuồng, muốn những cái mà mình không thể có được. VỌNG NGÔN là những lời nói lớn lối, nói những cái không có thật,hoặc không thể thực hiện được. VỌNG VI là làm bậy làm càn. Cho nên...
VỌNG NGÃ 妄我 là Cái Tôi Ngông Cuồng, là Cái Tôi Buông Thả, Phóng Túng, không có gì kềm chế.
Đời sống VỌNG NGÃ là Đời sống buông thả theo những dục vọng của Bản Ngã, đời sống của " Liệt Mã Vô Cương " của con Ngựa chứng mà không có giây cương để kìm hãm bớt lại !
Thưa Thầy,
Đây chỉ là những góp Ý về các Từ trong bài viết TÂM VÔ TRỤ của Thầy, chỉ lạm bàn về Từ chớ không dám... Đụng chạm gì tới Ý của bài viết cả !
Chúc Thầy Cô và Gia Đình cuối tuần được An Khang, Vui Vẻ !
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức.
Xem Thêm : Bài Tâm Vũ Trụ.Chân và Vọng của GS.Nguyễn Văn Trường
https://thuvienhoasen.org/a21442/tam-vo-tru-chan-va-vong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét