Huỳnh Ngọc Chiến
Trong tam độc
“tham − sân − si” thì nóng giận là một cảm xúc dễ bộc phát nhất, và bởi
thế, khó kiềm chế nhất. Khi giận, khó ai mà có thể kiềm chế được bản
thân. No mất ngon, giận mất khôn. Nhan Hồi – một cao đệ yểu mệnh của đức
Khổng Tử – được hậu nho ca ngợi, tôn xưng là á thánh cũng nhờ vào ba
chữ “bất thiên nộ”, có nghĩa là “không giận lây” theo kiểu “giận cá chém
thớt”. Giận mà biết kiềm chế thì phải có công phu hàm dưỡng. Phật giáo
dùng nhẫn nhục như là pháp môn để đối trị sân, nhưng ngay cả đối với
những bậc thượng trí hoặc những người nghĩ rằng mình đã “ngộ” thì cái
sân đôi khi vẫn thường sinh khởi ở chỗ rất đỗi tế vi.
Thiền tông Nhật
Bản còn lưu truyền một câu chuyện rất thú vị. Yamaoka Tesshu (Sơn Cương
Thiết Chu 1836 − 1888) là một kiếm sĩ lỗi lạc của Nhật Bản. Khi còn
trẻ, ông đi tham bái hết vị thầy nầy đến thầy khác để học thiền. Và ông
ta nghĩ rằng mìng đã nắm được giáo nghĩa tinh yếu cả Phật pháp. Nên một
ngày kia, ông đến tham bái Dokuon (Địch Dã Độc Viên 1819–1895), một
thiền sư thuộc dòng Lâm Tế, ở Shokoku. Muốn trình bày sở đắc của mình,
Yamaoka nói : − Tâm, Phật, cùng các loài hữu tình rốt ráo đều không
hiện hữu. Chân tánh của mọi hiện tượng đều là Không. Không ngộ, không
mê, không thánh, không phàm. Tam luân không tịch, không có người cho,
không có người nhận, cũng chẳng có vật được cho.
Dokuon ngồi
lặng lẽ hút thuốc, không nói gì. Thình lình, vị thiền sư cầm ống điếu
tre quất Yamaoka một phát, khiến anh chàng nổi xung lên. Dokuon liền hỏi
: − Nếu tất cả đều không hiện hữu, vậy cơn giận của anh từ đâu đến? (theo http://www.101zenstories.org/tag/tesshu/)
Giữa một tràng
ba hoa thuyết thoại “nhất thiết giai không”, chỉ một cú quất của cái
điếu tre cũng đủ để biến không thành hữu! Đó là một lối cảnh tỉnh kiểu
Đức Sơn hay Lâm Tế, mà ta thường thấy chốn thiền đường. Nếu sau câu nói
đó mà cái sân kia vẫn là sân thì Yamaoka đáng ăn thêm ba mươi gậy của
Đức Sơn hay vài trăm hèo của Lâm Tế, để những kẻ đọc kinh sách theo kiểu
trích cú tầm chương trong thiên hạ hết đường thuyết thoại. Nhưng nếu
câu nói đó khiến Yamaoka hoát nhiên đại ngộ thì cái sân kia sẽ chuyển
thành cái hỷ.
Nhưng giai
thoại trên vẫn chưa lý thú bằng giai thoại về Tô Đông Pha, cũng lưu
truyền trong thiền lâm Trung Quốc. Giai thoại này đã quá quen thuộc,
nhưng tôi cũng xin ghi lại đây. Chuyện kể rằng, có một lần, Tô Đông Pha
sáng tác được một bài thơ xưng tán cảnh giới giải thoát của đức Phật.
Ông thấy rất hài lòng, nên sai thư đồng đem qua bên kia sông để tặng
thiền sư Phật Ấn, lúc bấy giờ đang ở chùa Kim Sơn. Bài thơ như vầy:
Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động
Đoan tọa tử kim liên.
(Cúi đầu đảnh lễ Pháp Vương, Mười phương tỏa sáng hào quang. Tám gió thổi, tâm không động, Ngồi nghiêm trên đóa sen vàng).
“Thiên trung
thiên” (trời trong trời) dùng để chỉ Đức Phật. Trong kinh điển, thế gian
có tám thứ khiến tâm con người phải điên đảo, không an. Đó là bốn cặp
đối lập nhau : thịnh và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc. Hưng
thịnh và suy vi; hủy báng và danh dự; xưng tụng và chê bai; khổ đau và
lạc phúc. Tám thứ này giống như tám ngọn gió thổi làm con người nghiêng
ngã, nên được gọi là “bát phong”. Chỉ những người có định lực và đạo
hạnh cao mới có thể giữ tâm bất động trước bát phong để có thể “Khen,
chê phơi phới ngọn đông phong” như cụ Nguyễn Công Trứ. Ý định của Đông
Pha là muốn Phật Ấn xem bài thơ để ấn chứng công phu thiền định của nhà
thơ thâm viễn đến đâu. Nào ngờ, Phật Ấn xem qua liền phê vào hai chữ
“phóng thí” (đánh rắm) bên cạnh bài thơ, rồi bảo thư đồng đem về trình
lại cho Đông Pha. Đông Pha xem xong, đùng đùng nổi giận, lập tức qua
sông, đến chùa Kim Sơn để gặp Phật Ấn hỏi cho ra lẽ. Đến nơi, thấy cửa
phòng Phật Ấn khép kín, bên ngoài có dán hai câu thơ :
Bát phong xuy bất động,
Nhất thí đả quá giang.
Tám gió ào ào, tâm chẳng động, Một hơi đánh rắm đẩy qua sông.
Đông Pha giật
mình, chợt hiểu công phu hàm dưỡng của mình vẫn còn nông lắm. Cứ nghĩ
mình tâm đã tịch nhiên bất động, tám ngọn gió kia có ào ào thổi thì tâm
vẫn vững như bàn thạch, nhưng đâu ngờ chỉ một hơi đánh rắm cũng đủ sức
đẩy mình, cả thân lẫn tâm, văng tuốt qua bên kia sông, khi hăm hở muốn
mở một trận chất vấn! Hai câu thơ của Phật Ấn giống như câu kệ khai ngộ
cho Tô Đông Pha. Câu chuyện trên hiển nhiên chỉ là giai thoại. Tôi tin
rằng không thể có chuyện một thi tài quán tuyệt như Tô Đông Pha lại làm
một bài thơ xoàng xĩnh như một người mới tập làm thơ để xưng tán cảnh
giới giải thoát của Đức Phật, rồi lại đem bài thơ xoàng xĩnh đó trình
cho Phật Ấn − vốn cũng là một tay tổ trong làng bút mực? Cả hai giai
thoại lý thú trên cho thấy nóng giận là cảm xúc rất khó kiềm chế. Đã là
người dĩ nhiên không thể không có lúc nổi giận, nhưng để giữ cho cơn
giận không vượt qua chữ lý thì đó phải là người có công phu hàm dưỡng
lâu dài.
Tôi có lần làm bài thơ Tứ Đại để bỡn người quen là một bác sĩ tính tình rất nghiêm túc, thường hay viết sách về thiền.
Tưởng đã ưng vô sở trụ,
Rong chơi tâm ý siêu nhiên.
Em phô xác thân tứ đại,
Hoang mang rơi cả gậy thiền.
Hiểu rành “Tứ
đại giai không” là thế, nhưng nhìn xác thân tứ đại tuyệt diễm phô ra
kia, chắc gì tâm đã “tịch nhiên bất động” mà không “Hoang mang rơi cả
gậy thiền.”? Xác thân tứ đại kia tác động hiển nhiên phải mạnh cái điếu
tre của Dokuon hay cái “đánh rắm” của Phật Ấn. Anh đọc xong, không giận,
mà gởi lại hai câu thơ, nói tôi ba lơn!
Phật giáo dạy
dùng nhẫn nhục để đối trị sân, nhưng trong giới thiền lâm vẫn có thiền
sư lấy sân làm công phu đạo hạnh. Sư Khế Tung (1007-1072) là một cao
tăng uyên bác đời Tống, văn tài và đạo hạnh nổi bật đương thời. Vẻ mặt
ông thường lộ vẻ cau có, người ta chưa từng thấy ông cười. Ta thử nghe
Tô Đông Pha viết về ông: Thiền sư Khế Tung thường sân; người ta chưa
từng thấy sư cười. Sư Hải Nguyệt Tuệ Biện thường vui, người ta chưa từng
thấy sư giận. Tôi ở Tiền Đường, tận mắt thấy hai vị đó đều ngồi kiết
già mà hóa. Khế Tung khi đã trà tỳ, lửa không hủy hoại nỗi, thêm củi cho
lửa mạnh, nhưng có năm món rốt cuộc vẫn không bị hư hoại. Hải Nguyệt
đến khi táng mà diện mạo vẫn như lúc còn sống, lại còn cười mĩm. Thế mới
biết, hai vị đó lấy cái sân và cái hỷ mà làm Phật sự vậy. Tôi cho rằng
đạo hạnh chân thực của một thiền sư không phải được thể hiện qua tên
tuổi lúc sinh tiền, cũng không phải qua những sáng tác hay những lời
thuyết giảng hùng hồn uyên bác cho đạo hữu, mà được thể hiện qua thể
cách viên tịch hoặc phong cách lúc tuổi già.
Một thiền sư có
thể đăng đàn thuyết pháp tràng giang đại hải về những pháp môn đem lại
“thân an tâm lạc” cho mọi người, được môn độ tung hô xưng tụng, nhưng
khi về già lại sống trong cảnh khổ não của lão thì giáo pháp mà họ giảng
dạy cho môn đồ cũng không có giá trị gì cho lắm. Giống như vào tiệm
thuốc bắc để bốc thuốc, nếu ông chủ tiệm thuốc không phải là người
phương phi, hồng hào khỏe mạnh, mà là một ông lão ho hen, lọm khọm thì
liệu ta có thể tin tưởng được các phương thuốc mà ông ta bán hay không?
Cho nên, với tôi, Bùi Giáng vẫn là một thiền sư thực sự. Ông sống bỡn
cợt giữa đời, rong chơi đầu đường xó chợ, làm thơ viết sách rồi an nhiên
mà đi. Nó mang phong cách của một thiền sư. Sư Khế Tung thường giận,
nhưng an nhiên ngồi kiết già mà hóa, làm lễ trà tỳ mà có năm món bất
hoại, lửa không thiêu nỗi, đó mới là chân thiền sư. Cái sân của Tô Đông
Pha, của Yamaoka lại giúp ta thấu ngộ được những điều mà lúc bình thường
ta không hiểu nỗi. Ngẫm ra, khi có đạo hạnh cao thâm, như sư Khế Tung,
thì cái sân cũng là Phật sự, đâu cần phải bỏ sân mà giữ hỷ. Đâu cần phải
đợi đến lúc viên tịch mới hiểu được giá trị của cái hỷ, cái sân.
(Báo GIÁC NGỘ số 266)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét