Xin mời quý thân hữu cúng tôi đọc 1 bài thơ trăng:
Bài thơ Tỉnh dạ tư của Lý Bạch
(Ảnh chụp bài thơ Tĩnh dạ tư/ Lý Bạch/ Google)
Tĩnh dạ tư/ Lý Bạch
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu, vọng minh nguyệt,
Đê đầu, tư cố hương.
***
Bản chữ Hán
Tĩnh dạ tư / Lý Bạch
靜 夜 思 / 李 白
静 夜 思 / 李 白
牀 前 明 月 光
疑 是 地 上 霜
舉 頭 望 明 月
低 頭 思 故 鄕
Diễn thơ
Bài 1:
• Đêm vắng nặng sầu tư / Lý Bạch
Trước giường, trăng lồng lộng,
Ngỡ ngàng như giáng sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Ngân Triều dịch
*****
Bài 2:
Nỗi nhớ đêm trăng
Đầu giường ngó bóng trăng soi,
Mơ màng ngỡ đám sương rơi mặt đường.
Ngẩng đầu trăng sáng như gương,
Cúi đầu sao nhớ quê hương nghìn trùng!
Trúc Khê dịch
***
Lời bình Ngân Triều
Bài thơ Tĩnh Dạ Tư, đã đến với Ngân Triều trong năm học Văn Khoa 1967 -
1968, lúc ra trường Sư Phạm SaiGon được 2 năm. Để từ đó, chàng sinh
viên học Toán, mới có dịp làm quen với Thơ Đường, càng làm quen, càng
đắm đuối, mê say vì ý tại ngôn ngoại, 意 在 言 外, có ý nghĩa sâu sắc ở
ngoài ngôn từ.
静 夜 , “tĩnh dạ”,đêm lặng lẽ, đêm quạnh vắng, đêm nặng sầu tư.
思 , “tư” là lo nghĩ, buồn nhớ.
Cho nên, để dịch thoát ý có thể dịch tiêu đề là “Đêm vắng nặng sầu
tư” là sát nghĩa. Còn đêm trăng sáng, ánh trăng mờ ảo, ánh trăng như
sương rơi, ngắm trăng, nhớ quê xưa là những chi tiết của nội dung bài
thơ.
Hai câu đầu:
牀 前 明 月 光
疑 是 地 上 霜
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Trước giường, trăng lồng lộng,
Ngỡ ngàng như giáng sương.
Ánh trăng sáng, minh nguyệt quang, 明月光 , trước giường, sàng tiền, 牀
前 , ta cứ ngỡ là, nghi thị, 疑 是 , sương trời rơi trên đất, địa thượng
sương.
Ý tại 意 在 thì đơn sơ như thế. Ngôn ngoại 言 外 thì nào ai
biết, nào ai hay? Biết chăng ai? Đời ta có lắm nỗi sầu. làm sao cho vơi
hết lòng phiền muộn? Chỉ mượn tửu thôi!
Dục phá sầu thành tu dụng tửu
Tuý tự tuý đảo sầu tự sầu
Vịnh sầu tình, Nguyễn Công Trứ
欲 破 愁 城 須 用 酒,
醉 自 醉 倒 愁 自 愁.
Nghĩa là:
Muốn phá thành sầu phải dùng rượu,
(Nhưng) Say tự say gục, (mà) sầu vẫn cứ sầu.
Là vậy. Phiền muộn. Nâng chén, cứ nâng chén! Khi say, có ai
còn nhớ chi đâu…mà buồn? Khi tỉnh giấc men, thì hỡi ôi, “đạo quân
buồn”, không biết ở đâu… lại kéo đến, lại giằng xé thân ta và hồn ta.
Thân thể ta hụt hẫng, chao đảo, tâm hồn ta quằn quại, thê lương!
Phải chăng, ta vừa tỉnh giấc sau một cơn say! Có gì sáng lòa
trên đầu giường? Sương giáng! Không phải! Ha ha!...Sáng trăng! (Đã say,
quên trời đất, quên cả tấm thân hèn! Cái đầu lú lẫn, hoang mang…“sáng
trăng, ta cứ ngỡ là sương giáng”!). Sáng trăng à! Trăng ở phía nào vậy?
Ngắm trăng!…
Hai câu kết
舉 頭 望 明 月
低 頭 思 故 鄕
Cử đầu, vọng minh nguyệt,
Đê đầu, tư cố hương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Ngẩng đầu… nhìn trăng sáng! Kìa là một vầng trăng tỏ rạng
giữa trời. Ánh trăng vằng vặc, mát dịu, nao lòng.Trăng đêm nay, có phải
là trăng của ngày xưa? (Trăng vẫn khả ái, diệu hiền, vẫn yểu điệu thục
nữ, duyên dáng, bẽn lẽn, e ấp, hồn nhiên, thơ ngây ở tuổi mới lớn, ngày
xưa. Tôi vẫn mãi nhớ bóng trăng xưa ấy. Nhưng trăng sáng quá và xa xôi
quá! Lòng tôi cứ khư khư giữ mãi những kỷ niệm xao xuyến, những rung
động chơi vơi của tuổi học trò. Bóng trăng xưa đó đã ấp ủ trong tôi một
trời mơ ước lãng mạn, xa vời. Vì một khoảng cách xa gần nhút nhát đầu
đời, không dám tiếp cận, ngỏ lời, cũng là một ngăn cách vô duyên. Thế
nên, vầng trăng xưa lộng lẫy, đài các, kiêu sa… sao hiểu được những
tiếng tơ lòng đa cung bậc của người ái mộ?!)
Ô hay! Lại đa
nhân cách rồi! Ở đây là tâm tình của tác giả, của lão-lão-tiền- bối,
bậc thi tiên vĩ đại của nhà Đường. Ông chỉ diễn đạt đơn sơ về động thái
ngẩng đầu lên, ngắm nhìn vầng trăng sáng, nhìn lên cung quảng tìm chị
Hằng, tìm thằng Cuội bên cây đa cổ tích. Hằng Nga là một mỹ nhân tuyệt
trần. Mỹ nhân xưa thường ẩn dụ cho thánh đế anh minh hay đất nước, quê
hương yêu dấu xa xôi. Xin thử đọc lại mấy câu thơ của Tô Thức, (Đỗ Phủ),
được trích dẫn:
Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang.
Diễu diễu hề dư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.
Vịnh Tiền Xích Bích, Nguyễn Công Trứ
桂 掉 兮 蘭 䊢
擊 空 明 兮 泝 流 光
渺 渺 兮予 懷
望 美 人 兮 天 一 方
Chèo ta, cây quế (hề) dầm ta, cây lan
Khua chèo lên khoảng nước sáng (hề) ngược dòng sáng trôi.(Thấy ánh trăng tan lung linh trên mặt sóng)
Vời vợi (hề) ta thương nhớ
Mong ngóng bóng mỹ nhân (hề) một phương trời.
Diễn thơ:
Đêm trăng, chèo quế, dầm lan,
Ngược dòng lấp lánh, trăng tan ngời ngời.
Lênh đênh mong ngóng bóng người
Thiết tha, vời vợi, phương trời, miên man.
Ngân Triều diễn thơ
Như vậy, phải chăng vầng trăng sáng lơ lửng trên cao như
thánh đế hay quê hương yêu dấu, giờ đây ta đã xa cách nghìn trùng?
Cúi đầu…nhớ cố hương.
Cố hương, 故 鄕,là quê cũ của mình, nơi chôn nhao cắt rún, nơi
được sinh ra và lớn lên, nơi đã trải qua một thời thơ ấu thú vị thần
tiên, không bao giờ quên. (village d’origine; terre natale).
Do đó, khi phải sống xa nhà thì nỗi nhớ trào dâng chất ngất quặn lòng:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Hoàng Hạc Lâu,Thôi Hiệu
日 暮 鄉 關 何 處 是
煙 波 江 上 使 人 愁
Nghĩa là:
Chiều tà rồi, không biết quê hương, giờ (ở) nơi nao?
(Nhìn) khói sóng trên sông, khiến lòng buồn (không dứt).
(Thuyền trôi, nhìn khói sóng trên sông, trong nắng chiều
tắt dần, chạnh tưởng bữa cơm chiều đoàn tụ, dưới mái ấm gia đình hạnh
phúc, tấm thân giờ phiêu bạt phương trời, nỗi nhớ nhà, (niềm thương nhớ
quê hương) dậy sóng miên man, làm sao kể xiết!).
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
Tản Đà diễn thơ
Cũng cùng tâm tình ấy, nhưng ý thơ tân kỳ, hiện đại: (Tân kỳ
và hiện đại ở chỗ, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà, tâm tình cao hơn
một bậc, vì có khói hoàng hôn, nhớ nhà là điều đương nhiên).
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng Giang, Huy Cận
(Chiều xuống, lớp lớp mây cao từ đâu chụm đầu ngủ quanh
đỉnh núi bạc xa lạ, có một con chim nhỏ nghiêng cánh, tìm nơi trú thân
qua đêm. Lòng riêng xao động miên man theo sóng nước xa vời trên sông.
Mặt sông không có khói sóng nhưng nhớ nhà không khuây).
Xin hãy trở lại với hai động thái của nhân vật trữ tình. Cử đầu 舉 頭 và
đê đầu, 低 頭 đối lập nhau, lại kết hợp với nhóm từ ngữ vọng minh
nguyệt, 望 明 月, và tư cố hương, 思 故 鄕 rất hàm súc, gợi tả và hoa mỹ
như những nét chấm phá độc đáo của nghệ thuật tranh thủy mạc, tuyệt vời.
Đó là hai động thái nhìn sự vật cụ thể và nhìn sự vật trong
tâm tưởng để thấy tính cách của nhân vật trữ tình chan chứa những cảm
xúc hoang mang, buồn nhớ ngập lòng:
Cử đầu, vọng minh nguyệt,
Đê đầu, tư cố hương.
舉 頭 望 明 月
低 頭 思 故 鄕
Vọng minh nguyệt, 望 明 月, nhìn bằng mắt thường, để thấy cái đẹp xa vời, ngoài tầm tay trong hiện thực bấy giờ.
Tư cố hương, 思 故 鄕, là “nhớ” cố hương, cũng chính là nhìn,
nhìn trong tâm khảm, nhìn trong tâm tưởng để thấy lại những nỗi nhớ
thương, ray rứt…trong những kỷ niệm vui buồn, yêu dấu, dâu bể, đa đoan.
Tóm lại, từ những chi tiết của ánh trăng sáng trước giường
như trời đầy sương trắng; của một người cô lữ ngẩng đầu, cúi đầu nhìn
trăng và nhớ cố hương; hòa với một tâm trạng ngỡ ngàng pha chút hoài
nghi và thương nhớ mênh mông …người đọc có thể suy diễn nỗi lòng của
nhân vật trữ tình, của tác giả. Đó là một tâm trạng ai hoài, của đêm
trăng nặng sầu tư thương nhớ, bao la.
Có ai nhìn trăng mà
không nhớ bóng trăng xưa? Trăng đêm nay, có phải là trăng của đêm ấy?
Tâm hồn ai, biết có dịu dàng, trong sáng, rạng ngời, thiết tha như ánh
trăng muôn thuở?
Tĩnh dạ tư, Đêm trăng nặng sầu tư, thật là một bài thơ ý tại ngôn ngoại, tả cảnh-tả tình. sâu lắng, mượt mà!
Thân mến,
Ngân Triều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét