Lâm Vĩnh Thế - Địa Linh Nhơn Kiệt Của Nam Kỳ Lục Tỉnh |
Nhà giáo Võ Trường Toản (?-1792)
Trong thời gian hậu bán thế kỷ thứ 18, đất Nam Kỳ trãi qua một giai đoạn chiến tranh, với những trận đánh gần như liên tục giữa các lực lượng của Chúa Nguyễn và Tây Sơn, với kết quả sau cùng là nhà Tây Sơn bị diệt và Nhà Nguyễn được thiết lập với vị vua đầu tiên là Gia Long (1802-1820).
Chính trong thời gian này, nhà giáo Võ Trường Toản đã có công đào tạo được rất nhiều nhân tài của đất Gia Định về sau sẽ là những bậc khai quốc công thần rất lỗi lạc của triều Nguyễn.
Hiện nay vẫn chưa tìm được đầy đủ thông tin về nguồn gốc gia đình và ngày sanh của cụ Võ. Điều được biết chắc chắn là ông tổ của cụ là người Minh Hương, không chịu thần phục nhà Thanh, đã rời Trung Hoa, di tản sang Đàng Trong, Đại Việt, sinh sống tại làng Thanh Kệ, thuộc Dinh Quảng Đức (về sau là huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên), đến các đời sau thì di chuyển vào Miền Nam, sinh sống tại Bình Dương thuộc Gia Định. Cụ Võ là người tư chất thông minh, học rộng, có tài đức nhưng lúc đó trong nước loạn lạc, chiến tranh liên miên nên Cụ quyết chí dành trọn cuộc đời mình để đào tạo nhân tài cho tương lai, nhứt quyết không chịu ra làm quan dù được Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Ấnh, sau lên ngôi là vua Gia Long) lúc đó đã cho người đến mời cụ ra giúp. Để đáp lại hảo tâm của Chúa Nguyễn, cụ đã dâng lên cho Chúa một bảng kế hoạch gồm 10 điểm để bình định xứ sở. Cụ mất ngày Bính Tý (mùng 9), tháng Đinh Mùi (tháng 6) năm Nhâm Tý, (nhằm ngày 27-7-1792 dương lịch). Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc, đã ban cho cụ danh hiệu “Gia-ĐỊnh xử-sĩ Sùng-Đức Võ tiên sinh” với một đổi liễn điếu như sau:
Triều hữu huân danh, bán thuộc Hà Phần cựu học;
Đẩu nam phong giáo, tề khâm Nhạc Lộc dư uy.
Xin tạm dịch nghĩa như sau:
Tại triều đình tên đã rực rỡ, nửa phần do sở học từ đất Hà Phần (1)
Việc giáo huấn như ngôi sao sáng tại phương Nam, sánh bằng hương thơm ở đất Nhạc Lộc (2)
(Chú thích: (1) Hà Phần: chỗ ở và nơi dạy học của của Vương Thông (584-617), danh nho đời nhà Tùy; (2) Nhạc Lộc: chỗ ở và nơi dạy học của Chu Hi (1130-1200), danh nho đời Nam Tống)
Cụ được an táng tại làng Hòa Hưng, Gia Định. Sau khi 3 tỉnh Miền Đông Nam Kỳ bị quân Pháp đánh chiếm, do chủ trương của cụ Phan Thanh Giản, Kinh Lược Sứ đất Nam Kỳ và với sự hỗ trợ của cụ Nguyễn Thông, Đốc Học của tỉnh Vĩnh Long, mộ cụ được cải táng về làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri (Bến Tre).[1]
Lúc sinh tiền, tại nơi Cụ Võ dạy học, có lúc số môn sinh lên đến hàng trăm người từ khắp nơi về xin theo học. Một số khá đông môn sinh của Cụ đã trở thành những bậc khai quốc công thần của triều Nhà Nguyễn. Tác giả bài viết này chỉ xin được nêu ra một vài vị tiêu biểu như sau:
Ngô Tùng Châu (?-1801): người gốc Phù Cát, Bình Định, sau vào Nam, sinh sống tại Gia Định, và theo học với Cụ Võ. Sau khi chiếm lại được đất Gia Định từ quân Tây Sơn vào năm 1787, Nguyễn Vương ra sức xây dựng và phát triển vùng đất này để làm cơ sở tiến đánh và tiêu diệt Tây Sơn, thống nhứt đất nước. Nhờ có học, Ngô Tùng Châu được vào làm việc tại Viện Hàn Lâm. Năm 1789, Nguyễn Vương đặt ra chức Điền Tuấn Quan là chức quan có nhiệm vụ “đi về các trấn để khuyến khích, thúc đẩy và giúp đỡ dân làm ruộng.” [2] Ngô Tùng Châu đã được bổ nhiệm vào chức vụ Điền Tuấn Quan này. Ông thăng cấp dần lên đến Tham Tri Bộ Lễ, và được chỉ định làm thầy dạy (Phụ Đạo) cho Đông Cung Cảnh. Năm 1799, Nguyễn Vương đánh chiếm được thành Quy Nhơn, đổi tên lại là thành Bình Định, bổ nhiệm Ngô Tùng Châu làm Hiệp-Trấn cùng cai quản thành với tướng Võ Tánh. Năm 1800, đại quân Tây Sơn, do 2 tướng Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu chỉ huy, kéo đến vây thành Bình Định; viện quân của Nguyễn Vương không giải vây được. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đốc thúc binh sĩ hết sức cố gắng giữ thành được gần một năm. Mùa hạ năm 1801, binh sĩ quá mỏi mệt, lương thực cũng không còn, việc chống giữ thành không còn có thể thực hiện được nữa. Võ Tánh tự thiêu, sau khi quyết định giao thành cho quân Tây Sơn để đổi lấy sự an toàn tính mạng cho binh sĩ. Ngô Tùng Châu cũng quyết định chết theo thành bằng cách uống thuốc độc tự tử. Nguyễn Vương vô cùng thương tiếc. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã phong tặng Ngô Tùng Châu làm Tán Tri Công Thần, Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Trụ Quốc, Thái Tử Thái Sư, Quận Công, thụy Trung Ý, để thờ chung với Võ Tánh ở đền Hiển Trung tại Bình Định, và cũng cho được cùng thờ trong Thế Miếu tại Huế.[3]
Ngô Nhơn TỊnh (?-1813): cùng là học trò của Cụ Võ và cũng ra làm quan giúp Nguyễn Vương cùng một lúc với 2 bạn thân là Lê Quang Định và Trịnh Hoài Đức, lúc đầu lãnh chức Hàn Lâm Viện Thị Độc sau thăng dần lên đến chức Hữu Tham Tri Bộ Hình. Năm 1802, ông là Phó sứ cùng với Chánh sứ là Trịnh Hoài Đức sang Nhà Thanh để thông báo việc dứt nhà Tây Sơn và cầu phong. Năm 1811 ông là Hiệp-Trấn Nghệ An và đã vào kinh xin vua hoãn thuế cho dân. Năm sau, 1812, ông thăng lên làm Thượng Thư Bộ Công, và sau đó được bổ nhiệm chức Hiệp-Tổng-Trấn Gia Định Thành, phụ giúp cho Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt. Năm 1813, cùng với Lê Văn Duyệt, ông hộ tống vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước. Cũng trong năm này, ông bị gièm pha khiến vua Gia Long nghi ngờ, ông buồn phiền, mang bệnh mà mất, an táng tại làng Chí Hòa ở Gia Định, không được vua Gia Long truy tặng. Mãi đến đời vua Tự Đức ông mới được truy tặng Kim Tử Đại Phu, Chính Trị Vinh Lộc Thượng Khanh, tước Tịnh-Viễn-Hầu, thụy Túc-Gian và được đưa vào thờ tại miếu Trung Hưng Công Thần ở Huế. Lúc sinh thời, ông cùng hai bạn là Lê Quang Định và Trịnh Hoài Đức cùng sinh hoạt văn chương trong nhóm Bình-Dương Thi-Xã, và được dân chúng gọi chung là Gia Định Tam Gia.[4, 5]
Lê Quang Định (1760-1813): ông người Minh Hương, nguyên quán huyện Phú Vang, Thừa Thiên, mồ côi từ nhỏ, theo anh vào Nam, sống tại Bình Dương, theo học với Cụ Võ, và là bạn thân của hai ông Ngô Nhơn Tịnh và Trịnh Hoài Đức. Năm Mậu Thân 1788, khi Nguyễn Vương mở khoa thi chọn nhân tài giúp việc, ông cùng với Lê Quang Định dự thi và đều trúng tuyển. Ông được bổ làm Hàn Lâm Viện Chế Cáo, lo việc văn thư. Sau đó, ông cũng làm Điền Tuấn Quan cùng với Ngô Tùng Châu và Trịnh Hoài Đức một thời gian, sau thăng dần lên đến chức Hữu Tham Tri Bộ Binh, cùng với tướng Nguyễn Văn Nhân giúp Đông Cung Cảnh giữ thành Gia Định. Năm 1801, ông được triệu ra Bắc giữ chức Hiệp-Trấn Thanh Hóa, và năm sau, 1802, vua Gia Long lên ngôi và thăng cho ông lên làm Binh Bộ Thượng Thư, cầm đầu sứ bộ sang Nhà Thanh cầu phong. Sau khi trở về nước, ông tiếp tục giữ chức Binh Bộ Thượng Thư. Trong thời gian này, ông cũng được vua Gia Long giao cho nhiệm vụ biên soạn bộ sách địa dư chí đầu tiên của Nhà Nguyễn là bộ Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, gồm tất cả 10 quyển, 1268 trang, viết bằng chữ Hán, mà ông đệ trình lên vua Gia Long vào ngày 20 tháng 11 năm Bính Dần, niên hiệu Gia Long thứ 5 (nhằm ngày 29-12-1806).[6] Năm 1809, ông được vua Gia Long chuyển sang làm Thượng Thư Bộ Hộ kiêm quản luôn Khâm Thiên Giám. Ông mất năm 1813, và được đưa vua Gia Long cho đưa vào thờ trong miếu Trung Hưng Công Thần. [7, 8]
Trịnh Hoài Đức (1765-1825): ông cũng là người Minh Hương, cùng theo học cụ Võ Trường Toản với hai người bạn thân là Ngô Nhơn Tịnh và Lê Quang Định. Cùng với Lê Quang Định, ông tham dự và trúng tuyển kỳ thi do Nguyễn Vương tổ chức năm 1788. Khi mới bắt đầu sự nghiệp, ông cũng từng làm Hàn Lâm Viện Chế Cáo và Điền Tuấn Quan như Lê Quang Định, sau đó thăng dần lên đến Hữu Tham Tri Bộ Hộ vào năm 1794. Năm 1801, ông thăng lên Thượng Thư Bộ Hộ, và năm sau, 1802, được cử cầm đầu sứ bộ sang Nhà Thanh để báo đã diệt xong nhà Tây Sơn. Năm 1804, khi sứ đoàn nhà Thanh do sứ thần Tề Bố Sum cầm đầu sang Bắc Thành phong vương cho vua Gia Long, ông cũng chính là Thông Dịch Sứ của cuộc đại lễ này. Với vốn kiến thức cao về chính trị và văn hóa của cả nước nước Việt – Hoa, cùng với bản chất khiêm tốn và trung thành, ông được cả hai vua Gia Long và Minh Mạng rất tin dùng. Ông đã hai lần giữ chức vụ Hiệp-Tổng-Trấn Gia Định Thành (1808 và 1816, cũng như đã từng kiêm giữ chức Thương Thư của hai Bộ cùng một lúc (Bộ Lại và Bộ Binh vào năm 1821; và Bộ Lại và Bộ Lễ vào năm 1823), cai quản cả Khâm Thiên Giám, và Phó Tổng Tài Quốc Sử Quán (1821), Chánh Chủ Khảo Khoa Thi Hội (1822), và Tổng Tài biên soạn Ngọc Phả (1824). Ông mất năm 1825, thọ 61 tuổi, được vua Minh Mạng truy tặng Thiếu Phó Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ, thụy Văn Khắc, và cử Hoàng Tử Miên Định làm quan Khâm Sai đến tế.[9, 10] Ngoài những thi văn cá nhân cùng với hai bạn thân Ngô Nhơn Tịnh và Lê Quang Định, trong nhóm Bình Dương Thi Xã, kếp tập trong Gia Định Tam Gia Thi Tập, Trịnh Hoài Đức còn nổi tiếng với tác phẩm Gia Định Thành Thông Chí là một bộ địa chí và văn hóa nổi tiếng của vùng bất phía Nam của đất nước.[11] Riêng trong giới người Minh Hương, ông Trịnh Hoài Đức có một địa vị vô cùng đặc biệt, được mọi người tôn kính, gọi là Ông Trịnh, là người đã đích thân xét duyệt và chuẩn nhận Khoán Ước của Minh Hương Xã,[12] đến nay vẫn còn được thờ tại ngôi Đình Minh Hương Gia Thạnh [13] tọa lạc tại số 380 đường Trần Hưng Đạo B, quận 5, Chợ Lớn (Sài Gòn), với long vị như sau:
Đặc Tấn Vinh Lộc Đại Phu, Hữu Trụ Quốc, Thiếu Bảo Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ, Trịnh Văn Cách Công
và đôi liễn thờ như sau:
Yến Bắc Thượng Thơ Hàm, Quang Phân Sở Bửu
Việt Nam Hữu Trụ Quốc, Chủng Tiếp Châu Phan
(có nghĩa như sau:
Yến Bắc, Thượng Thơ hàm, thẳng ngay chói rạng
Việt Nam, Hữu Trụ Quốc, trong sạch noi gương)
Trong lịch sử giáo dục của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh chưa từng có một vị tôn sư nào đã đào tạo được nhiều vị khai quốc công thần cho triều đại Nhà Nguyễn như vậy cả. Cụ Võ Trường Toản thật xứng đáng được toàn thể dân chúng Miền Nam tôn là Cụ Tổ Giáo Dục cho toàn đất Nam Kỳ.
Nhà yêu nước Phan Thanh Giản (1796-1867)
Đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, với 3 tỉnh Miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) và 3 tỉnh Miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) là phần lãnh thổ của Việt Nam đã bị thực dân Pháp đánh chiếm trước tiên (1862-1867) nên cũng là vùng đất mà các cuộc nổi dậy chống Pháp cũng diễn ra đầu tiên trong nước. Người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh rõ ràng đã biểu hiện và tiếp nối truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, vốn là một nét văn hóa đặc thù trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Hàng loạt những cuộc khởi nghĩa đã nổ ra dưới sự lãnh đạo và hy sinh anh dũng của các vị khoa bảng và các tướng lãnh: 1) Nguyễn Trung Trực đốt tàu L’Espérance của Pháp trên sông Nhựt Tảo (1861), tiếp tục chống Pháp ở Kiên Giang cho đến khi bị Pháp bắt và xử tử hình (1868); trước khi thọ án tử, ông còn đủ đảm lược để cảnh cáo giặc Pháp như sau: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây;” 2) Thủ Khoa Huân, tên thật là Nguyễn Hữu Huân, đậu Thù khoa kỳ thi Hương tại Gia Định (1852), kháng chiến chống Pháp từ 1861 cho đến khi bị Pháp bắt được và xử tử hình (1875); 3) Trương Định, sau khi Pháp chiếm được Gia Định, đã tổ chức kháng chiến chống Pháp trong vùng Gò Công, Mỹ Tho, Tân An, Đồng Tháp Mười (1861-1864), được dân chúng tôn làm Bình Tây Đại Nguyên Soái, cho đến khi ông bị thương nặng và tuẩn tiết tại Gò Công.
Vượt lên trên tất cả những nhà ái quốc đã anh dũng hy sinh vừa kể (và còn nhiều, rất nhiều những vị khác nữa), tên tuổi cụ Phan Thanh Giản mãi mãi được người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh tôn kính vì hành trạng hết sức đặc biệt của cụ.
Cụ Phan Thanh Giản sanh vào giờ Thìn, ngày Giáp Thân (ngày 12) tháng Kỷ Hợi (tháng 10) năm Bính Thìn (nhằm ngày 11-11-1796 dương lich) [14] tại xã Bảo Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) trong một gia đình nghèo, và mồ côi mẹ vào năm 7 tuổi. Với sự giúp đở về tài chánh của một vị ân nhân, ông cố gắng theo đuổi việc học và đậu Cử Nhân trong kỳ thi Hương khoa Ất Dậu (1825) và trở thành vị Tiến Sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ vào năm sau tại kỳ thi Hội khoa Bính Tuất (1826). Ông làm quan cho Nhà Nguyễn trãi qua 3 triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, thăng đến cấp Hiệp Biện Đại Học Sĩ, và trở thành một đại thần từng giữ những chức vụ rất quan trọng: Thượng Thư càc Bộ Hình và Bộ Hộ, Tổng Tài Quốc Sử Quán, Kinh Lược Sứ Nam Kỳ, cũng như nhiều lần cầm đầu các sứ bộ đi Trung Quốc, Nam Dương, Singapore, Pháp và Tây Ban Nha, và cũng từng là Cơ Mật Viện đại thần.
Năm 1863, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông Nam Kỳ, ông được vua Tự Đức cử làm Chánh Sứ cầm đầu một sứ bộ sang Pháp để điều đình chuộc lại 3 tỉnh đã mất. Ông có dịp trông thấy tận mắt và khâm phục nền văn minh khoa học kỹ thụật, nền tảng của sức mạnh quân sự của Pháp. Do đó ông đã có 2 câu thơ sau đây ca tụng sức mạnh khoa học kỹ thuật của Pháp:
Bá ban xảo kế tề thiên địa
Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền
Dịch nghĩa:
Trăm chuyện đều hay tốt bằng trời đất
Chỉ có chuyện chết sống là thuộc quyền tạo hóa
Vì vậy, ông tuyệt đối tin chắc là nước nhà không thể nào thắng được Pháp về quân sự nên sách lược của ông là chủ hòa. Năm 1867, cũng vì lập trường chủ hòa này, ông đã để cho người Pháp chiếm dễ dàng luôn cả 3 tỉnh Miền Tây. Ông tự nhận thấy có tội đối với đất nước và dân tộc nên ông đã chọn cái chết bằng cách uống thuốc độc tự tử vào ngày Bính Thìn (mùng 5), tháng Mậu Thân (tháng7) năm Đinh Mão (nhằm ngày 4-8-1867 dương lich).[15]
Trong hơn 100 năm qua, đã có rất nhiều những lời buộc tôi ông, từ triều đình nhà Nguyễn, từ chính vua Tự Đức, từ những người Cộng sản, nhưng đối với người dân đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, cụ Phan vĩnh viễn vẫn được tôn kính như một vị quan thanh liêm, chính trực, thương dân, và một sĩ phu khiêm tốn, yêu nước chân chính. Ngôi mộ của cụ tại làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre luôn luôn được giữ gìn và chăm sóc thật tốt, như chúng ta thấy trong tấm ảnh bên dưới đây:
Hình mộ cụ Phan Thanh Giản tại xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre,ảnh LCT
Gần đây, “tại Sài Gòn ngày 16.8.03, tạp chí Xưa & Nay – Hội Khoa học Lịch sử VN, Hội đồng Khoa học Xã hội phối hợp tổ chức tọa đàm khoa học “Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” đã phổ biến một bản văn nói “Ý kiến đồng thuận chung là không thể coi Phan Thanh Giản là ‘kẻ bán nước.’ Nhân cách của Ông, cống hiến của Ông cho đất nước đã chiếm được tấm lòng ngưỡng mộ của nhân dân miền Nam.” Cuộc tọa đàm này là cuộc trao đổi tiếp theo hai cuộc hội nghị về những năm trước (1987 tại Bến Tre và 1994 tại Vĩnh Long) cũng nhằm đánh giá về cụ.” [16] Trong bài viết tổng kết cuộc hội thảo vô cùng quan trọng này, Tiến sĩ Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử VN, đã có những ghi nhận đáng chú ý như sau: “Trong hội thảo, chúng ta đã chỉ ra trách nhiệm của PTG trong trách nhiệm chủ yếu thuộc về Tự Đức và triều Nguyễn, nhưng tất cả chúng ta đều nhất trí không nên và không thể gán cho ông cái tội "bán nước" hay "phản bội tổ quốc"… Qua cuộc hội thảo này, chúng ta thấy rõ những mặt hạn chế và bế tắc của PTG, nhưng đồng thời chúng ta cũng trân trọng ghi nhận những cống hiến tích cực của ông trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp, đánh giá cao nhân cách và phẩm chất cao quý của ông… Kết quả cuộc hội thảo cũng là cơ sở khoa học để Tỉnh uỷ và Uỷ ban Nhân dân hai tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre tham khảo trong biên soạn các sách về danh nhân quê hương, về giáo dục truyền thống, về xử lý những di tích liên quan đến PTG. Chúng tôi trân trọng đề nghị bảo tồn và tôn tạo toàn bộ các di tích về PTG, nhất là ngôi mộ ở Bến Tre, Văn Thánh Miếu và Văn Xương Các ở Vĩnh Long nhằm ghi nhớ và phát huy những phẩm giá, nhân cách cao quý của một người trí thức nặng lòng yêu nước thương dân nhưng cuối đời đã lâm vào cảnh bế tắc, bi kịch trong một bối cảnh gian truân và đau thương của đất nước.” [17]
Cụ Nguyễn,Đình Chiểu tự là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phủ, sau đổi lại là Hối Trai, sanh vào giờ Dậu (từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối) ngày Bính Tuất (ngày 13) tháng Bính Ngọ (tháng 5) năm Nhâm Ngọ, tức năm Minh Mạng thứ 3 (nhằm ngày 1-7-1822 dương lịch) tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (thuộc về Sài Gòn ngày nay). Thân sinh của Cụ tên Nguyễn Đình Huy, gốc người tỉnh Thừa Thiên, vào Gia Định làm việc cho Tả Quân Lê Văn Duyệt tại Văn Hàn Ty thuộc dinh Tổng Trấn, và lập gia đình với thân mẫu của Cụ là bà Trương Thị Thiệt, và Cụ chính là con trai trưởng của hai người. Cụ Nguyễn có tất cả 6 người em, ba em trai và ba em gái; ba người em trai là Nguyễn Đình Tựu, Nguyễn Đình Tự, và Nguyễn Đình Huân; ba người em gái là Nguyễn Thị Thục, Nguyễn Thị Nữ, và Nguyễn Thị Thành.[18]
Năm 1833, vị vụ nổi loạn của Lê Văn Khôi sau khi Tả Quân Lê Văn Duyệt mất, thân sinh của Cụ tìm cách dưa Cụ về Huế học tập. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), Cụ được 21 tuổi, trở về Gia Định dự khóa thi Hương (Khóa Quý Mão) tại đây nhưng chỉ đậu được Tú Tài. Cụ tiếp tục cố gắng học. Năm Tự Đức thứ 3 (1849), Cụ trở ra Huế, chờ dự khóa thi Hương (Khóa Kỷ Dậu) một lần nữa, nhưng được tin mẹ mất, Cụ quyết định bỏ thi và trở về Gia Định để cư tang. Trên đường về Nam, vì quá thương mẹ, Cụ khóc quá nhiều, mang bịnh và bị mù cả hai mắt. Trong thời gian này cụ được một danh y hết sức chạy chửa nhưng không thành, tuy vậy, cụ có may mắn là được vị danh y này truyền cho nghề thuốc.[19]
Một năm sau, Cụ mới về đến quê nhà, mở trường day học để kiếm sống, sĩ tử nghe tiếng kéo đến xin thọ giáo rất đông. Từ đó trở đi Cụ nổi danh với tên “Đồ Chiểu” mà dân chúng dùng để gọi Cụ. Khi thành Gia Định thất thủ vào đầu năm 1859, cụ di chuyển về Cần Giuộc, và năm 1862 thì Cụ dọn về ở hẳn tại Ba Tri cho đến khi Cụ qua đời.[20] Cụ mất vào ngày Ất Hợi (ngày 24) tháng Mậu Ngọ (tháng 5) năm Mậu Tý (nhằm ngày 3-7-1888 dương lich, hưởng thọ 66 tuổi.[21] Ngày đưa tang Cụ, cả cánh đồng tại làng An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre trắng xóa khăn tang của bạn bè, môn sinh, cùng thân chủ được Cụ chửa khỏi bệnh và của bao người mến mộ tài năng, đức độ và lòng yêu nước của cụ.[22]
Cụ để lại một sự nghiệp văn chương rất đáng kể với các thi phẩm chữ Nôm lừng danh như Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp, và nhiều bài văn tế cũng rất nổi tiếng như Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc, Văn Tế Lục Tỉnh Sĩ Dân Trận Vong.
Biết rõ ảnh hưởng rất lớn của Cụ đối với giới sĩ phu và dân chúng Nam Kỳ Lục TỈnh, chính quyền Pháp đã nhiều lần tìm cách tiếp cận và mua chuộc Cụ nhưng đều không thành vì Cụ cương quyết không hợp tác với họ. Mặc dù vậy, một số khá đông người Pháp rất ngưỡng mộ Cụ và vì vậy họ đã có nhiều cố gắng giúp phổ biến tác phẩm Lục Vân Tiên nổi tiếng của Cụ không những cho người Việt mà còn cho cả người Pháp như chúng ta có thể thấy trong các phần kế tiếp sau đây của bài viết.
Tác phầm nổi tiếng nhứt của cụ, truyện thơ chữ Nôm Lục Vân Tiên, đã được in ra bằng chữ Quốc ngữ hai lần vào hậu bán thế kỷ thứ 19, lần đầu tiên vào năm 1867 (ngay khi Cụ còn tại thế) do một người Pháp là G. Janneau sao lục và chú thích, lần thứ nhì vào năm 1889 do văn hào Petrus Trương Vĩnh Ký sửa chửa. Ngoài ra, tác phẩm này cũng đã được dịch sang tiếng Pháp vào năm 1885 bởi Eugène Bajot, và đã được nhà xuất bản Challamet Ainé in vào năm 1887 tại Paris với nhan đề “Histoire du grand lettré Louc-Van-Te-ien.” [23]
Gần đây nhứt, năm 2010, Trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp (Ėcole française d’Extrême-Orient = EFEO) đã phát hiện được một tài liệu quý hiếm về tác phẩm Lục Vân Tiên đã bị bỏ quên, ngủ yên hơn một trăm năm trong sưu tập của Viện Hàn Lâm Văn Khắc và Văn Chương (Académie des Inscriptions et Belles-Lettres). Đó là tác phẩm Vân Tiên cổ tích truyện, minh họa bằng tranh mầu do Giám Thủ Thư Sử Lê Đức Trạch thực hiện, có đề ngày 18 tháng 6 niên hiệu Thành Thái thứ 9 (nhằm ngày 17-7-1897):
Nguyên văn chữ Hán là như sau:
Cột chữ lớn ở bên trên: Vân Tiên Cổ Tích Truyện
4 cột chữ nhỏ ờ bên dưới, đọc từ phải qua trái và từ trên xuống dưới:
. Thành Thái cửu niên lục nguyệt
. thập bát nhựt Giám thủ
. thư sử Lê Đức Trạch
. chế họa đồ thức
Cuốn truyện tranh mầu này được thực hiện theo yêu cầu của một sĩ quan người Pháp là Đại Úy Pháo Binh Eugène Gibert lúc đó đang phục vụ tại Huế, dựa trên bản dịch ra tiếng Pháp của Abel des Michels do nhà xuất bản Ernest Leroux ấn hành năm 1883 tại Paris. Sau khi trở về Pháp, ông Gibert đã trao tặng tác phẩm này cho Académie des Inscriptions et Belles-Lettres vào ngày 26-5-1899.
Ý thức được giá trị lớn lao của tác phẩm này đối với văn hóa Việt Nam, EFEO đã biên tập và chuyển ngữ tác phẩm để xuất bản tại Pháp và tại Việt Nam. Tác phẩm này đã được EFEO đồng xuất bản với Nhà Xuất Bản Văn Hóa – Văn Nghệ của Việt Nam (bằng ba ngôn ngử Việt-Pháp-Anh, và gồm 2 tập) vào năm 2016:
Sự khám phá quan trọng này đã được công bố trong một buổi lễ long trọng có triển lãm tại Tòa Tổng Lãnh Sự Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 30-5-2016:[24]
Thay Lời Kết
Vùng đất phía Nam của tổ quốc, tuy là một vùng đất mới, chỉ có lịch sử hơn 300 năm thôi, nhưng đã có những đóng góp rất đáng kể trong lịch sử cận và hiện đại của nước nhà về cả hai phương diện chính trị và kinh tế. Riêng về mặt văn hóa, càng ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu phát hiện và xác định rõ ràng những đóng góp lớn lao, không thể chối cải được, của vùng đất Nam Kỳ Lục Tỉnh vào nền văn hóa chung của dân tộc Việt Nam. Bài viết này cố gắng phác họa lại sự nghiệp của một vài nhân vật tiêu biểu cho những đóng góp về mặt văn hóa đó.
https://drive.google.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét