Tôi đã nhận được nhiều câu hỏi về các báo cáo tin tức gần đây cho rằng một số loại thuốc thông thường làm tăng nguy cơ mất trí nhớ. Các báo cáo này tập trung vào nhóm thuốc kháng cholin, là nhóm thuốc có nhiều thương hiệu nổi tiếng về các loại thuốc kháng histamine được bán không theo toa và một số thuốc chống trầm cảm và giãn cơ bán theo toa. Khoảng 20 phần trăm người lớn tuổi thường xuyên dùng các loại thuốc này.
Một nghiên cứu đã theo dõi 3434 người lớn tuổi (độ tuổi trung bình là 73 tuổi), những người này đã sử dụng các loại thuốc kháng cholin tính theo hồ sơ dược lý trong 10 năm và sau đó họ được kiểm tra chứng mất trí nhớ sau mỗi hai năm. Qua bảy năm tiến hành kiểm tra, 797 người tham gia (chiếm 23,2 phần trăm) phát triển chứng mất trí. Những người tham gia sử dụng thuốc dù liều lượng thấp, kéo dài, đều tăng nguy cơ bị mất trí nhớ, và những người dùng liều lượng càng cao, thời gian dùng càng dài, thì nguy cơ họ bị mất trí nhớ càng lớn. Những người thực hiện nghiên cứu nhấn mạnh rằng họ không chứng minh được các loại thuốc này gây ra chứng mất trí nhớ, mà chỉ thấy có một mối liên hệ giữa việc dùng các loại thuốc này và sự gia tăng nguy mắc chứng mất trí nhớ.
Những người này cũng chỉ ra rằng những người dùng liều lượng cao các loại thuốc giảm đau thuộc nhóm opioid hoặc thuốc chống viêm không chất kích thích steroid (NSAID) cũng có nguy cơ mắc bệnh mất trí nhớ cao. Kết quả của họ mâu thuẫn với các ý kiến trước đó cho thấy không có mối liên quan giữa thuốc opioid và mất trí nhớ.
Thuốc kháng cholin là gì?
Các thuốc kháng cholin bao gồm các chất kháng histamine như diphenhydramine (tên thương mại là Benadryl) và chlorpheniramine để điều trị chứng mất ngủ và dị ứng; oxybutynin và tolterodine có tác dụng cho chứng hoạt động quá mức của bàng quang, và nhóm chống trầm cảm như doxepin hoặc amitriptyline để điều trị trầm cảm, đau nửa đầu và đau nhức.
huốc kháng cholin chặn acetylcholine gửi tín hiệu từ dây thần kinh này đến dây thấn kinh khác. Acetylcholine truyền tín hiệu cho các hệ thần kinh đối giao cảm di chuyển cơ trơn trong đường tiêu hóa, tiết niệu, và vùng phổi. Chúng thường được dùng để điều trị:
T- rối loạn tiêu hóa (viêm dạ dày, tiêu chảy, co thắt môn vị, viêm túi thừa – thành ruột phình thành túi nhỏ, viêm loét đại tràng, chứng buồn nôn, nôn mửa)
- rối loạn tiết niệu (viêm bàng quang, viêm niệu đạo, viêm tuyến tiền liệt)
- rối loạn hô hấp (dị ứng, hen suyễn, viêm phế quản mãn tính)
- nhịp tim chậm do một dây thần kinh phế vị hoạt động quá mức
- mất ngủ
- chóng mặt
Những khuyến nghị của tôi
Nghiên cứu này không khuyến nghị bạn ngừng dùng các loại thuốc mà bạn đang dùng, nhưng tôi tin rằng việc trao đổi với bác sĩ để hạn chế tối đa lượng thuốc mà bạn cần sử dụng là cần thiết. Mỗi viên thuốc mà bạn mà bạn uống vào sẽ có thể có tác dụng phụ hoặc hậu quả lâu dài, thậm chí có những tác dụng phụ chưa được công bố. Đặc biệt nếu bạn dùng các loại thuốc không kê đơn để điều trị các triệu chứng khó chịu nhưng không thể chịu đựng nổi, hãy luôn tự hỏi mình rằng lợi ích của loại thuốc đó có hơn quá các tác dụng phụ có thể có của nó không. Thật không may, không ai trong chúng ta biết câu trả lời thực sự cho câu hỏi đó.Gabe Mirkin đã làm bác sĩ hơn 50 năm. Ông có chứng nhận được hoạt động trong các lĩnh vực y khoa thể thao, dị ứng và miễn dịch học, nhi khoa, và miễn dịch ở trẻ em. Bài viết này đã được đăng lần đầu tiên tại DrMirkin.com.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét